Trang tiếng Anh

      Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt

   

...... ... .  . .  .  .
Những Bài Giảng Tóm Tắt
Của Khóa Thiền Minh Sát Mười Ngày

NỘI DUNG

  1. Giới thiệu của dịch giả
  2. Lời nói đầu
  3. Chú ý về Văn bản

Bài giảng ngày thứ nhất

  1. những khó khăn ban đầu
  2. mục đích cho vấn đề thiền định này
  3. tại sao sự phấn khởi được chọn như là điểm khởi đầu.
  4. Bản chất của tâm
  5. Lý do về những khó khăn và cách khắc phục chúng
  6. Những nnguy hiểm cần phải tránh

Bài giảng của ngày thứ hai

  1. định nghĩa phổ quát về tội và phước
  2. bát thánh đạo: giới và định

Bài giảng ngày thứ ba

Bát thánh đạo: trí tuệ: trí tuệ do truyền đạt, trí tuệ bằng tri thức, trí tuệ bằng kinh nghiệm.

  1. kalāpā: bốn yếu tố
  2. ba đặc tính: vô thường, bản chất huyển hóa của Ngã, và khổ.

d. Sự thể nhập qua thực tại hiển nhiên

Bài giảng của ngày thứ tư

  1. Những câu hỏi liên quan đến vấn đề làm sao để thực hành thiền Vipassana
  2. Qui luật về giáo lý nghiệp quả
  3. Sự quan trọng của hành động thuộc về tâm
  4. Bốn sự tập hợp của tâm:sự hiểu biết (ý thức), sự nhận thức, sự cảm thọ , sự phản ứng
  5. Duy trì tỉnh thức và xả là phương cách đoạn trừ khổ

Bài giảng của ngày thứ năm

  1. Tứ thánh đế: khổ đế, nnguyên nhân của khổ, sự đoạn diệt khổ và con đường đoạn diệt khổ
  2. Chuổi mắc xích của sự sinh khởi có điều kiện

Bài giảng của ngày thứ sáu

  1. tầm quan trọng của sự phát triển tỉnh thức và niệm xả đối với các cảm thọ
  2. Bốn yếu tố và mối quan hệ của chúng với cảm thọ
  3. Bốn nguyên nhân của sự sinh khởi một sự việc
  4. Năm hạ phần kiết sử: tham, sân, và hôn trầm thân và tâm, trạo cử, nghi ngờ

Bài giảng của ngày thứ bảy

  1. Tầm quan trọng của sự xả ly đối với các cảm thọ thô và tế
  2. Sự duy trì tỉnh thức liên tục
  3. Năm người bạn (năm lực): niềm tin, nổ lực , chấnh niệm, thiền định , trí tuệ

Bài giảng của ngày thứ tám

  1. Qui luật của số nhân và sự ngược lại của nó
  2. Qui luật của sự đoạn trừ
  3. Sự xả ly là sự an lạc tối thượng
  4. Sự xả ly có thể làm cho chúng ta sống một đời sống của hành động chân thật
  5. Bằng sự duy trì xả ly, chúng ta xác định một tương lai hạnh phúc cho chính chúng ta

