Trang tiếng Anh

Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt   

   

...... ... ..  . ..  .  .

DUY LỰC NGỮ LỤC
QUYỂN THƯỢNG (TỪ NĂM 1983 - 1989)
Ban Văn Hóa Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ chí Minh Thực Hiện
Nhà Xuất Bản Tôn Giáo Hà Nội P.L.2545 - D.L. 2001


PHẦN 4 (CUỐN 31 - 50)

04-2

Hỏi : Tại sao phải tham thiền ? Mục đích tham thiền là gì ?

Đáp : Nếu nói đến mục đích là kiến tánh thành Phật. Nhưng thật sự khi kiến tánh thành Phật thì quả vị Phật là " Viên mãn Bồ đề, qui vô sở đắc". Thật đến mục đích là không có mục đích: Bồ đề là giác ngộ, viên mãn là đầy đủ, hễ giác ngộ đầy đủ rồi , tất cả đều qui về vô sở đắc, tức chẳng có giác ngộ, chẳng có đầy đủ. Nếu có ngộ tức còn mê, có thành Phật tức còn chúng sanh, còn ngã chấp.

Đối với người sơ cơ thì nói là có mục đích, là đến kiến tánh thành Phật, giải thoát tất cả khổ, cũng là từ mở mắt chiêm bao thức tỉnh, ra khỏi sự ràng buộc của sanh tử. tạm gọi là như thế. Tất cả chánh pháp, lời dạy của Phật Thích Ca đều như thế.

Hỏi : Thế nào là ngũ đình tâm quán ?

Đáp : Ngũ đình tâm quán là thiền Thanh Văn, thuộc Tiểu thừa. Tại sao gọi là đình ? Đình là đình chỉ, tức ngưng vọng tâm lại. Năm thứ thiền quán để ngừng tâm lại gồm : Quán sổ tức, quán nhân duyên, quán từ bi, quán lục thức, và quán bất tịnh. Nay phần nhiều tu theo quán sổ tức, cũng có một số người tu theo quán bất tịnh, còn ba thứ quán kia ít người tu. Ngoài ra phải tu thêm ba mươi bảy phẩm trợ đạo để phá ngã chấp, ấy mới đúng theo tông chỉ của thiền đó, nếu không cũng sẽ lọt vào tà ma ngoại đạo.

Hỏi : Tu hành là muốn kiến tánh thành Phật, vậy có phải là có sở cầu, có sở đắc không ?

Đáp : Ở trên tôi đã nói, khi tu đến thành phật rồi mới biết là không có phật để thành, mới qui vô sở đắc. Bây giờ muốn vô sở đắc, mặc dù biết nhưng làm không được, tâm cứ muốn đắc hoài. Vậy thì phải làm sao ? Phải nhờ nghi tình mới quét sạch được.

Hỏi : Đức Phật thường nói là "lời nói chơn thật", tức muốn chỉ cho người kiến tánh là phải qua tướng. Còn Sư phụ thì nói là lời Phật không chơn thật, vậy có phải Đức Phật lừa gạt người ta ?

Đáp : Phật với Tổ vốn chẳng có ý muốn gạt người, tại người thấu qua không được, nên bị chư Phật chư Tổ gạt. Cũng như núi sông vốn chẳng có tâm chướng ngại người, tại con người đi qua không được nên bị chướng ngại. Do đó, người đã kiến tánh nói :" Về sau chẳng bị Phật gạt nữa !"

Chính Đức Phật ở trong Kinh Lăng Già nói :" Lời nói của ta là ngôn ngữ vọng tưởng", Kinh Lăng Nghiêm nói :" Phàm là lời nói đều chẳng có nghĩa thật". Lời nói của Phật cũng là lời nói, đâu thể chấp thật ?

Hỏi : Nói "Tâm không" thì Không đó về đâu ?

Đáp : Tâm không chẳng có về đâu. Chơn tâm bất nhị, khắp không gian thời gian, chỗ nào không có ? Làm sao có về đâu ? Hễ có chỗ về là nhị. Nói KHÔNG mà chẳng phải thật không, nếu là thật không, tức như đoạn diệt, làm sao khởi dụng ? Có dụng chẳng phải thật không, nhưng muốn tìm bản thể thì không được, vì khắp không gian thời gian, nên chẳng có chỗ về. Như trong Kinh Lăng Nghiêm, Phật bảo A Nan chỉ ra nhưng chỉ không được , vì chẳng phải vật.