Bài giảng của ngày thứ chín

  1. Sự áp dụng phương pháp vào đời sống hàng ngày
  2. Mười ba la mật (param­ )

Bài giảng của ngày thứ mười

Ôn lại phương pháp hành trì

Bài giảng của ngày thứ mười một

Làm thế nào để duy trì sự thực hành sau khi đã chấm dứt khóa thiền

ĐÔI LỜI GIỚI THIỆU VỀ KHÓA THIỀN MƯỜI NGÀY

Trước khi nói về phương pháp và lợi ích của thiền Minh Sát Tuệ, chúng ta cần điểm qua một số vấn đề liên quan đến “pháp môn thiền định” Phật giáo. Gần đây, dường như pháp môn thiền của Phật giáo bị lãng quên và không còn đóng vai trò quan trọng trong đời sống tu tập của tu sĩ. Ðây là một trong những nguyên nhân khiến cho Phật giáo bị biến dạng và mất đi sức mạnh nội tại. Ðiều đáng buồn nhất là một số tín đồ cũng như tu sĩ Phật giáo không biết gì về pháp môn thiền định Phật giáo lại phát biểu mang tính võ đoán và sai lầm rằng: “Tu thiền sẽ bị điên hoặc tẩu hoả nhập ma”. Ở đây người dịch xin xác quyết rằng, tu tập đúng phương pháp thiền Phật giáo, hành giả không bao giờ bị những điều tai hại như vậy. Nếu ai tu thiền bị điên hoặc tẩu hoả nhập ma, chắc chắn người đó đã tu lạc pháp hoặc tu theo thiền định của ngoại đạo chứ không phải của Phật giáo, vì tu tập thiền Phật giáo, sớm hay muộn người đó sẽ loại trừ được tâm loạn động, vô minh. Nhiều thống kê hiện nay cho biết rõ pháp môn thiền Minh Sát Tuệ của Phật giáo đã giúp rất nhiều người giải toả những tâm bệnh căng thẳng, đạt được tâm bình thản và an lạc trong cuộc sống. Ngoài ra, thiền Minh Sát Tuệ còn mang lại nhiều lợi ích khác cho người hành thiền và tha nhân.

Ở đây, người dịch đứng trên lập trường giáo lý của đạo Phật xin trình bày một vài nhận thức cá nhân về giáo lý thiền của Phật giáo, đặc biệt là thiền Minh Sát Tuệ.

Không ai từ chối sự thật là đức Phật Thích-ca đã chứng quả chánh đẳng chánh giác dưới cội Bồ-đề nhờ tu tập thiền quán. Và chứng tích rõ ràng hơn là kinh điển được ghi lại trong cả hai truyền thống: Phật giáo Nguyên thuỷ dựa vào năm bộ Nikāya (Pañca-nikāyā) và Phật giáo Phát triển dựa vào bốn bộ A-hàm (Āgama) đều nhấn mạnh thiền định là pháp tu căn bản nhất để loại trừ mọi tập khí phiền não của thân và tâm. Cụ thể hơn nữa, khi đọc vào những bản kinh, chúng ta thấy chư vị đệ tử của đức Phật thành tựu thánh quả từ quả Tu-đà-hoàn đến quả A-la-hán hầu như đều nhờ vào việc tu tập thiền định.

Thiền định mang lại kết quả an lạc, hạnh phúc ở nhiều mức độ khác nhau ngay trong hiện tại chứ không phải mong cầu kết quả viễn vong ở tương lai. Ðiều cốt yếu nhất của thiền định Phật giáo là tu tập nơi thân và tâm chúng ta. Thân và tâm này là đầu mối của luân hồi đau khổ và cũng là công cụ để giải thoát khổ đau. Không ai hoặc quyền lực nào đủ khả năng và thẩm quyền can thiệp vào đau khổ cũng như giải thoát của chúng ta. Chính chúng ta làm chúng ta đau khổ và cũng chính chúng ta tu tập để giải thoát.

                  Tu tập thiền Minh Sát Tuệ dựa vào nền tảng tu tập của Giới, Định và Tuệ. Tuy nhiên, nét đặc trưng của thiền Minh Sát Tuệ là duy trì tâm tỉnh giác và bình thản để quán sát những cảm thọ sinh khởi trên thân mà không phản ứng lại. Nhờ quán sát như vậy, hành giả sẽ loại trừ dần các tập khí quá khứ và hiện tại đồng thời chứng nghiệm thực tại vô thường, khổ và vô ngã của các hiện tượng trong thân và tâm. Chỉ có thực nghiệm này mới có thể giúp hành giả đoạn trừ tập khí phiền não và đạt được giải thoát.

Hiện nay, Phật giáo ở Ấn độ chỉ là một tôn giáo thiểu số so với Hin-du giáo, tuy nhiên điều đáng mừng nhất là phương pháp thiền Minh Sát Tuệ được áp dụng rộng rãi ở quốc gia này. Ngay cả các trường huấn luyện cảnh sát, các nhà tù lớn và những bệnh viện tâm thần đều có những khoá tu tập thiền Minh Sát Tuệ định kỳ cho các cán bộ, tù nhân và bệnh nhân. Các trung tâm thiền Minh Sát Tuệ cũng phát triển rộng rãi ở Thái Lan và Miến Điện. Rất nhiều người bản xứ và ngoại quốc tham gia những khoá tu thiền Minh Sát Tuệ và nhiều người sau khoá tu đã ở lại trung tâm để phục vụ cũng như tiếp tục tu tập. Nhiều trung tâm thiền Minh Sát Tuệ do người ngoại quốc trực tiếp hướng dẫn.

Ðiều này cho thấy rằng thiền Minh Sát Tuệ không phải là pháp môn chỉ dành riêng cho giới tu sĩ Phật giáo mà đây cũng là pháp môn phổ cập cho mọi người. Ở nước ta, phương pháp tu tập thiền định của Phật giáo Việt Nam từ xưa đến nay dường như chỉ giới hạn cho giới xuất gia và bị ảnh hưởng phương pháp thiền Trung Quốc và Nhật bản hay còn gọi là Tổ Sư thiền. Phương pháp thiền Nguyên Thuỷ hay Như Lai thiền không được quan tâm và hành trì nhiều. Khuyết điểm lớn là giới Phật tử Việt nam không được khuyến khích tu tập thiền định và không có những trung tâm để cho Phật tử cũng như bất cứ ai từ bất cứ tôn giáo nào muốn tham dự đều có thể tham dự được. Một điều làm chúng tôi luôn thao thức, trăn trở, đó là làm thế nào để hình thành những trung tâm tu tập thiền Minh Sát Tuệ trên đất nước Việt Nam của chúng ta. Phật giáo Việt Nam được xem có nguồn gốc gần 2000 năm lịch sử, có hệ thống tổ chức từ trung ương đến địa phương, có nhiều tu sĩ và Phật tử, thiết nghĩ chúng ta nên cố gắng tập trung mở rộng truyền bá thiền Minh Sát Tuệ vì hạnh phúc và an lạc vô cùng tận cho bản thân, gia đình và xã hội.

Bản nguyên tác tiếng Anh “The Discourse Summaries” được dịch sang tiếng Việt là “Những Bài Giảng Tóm Tắt của Khoá Mười Ngày Tu Tập Thiền Minh Sát Tuệ” do Thiền sư Goenka thuyết giảng trong thời gian Ngài hướng dẫn Thiền sinh tu tập thiền Minh Sát Tuệ khóa mười ngày. Nhìn qua họa đồ giảng dạy của khoá tu mười ngày, chúng ta thấy hành giả được hướng dẫn tu tập từng bước, tịnh tiến. Nội qui và thời khóa biểu thực hành mỗi ngày, đặc biệt nhất là phải giữ im lặng (tịnh khẩu) tối đa trong chín ngày cùng với việc thọ trì tam quy, ngũ giới được xem như là nền tảng của giới cho khóa tu. Mỗi ngày ngồi thiền mười giờ, trong ba ngày rưỡi đầu hành giả chủ yếu thực tập phương pháp tịnh chỉ tâm thức (phương pháp định tâm) qua việc theo dõi hơi thở ra vào giúp hành giả dừng lại vọng niệm và đồng thời tập nhận ra cảm thọ quanh vùng mũi. Sáu ngày rưỡi còn lại là thời gian hành trì thiền Minh Sát Tuệ (Vipassana), thực tập tuệ quán các cảm thọ sanh khởi trên toàn thân với tâm chánh niệm và xả ly. Tập sách mỏng bao gồm mười một bài pháp giảng giải những khúc mắc cho hành giả trong suốt khoá tu được xem như là cẩm nang quý báu. Nhận thấy sự cần thiết và hữu ích của tập sách, chúng tôi đã cố gắng chuyển sang Việt ngữ để giúp cho những vị đang tìm hiểu hoặc đã tiếp cận với pháp môn thiền định Phật giáo đặc biệt thiền Minh Sát Tuệ xác định đúng đắn và vững tin vào con đường tu tập của mình.