Hỏi : Cái gì đã chướng ngại cho sự vào đạo ? Làm sao khắc phục ?

Đáp : Sự chướng ngại phổ biến nhất là ham tìm hiểu, tập khí này rất chướng ngại cho việc tham Tổ Sư Thiền. Tất cả kinh Đại thừa liễu nghĩa đều muốn chúng sanh thành Phật, nhưng phải chấm dứt sự tìm hiểu, phá hết tất cả chấp thật, tin vào tự tâm. Do tập khí này đã vun trồng từ nhiều kiếp, chẳng thể phá được, nên phải nhờ câu thoại đầu khởi lên nghi tình, nghi tình tự động quét sạch tất cả vọng chấp, dần dần công phu thuần thục, thành khối rồi tự nhiên chấm dứt được.

Bây giờ biết là không nên cầu vẫn còn cầu, biết không nên chấp vẫn còn chấp, đa số là chấp thật lời của Phật, của Tổ mà chẳng biết chư Phật chư Tổ chỉ vì sự chấp của chúng sanh , phương tiện đặt ra để phá chấp mà thôi, chứ chẳng phải là chơn lý thật. Có người nói "tôi không chấp", chẳng biết cái "không chấp" đó đã là chấp rồi.

Cho nên phải lìa tứ cú, tứ cú đều chẳng trụ. Kinh Kim Cang nói :" Công đức bố thí hằng hà sa số thất bảo, luôn cả thân này, không bằng thấu được tứ cú kệ và giải thích cho người nghe". Lìa được tứ cú mới là vô sở trụ.

Hỏi : Thế nào là "Lấy vô trụ làm gốc, vô tướng làm thể, vô niệm làm tông" ?

Đáp : Trong Kinh Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ giải thích :" Vô niệm chẳng phải không có bản niệm, ngoài bản niệm ra không được mống khởi niệm gì khác, mới gọi là vô niệm, chứ chẳng phải tuyệt luôn bản niệm, nếu bản niệm tuyệt là chết." Dù người chết, bản niệm cũng y nguyên không mất, vì đó là bản thể của tự tánh, chẳng đồng như gỗ đá.

Nhiều người hiểu lầm cho vô niệm là trăm tư tưởng đều dứt, ấy là sai. Ngài Lục Tổ giải thích : Lục căn tiếp xúc lục trần, sanh ra lục thức, không nhiễm không chấp thật tức vô niệm." Hễ thấy cái gì thì chấp cái đó, nghe được cái gì chấp vào cái đó, là có niệm. Thấy như không thấy, nghe như không nghe, chẳng phải là không biết, biết mà không chấp thật, mới là vô niệm.

Kỳ thật, vô niệm tức vô tướng, vô tướng tức vô trụ, mặc dù danh từ có ba, sự thật chỉ là một. Ngài Lục Tổ sợ người hiểu lầm, nên đã hai lần giải thích về vô niệm.

Hỏi : Pháp môn Tổ Sư Thiền nên tu xuất gia hay tại gia ?

Đáp : Lục Tổ nói :" Nếu chấp phải xuất gia mới tu được thì chấp đó cũng là chấp", nếu sự chấp không bỏ thì xuất gia không bằng tại gia. Tu pháp môn Tổ Sư Thiền là quét sạch tất cả đối đãi, xuất gia và tại gia là đối đãi, người chơn tu tại gia hay xuất gia đều kiến tánh được, vì tất cả pháp đều bình đẳng, không phải là nhị. Chấp vào bên nào cũng không đúng, chẳng chấp hai bên, chấp vào trung đạo cũng không đúng.

Cho nên, Giáo môn nói " Tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên", hễ có nhân duyên thì xuất gia cũng được, nếu không có nhân duyên, chớ nên mống niệm phải xuất gia mới tu được, ấy là chướng ngại.

Chỉ cần chuyên chú đề câu thoại đầu khởi lên nghi tình, ngoài ra, quá khứ không ghi nhớ, hiện tại không trụ, vị lai không sắp đặt, việc đến thì đối phó, xong việc thì quên đi, không cần ghi nhớ sắp đặt, công phu mới được thành khối.

Hỏi : Hòa Thượng Bác Sơn trong Tham Thiền Cảnh Ngữ nói đến ba thứ bệnh :" Chấp thành bệnh, trước thành ma, kế thành ngoại đạo" là như thế nào ?