Nhân dịp phiên dịch tập sách này, chúng tôi có cơ hội ôn lại và hiểu thêm về phương pháp hành trì thiền Minh Sát Tuệ. Chúng tôi dịch trung thành với nội dung của mười một bài giảng và ghi chú cần thiết những phần trích dẫn liên quan đến Kinh, Luật và Luận nếu có trong mười một bài giảng. Ngoài ra có những đoạn trong nguyên bản quá cô đọng hoặc một số thuật từ khó hiểu, chúng tôi có giải thích bổ sung thêm phần trong ngoặc để người đọc dễ hiểu hơn. Khi bắt tay vào dịch tập sách này, người dịch nhắm đến mục đích chủ yếu là giới thiệu đến chư vị Phật tử cũng như những ai muốn tìm hiểu phương cách sống tự điều phục tâm mình ngõ hầu mang lại lợi ích cho bản thân cũng như mọi người. Bản thân người dịch và một số vị Tăng ni đồng tu học ở đây (Ấn độ) đã tham gia vài khóa tu mười ngày thiền Minh Sát Tuệ (Vipassana). Trong những ngày tu tập miên mật, tất cả chúng tôi đều cảm nhận được sự an lạc, thoát khỏi những căng thẳng của thân cũng như tâm thức. Nhận thấy rõ giá trị đích thực của pháp môn tu tập thiền Minh Sát Tuệ, chúng tôi mong mỏi mọi người nên tham gia các khoá tu hoặc ngắn ngày hoặc dài ngày nếu tại địa phương có các trung tâm thiền Minh Sát Tuệ. Dù đứng trước thời đại khoa học văn minh, vật chất phát triển, đạo đức con người đang biến chuyển theo đà suy thoái, người biết thực hành thiền định vẫn không bị mất đi tính tự chủ, đời sống tinh thần cũng như vật chất của gia đinh vẫn luôn ổn định, và sống và xây dựng một xã hội hạnh phúc, an lạc.

Nhờ sự khuyến khích và giúp đỡ tận tình của quí bạn hữu trong việc sửa bản thảo, bản dịch mới được tương đối hoàn chỉnh. Tuy nhiên, dù cố gắng hết mình vẫn không tránh khỏi sai sót trong lúc phiên dịch, chúng tôi xin hoan hỷ đón nhận mọi góp ý của quí độc giả.

Mọi công đức phiên dịch này xin hồi hướng cho vạn loại chúng sanh được hạnh phúc, sớm quay về chân lý giác ngộ và giải thoát.

Ngày 23-5-2001
Pune University Campus
Thích Minh Diệu
Cẩn chí.

 Lời Nói đầu

Thiền sư S.N. Goenka đã phát biểu rằng: "Giải thoát chỉ có thể đạt được qua tu tập chứ không phải qua bàn luận." Tham dự khóa tu thiền Minh Sát Tuệ là một cơ hội để thực hiện những bước tiến cụ thể hướng đến giải thoát. Người tham gia một khoá tu như vậy sẽ học được cách giải tỏa tâm căng thẳng và những thành kiến sai lầm khuấy nhiễu sự yên tĩnh trong dòng sống thường ngày. Nhờ việc tu tập này, chúng ta bắt đầu khám phá ra một lối sống bình an, sáng tạo, hạnh phúc trong mỗi sát na. Đồng thời chúng ta cũng thăng tiến đến mục đích tối thượng, mục đích mà nhân loại luôn khao khát đạt đến: đó là tâm an tĩnh, giải thoát mọi triền phược khổ đau và giác ngộ viên mãn.

Nếu chỉ tư duy hoặc cầu mong thì chúng ta không thể nào đạt được thiền định này. Chúng ta cần phải tu tập từng bước để đạt đến mục đích cao thượng. Vì lý do này, mỗi khóa tu thiền Minh Sát Tuệ luôn đề cập đến phương pháp hành trì thực tiễn. Tu tập Minh Sát Tuệ không chấp nhận hành giả bàn luận về triết lý hay tranh luận trên lý thuyết, cũng như những vấn đề không liên quan đến kinh nghiệm bản thân. Hành giả được khuyến khích để tìm ra giải đáp về những thắc mắc của mình càng nhiều càng tốt. Trong khi tu tập, vị thầy hướng dẫn những gì cần thiết, nhưng sự chỉ dẫn này còn tùy thuộc vào việc thực hành của mỗi người: chúng ta phải tự chiến đấu với bản thân và tự giải thoát.

Ngoài yếu tố quan trọng đã được trình bày, vẫn còn có một số vấn đề cần được giảng giải để hỗ trợ cho khoá tu. Thế nên mỗi buổi tối của khoá tu,  Ngài Goenka đều giảng một bài pháp để giúp quý vị hiểu rõ những kinh nghiệm thực tập của ngày hôm đó, và làm sáng tỏ phương pháp tu tập dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Ngài khuyên rằng không được xem những bài giảng này như để tiêu khiển về mặt tri thức hoặc tình cảm. Mục đích của những bài giảng này cốt yếu giúp hành giả hiểu những gì cần phải thực hành và tại sao phải thực hành như vậy, để có thể thực hành đúng theo hướng dẫn và sẽ thành tựu kết quả tốt. Đó chính là mục đích của việc trình bày các bài giảng này trong hình thức cô đọng.