Đáp : Ba thứ bệnh này chẳng ngoài chấp ngã. Sự chấp của phàm phu rất nặng, Nhị thừa phá được ngã chấp, nhưng còn chấp pháp sở tu, chấp quả sở chứng của mình. Đại thừa phá luôn pháp chấp, tất cả pháp đều không, tức chẳng trụ vào pháp nào. Còn ngoại đạo thì chấp vào tri kiến, hay so đo, cho cái này là chơn lý, cái kia chẳng phải chơn lý, gọi là kế. Như các giáo chủ ngoại đạo, cũng ngồi thiền, cũng có sự ngộ, tự cho đó là chơn lý, rồi tự làm giáo chủ để hoằng dương chơn lý của mình.

Đạo Phật chẳng kiến lập chơn lý, vì tất cả pháp đều chẳng tự tánh, nếu có cái chơn lý để làm tự tánh, thì chơn lý đó là vật . Trụ nơi chơn lý vẫn là trụ, Phật thì chẳng trụ sanh tử, chẳng trụ Niết bàn, chẳng trụ phàm, chẳng trụ thánh. Vì đối với phàm mới lập thánh, đối với chúng sanh mới lập chư Phật, tất cả đều là đối đãi. Có mê mới có ngộ, khi người triệt ngộ rồi mới biết chẳng có ngộ, nên chư Phật nói " Phiền não tức Bồ đề, sanh tử tức Niết bàn".

Hỏi : Thế nào là hiện tại chẳng trụ ?

Đáp : Nói quá khứ, hiện tại, vị lai là chỉ về thời gian. Thời gian không bản thể, làm sao có quá khứ, hiện tại, vị lai ? Muốn cho cái gì là thời gian ? Nay người ta dùng vọng tâm phân biệt một phút 60 giây, rồi cho 60 phút là một tiếng, cho 24 tiếng là một ngày, rồi chia thời gian thành ngày, tháng, năm, đều do vọng tâm tạo nên, bản thể thời gian đâu có những thứ đó ?

Kinh Kim cang nói :" Tâm quá khứ bất khả đắc, tâm hiện tại bất khả đắc, tâm vị lai bất khả đắc" , là phá khái niệm thời gian. Tại sao ? Vì thời gian do tâm tạo, nên bất khả đắc.

Nhưng bây giờ nói hiện tại vô trụ, làm sao vô trụ được ? Hằng ngày bất cứ tiếp xúc việc gì, chẳng khởi niệm chấp thật tức vô trụ; chẳng chấp cái bàn này là thật, cái ghế này là thật, kể cả chẳng chấp câu kinh đang đọc là thật. Vì đều không có bản thể, chỉ do tâm tạo ra, do con người đặt ra. Nếu không có con người, thì bản thể vạn pháp trống rỗng, diệu dụng vô biên.

Muốn đạt đến hiện tại vô trụ, chỉ có đề câu thoại đầu khởi lên nghi tình, tiếp tục tham mãi, thấy cảnh trước mắt cũng như không thấy, nghe lời tán thán hoặc chê trách đều như không nghe, tán thán chẳng mừng, chê trách không giận, vậy là vô trụ rồi.

Hỏi : Thế nào thâm tín tự tâm ?

Đáp : Theo Phật pháp, cần nhất tin tự tâm. Như quý vị đã tin pháp môn Tổ Sư Thiền này 100% rồi, thật ra chưa bằng phân nữa. Tại sao ? Vì chỉ tin pháp môn, không tin tự tâm, dù khổ công tu tập, cũng chẳng thể kiến tánh. Hễ không tin tự tâm có khả năng đầy đủ như Phật, cứ cho mình là chúng sanh, cho Phật là Phật, thì làm sao thành Phật được ? Chưa tin tự tâm ắt sẽ hướng ngoại tìm cầu, ngoài tâm tìm Phật, càng tìm càng xa. Cho nên, Phât pháp rất cần tin tự tâm, người tin tự tâm gọi là thượng căn, không tin tự tâm thuộc về hạ căn.

Vậy thế nào là tin tự tâm ? Tức tin tự tánh là Phật, với tất cả chư Phật bằng nhau, chẳng kém chút nào, chỉ vì bị vọng tưởng che khuất, chưa được hiện ra thôi.

Hỏi : Thế nào là KHÔNG và CÓ ?

Đáp : Tự tánh bất nhị, Không và Có chẳng khác, nên Tâm Kinh nói :" Sắc tức thị không, không tức thị sắc". Sắc là có, Không là không, có và không chẳng khác. Bây giờ tại sao thành khác ? Do tâm chấp thật , cho Có là thật có, cho Không là thật không, nên khác.