Mười một bài giảng này giúp chúng ta có cái nhìn bao quát về lời dạy của đức Phật. Tuy nhiên, việc tiếp cận lời dạy không mang tính học thuật hay phân tích. Thay vào đó, những bài giảng được trình bày như một động lực, một tổng thể nối kết với nhau để tháo gỡ cho hành giả. Tất cả những khía cạnh khác của các bài giảng mà chúng ta đã thấy, nói lên một sự nhất quán cơ bản: đó là thể nghiệm thiền định. Thể nghiệm này là tia sáng bên trong dẫn đến một đời sống chân thật và làm giá trị của giáo pháp rực sáng.

 Không có kinh nghiệm này chúng ta không thể nắm bắt được ý nghĩa trọn vẹn của các bài thuyết giảng, hay giáo pháp của đức Phật dạy điều gì. Tuy thế, điều này không có nghĩa là giáo pháp không thể được đánh giá trên phương diện tri thức.  Hiểu biết trên lãnh vực tri thức có giá trị như một nhân tố trợ giúp cho việc thực tập thiền định, mặc dù tự thân thiền định là một tiến trình vượt qua những giới hạn của tri thức.

Vì lý do trên, những bài giảng tóm tắt này được soạn, trình bày những điểm tinh yếu ngắn gọn của mỗi bài giảng. Ngài Goenka đã giảng những bài pháp này mục đích chính yếu là tạo ra nguồn cảm hứng và hướng dẫn cho các hành giả đang thực tập phương pháp thiền Minh Sát Tuệ. Đối với những người tình cờ đọc những bài giảng này, hy vọng rằng chúng sẽ là niềm khuyến khích họ tham gia một khóa thiền Minh Sát Tuệ và để kinh nghiệm những gì đã được trình bày ở đây.

Những bài giảng này không nên xem như là một cẩm nang tự thực hành thiền Minh Sát Tuệ, một hướng dẫn thay thế cho khóa thiền 10 ngày. Thiền định là một vấn đề rất hệ trọng, đặc biệt phương pháp thiền Minh Sát Tuệ, nó liên quan đến những cấp độ sâu thẳm của tâm thức. Thiền Minh Sát Tuệ không thể được thành tựu một cách dễ dàng hay ngẫu nhiên. Muốn học đúng phương pháp thiền Minh Sát Tuệ duy chỉ có cách tham gia một khóa tu chính thức, ở đó có môi trường thích hợp và có người hướng dẫn đầy đủ kinh nghiệm giúp đỡ cho người hành thiền. Nếu ai đó không để ý đến lời khuyến nhắc này và cố gắng tự mình thực hành thiền Minh Sát Tuệ qua việc tự đọc sách, bản thân người ấy phải gánh lấy hoàn toàn mọi sự không may, nguy hiểm.

Thật may mắn, hiện nay, những khóa thiền Minh Sát Tuệ theo sự hướng dẫn của Ngài Goenka được tổ chức định kỳ ở nhiều nơi trên thế giới. Chương trình tu học của các khoá thiền Minh Sát Tuệ đều có thể liên hệ đến bất cứ trung tâm nào được ghi vào danh sách ở trang cuối của cuốn sách này.

Những bài giảng tóm tắt này chủ yếu dựa vào các bài giảng của Ngài Goenka tại Trung Tâm Thiền Minh Sát Tuệ, bang Massachusetts thuộc Mỹ Quốc trong suốt tháng 8 năm 1983. Ngoại trừ bài giảng ngày thứ 10 là dựa vào bài giảng tại Trung tâm vào tháng 8 năm 1984.

Trong thời gian Ngài Goenka xem qua và đồng ý cho tài liệu này xuất bản, Ngài không có thì giờ để kiểm tra văn bản kỹ lưỡng, vì vậy, có thể người đọc gặp một vài lỗi và khiếm khuyết. Những sơ sót này không phải do vị Thầy, cũng không phải của giáo pháp, mà là trách nhiệm của chính tôi. Tôi rất vui lòng đón nhận sự phê bình, điều này giúp tôi chỉnh lại những thiếu sót trong văn bản.

Nguyện cầu tác phẩm này giúp ích cho nhiều người trong việc tu tập giáo pháp.

Nguyện cầu  tất cả chúng sanh đều hạnh phúc.

William Hart

CHÚ Ý TRÊN VĂN BẢN

Những bài pháp của đức Phật và chư đệ tử mà Ngài Goenka trích dẫn, đều được rút từ Tuyển Tập về Luật (Vinaya-piaka) và Tuyển Tập về Kinh (Sutta-piaka) thuộc kinh điển Pāli. (Mặc dầu trong vài trường hợp, một số trích dẫn có mặt trong cả hai tuyển tập, nhưng ở đây chỉ trình bày những tham khảo thuộc Tạng Kinh). Ngoài ra, một vài trích dẫn khác được rút ra từ hậu văn học kinh điển Pāli (post-canonical Pāli literature). Trong những bài thuyết giảng này, Ngài Goenka giải thích các đoạn kinh phần lớn chú trọng đến cách lý giải hơn việc phiên dịch từng từ Pāli. Mục đích là nhằm trình bày phần cốt lõi của mỗi đoạn trích trong ngôn ngữ bình dị, nhấn mạnh mối quan hệ của nó đến sự hành trì thiền Minh Sát Tuệ.

Những chỗ có đoạn trích Pāli xuất hiện trong hình thức tóm tắt, Ngài Goenka sử dụng đoạn văn ngắn gọn này để giải thích cho bài pháp. Phần sau của tập sách là những đoạn Pāli đã được phiên dịch ra tiếng Anh, nhằm bổ sung cho việc chuyển dịch các đoạn trích được chính xác hơn, những việc làm trên vẫn chú trọng đến quan điểm của người hành thiền.

Trong các bài giảng tóm tắt, việc sử dụng các thuật ngữ Pāli đều được giữ nguyên hình thức số ít. Khi nào những thuật ngữ này cần phải sử dụng theo hình thức số nhiều thì chúng được viết theo phong cách số nhiều của Pāli; ví dụ: số nhiều của sakhāra sakhārā, của kalāpa kalāpā, của parama paramā.

 

ÐỊA CHỈ NHỮNG TRUNG TÂM
TU THIỀN MINH SÁT TUỆ TRÊN THẾ GIỚI

Những khoá tu thiền Minh Sát Tuệ theo phương pháp của thiền sư U Ba Khin được Ngài S.N. Goenka tổ chức định kỳ tại các Trung Tâm Thiền Minh Sát Tuệ dưới đây:

(Các Trung Tâm có đánh dấu sao (*) là những Trung Tâm đang trong giai đoạn xây dựng, vì  vậy có thể các khoá tu mười ngày chưa được tổ chức theo định kỳ căn bản.)

 

India ( các Trung tâm ở Ấn độ)
Vipassana Internatiional Academy, Dhamma Giri,
PO Box 6, Igatpuri, 422403 Dist. Nasik, Maharashtra
[91] (02553) 84076, 94302, 84086; Fax: [91] (02553) 84176
 
Vipassana Centre, Dhamma Thalī
PO Box 208, Jaipur 302001, Rajasthan
[91] (0141) (Off.) 49520, (T.R.) 49311
 
Vipassana International Meditation Centre, Dhamma Khetta
12.6 km. Nagarjun Sagar Road, Kusum Nagar Vanasthali Puram,
Hyderabad 500 070, Andhra Pradesh
[91] (040) 402 0290, 402 1746; City Off. (040) 473 2569
 
Kutch Vipassana Centre, Dhamma Sindhu
Village-Bada, Dist. Mandvi, Kutch 370 475, Gujarat
[91] (028347) (Off.) 303, (T.R.) 304
 
Vipassana Centre, Dhamma Ga
Bara Mandir Ghat, Harishchandra Dutta Road,
Panihati (Sodepur), Dist. 24 Parganas, West Bengal 743 176
[91] (033) 553 2855, City Off. (Cal.): (033) 251 767, 258 063
 
* Himachal Vipassana Cetre,
Dhamma Sikhara
Dharamsala 176 219, Dist. Kangra, H.P.
 
*Dhamma Salila, Dehradun, U.P.
* Dhamma Cakka, Sarnath, U.P.
* Dhamma Bodhi, Bodhgaya.
* Dhamma Licchavī, Muzzaffarpur, Biha
* Dhamma sota, Haryana (Near New Delhi).
* Gurjar Vipassana Kendra, Dhamma Pīha,
Ahmedabad 380 01.
*Dhamma Koa, Rajkot, Gujarat.
* Dhamma Kānana, Durg-Bhilai, M.P.
* Dhamma Nāga, Nagpur.
* Dhamma Sarovara, Dhule, Maharashtra.
* Deccan Vipassana Research Centre,
Dhammālaya, Hatkangale 416 109, Maharashtra.
* Madras Vipassana Centre, Dhamma Setu,
Madras 600 079 Tamil Nadu.
* Dhamma Sumana, Bangalore, Karnataka.
 
NEPAL
 
Nepal Vipassana Centre, Dharmashriga,
Budhanikantha, Muhan Pokhari, Kathmandu
[977] (01) 290 655, 290 669
City Office: Jyoti Bhawan, Kantipath, PO Box 133 Kathmandu.
[977] (01) 225 490, 225 230; Fax: [977] (01) 223 067
 
* Dhamma Jananī, Lumbini.
* Dhamma Tarāi, Birganj.
 
SRI LANKA
 
Vipassana Meditation Centre, Dhamma Kūa,
Mowbray, Hindagala, Peradeniya
c/o Mr Brindley & Mrs Damayanti Ratwatte,
262 Katugastota Road, Kandy.
[94] (01) 34 649.
 
MYANMAR
 
Vipassana Centre, Dhamma Joti,
Nga Htat Gyi Pagoda Road, Bahan Township, Yangon, Myanmar
[95] (01) 39 290
 
THAILAND
 
Thailand Vipassana Centre, Dhamma Kamala,
Contact: 65/9 Chaengwattana Soi 1, Banghen, Bangkok.
[66] (02) 521 0392; Fax: [66] (02) 552 1753.
 
CAMBODIA
 
* Cambodia Vipassana Centre, Dhamma Kamboja,
c/o Ven. Bhikkhu Sanghabodhi,
2100 W. Willow St., Long Beach, CA 90810, USA.
[1] (213) 595 0566.
 
JAPAN
 
Japan Vipassana Centre, Dhamma Bhānu,
Mizuho-Cho, Funai-Gun, Kyoto-Fu 62203
[81] (0771) 860 765.
 
AUSTRALIA & NEW ZEALAND
 
Vipassana Meditation Centre, Dhamma Bhūmi,
PO Box 103, Blackheath, NSW 2785 AUS
[61] (047) 877 436; Fax: [61] (047) 877 221.
 
Vipassana Cente Queensland, Dhamma Rasmi,
PO Box 119, Rules Road, Pomona, Qld 4568 AUS
[61] (071) 861 306.
 
Vipassana Centre, Dhamma Medinī,
Burnside Road, RD3 Kaukapakapa, NZ
[64] (09) 420 5319
 
* Vipassana Foundation Tasmania, Dhamma Pabhā,
PO Box 6A, Hobart, Tas 7000 AUS
 
* Melbourne Dhamma House, Dhamma Niketana,
PO Box 344, North Blackburn, Vic 3130 AUS
[61] (03) 878 5744
 
NORTH AMERICA
 
Vipassana Meditation Centre, Dhamma Dharā,
PO Box 24, Shelburne Falls, MA 01370
[1] (413) 625 2160; Fax: [1] (413) 625 2170
Email: vmcdhara@aol.com
 
California Vipassana Centre, Dhamma Mahāvana,
PO Box 1167, North Fork, CA 93643
[1] (209) 877 4386; Fax [1] (209) 877 4387
Email: mahavana@aol.com
 
Northwest Vipassana Centre, Dhamma Kuñja,
PO Box 245, Ethel, WA 98542
[1] (360) 978 5434
 
Southwest Vipassana Meditation Centre, Dhamma Sirī
10850 County Road 155A, Kaufman, TX 75142
[1] (214) 932 7868
 
EUROPE
 
European Vipassana Centre, Dhamma Mahī,
“Le Bois Planté,” Louesme, F-89350 Champignelles, France.
[33] (86) 45 7514; Fax: [33] (86)  45 7620
 
Vipassana Centre, Dhamma Dīpa,
Harewood End, Hereford, HR2 8NG, England, UK
[44] (01989) 730 234; Fax: [44] (01989) 730 450

http://www.buddhismtoday.com/viet/thien/khoathienminhsat10ngay.htm


1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11

 


Cập nhật: 1-5-2002

Trở về thư mục "Thiền Phật giáo"

Đầu trang