Kinh nói :" Người trí thấy sự sanh thì biết sự diệt chẳng phải thật, thấy sự diệt thì biết sự sanh chẳng thật". Vì nếu sự diệt là thật, làm sao có sanh ? Nhưng người ngu thấy sanh là sanh, thấy diệt là diệt, sự Có và Không cũng vậy.

Nếu Có là thật có, phải vĩnh viễn có, chứ chẳng phải dùng cái Không để tiêu diệt cái Có, cái Không cũng vậy. Không cũng chẳng phải thật không, mới sanh ra cái Có, Có cũng chẳng phải thật có, mới sanh ra cái Không. Kỳ thật, trong tự tánh chẳng phải là có, cũng chẳng phải là không, do tánh chấp thật mới thành có không.

Hỏi : Tại sao càng hiểu thiền hiểu đạo thì ngã chấp càng cao ? lại, tham thiền lúc nào cũng cảm thấy sắp kiến tánh đến nơi, làm sao phá được ngã chấp đó ?

Đáp : Ngã chấp bắt đầu từ vô thỉ, mà vô thỉ thì chẳng có sự bắt đầu. Nay nói bắt đầu từ vô thỉ, tức chẳng có bắt đầu, nhưng vì có ngã chấp hiện hành, muốn phá phải dùng chín chữ "Vô sở đắc, vô sở cầu, vô sở sợ". Hễ còn có tâm mong đợi kiến tánh là có sở cầu, có sở đắc, là tu theo ngã chấp, tu cao chừng nào ngã chấp lớn chừng nấy.

Tại sao có ngã chấp ? Trong Kinh Lăng Nghiêm, Phú Lâu Na hỏi Phật :

- Tại sao có vọng ?

Phật bảo : "Đã gọi là vọng thì không có tại sao, nếu có nguyên nhân tức chẳng phải vọng".

Vấn đề này phải đợi khi nào kiến tánh tự rõ, chỗ thực tế của tự tánh chẳng thể diễn tả. bây giờ chưa kiến tánh, nói thế nào cũng chẳng phải chỗ thực tế. Phương tiện để phá ngã chấp duy chỉ có đề lên câu thoại đầu tham tới mãi, ngoài ra, có ngã chấp hay không cũng chẳng biết, có sở cầu hay không cũng chẳng biết, có sở đắc hay không cũng chẳng biết.

Hỏi : Con thiết nghĩ, khi hành giả đề câu thoại đầu khởi lên nghi tình là phá ngã chấp, sở dĩ ngã chấp còn tồn tại là do công phu tham thiền chưa miên mật. Bởi một khi có ai nói câu gì khiến mình nổi tâm sân, liền tự hỏi ngay câu " Khi chưa có trời đất ta là cái gì ?" Cảm thấy còn không hiểu mình là cái gì thì lấy gì để sân ? Có sân giận là còn chấp cái thân , tâm này là ta. Nên khi đề câu thoại đầu lên là giúp được hành giả phá ngã chấp, chứ chẳng phải tìm cầu cái gì hơn. Hiểu như vậy có đúng hay sai ?

Đáp : Hiểu như vậy là phải, nhưng nếu chấp như vậy là không phải, đó chỉ là phương tiện tạm thời mà thôi.

Hỏi : Tại sao Triệu Châu nói "Lão tăng ba mươi năm chẳng tạp dụng tâm, mặc áo ăn cơm là tạp dụng tâm "?

Đáp : Tất cả lời nói của chư Phật chư Tổ là lời phương tiện để giúp chúng sanh được vào cửa. Mặc áo ăn cơm là việc thường, nhưng người đời nay suốt ngày lăng xăng bận rộn lo cho việc ăn cơm mặc áo, mắc kẹt vào sinh sống, nên ngài Triệu Châu đem việc này để khai thị chúng sanh.

Hỏi : Mặc dù cảm thấy sự tham thiền là quý, nhưng tâm chúng con vẫn thích đi cúng dường hoặc làm đồ cúng dường, khi cúng dường xong con lại cảm thấy tác ý quá mức, nên cũng dẹp bớt phần nào, vậy có đúng không ?

Đáp : Đừng cho là đúng, cũng đừng cho là sai, tức là không biết tới có những việc này, có sự cúng dường mà không biết tới sự cúng dường, cũng chẳng biết là có sự "không cúng dường". Tôi cũng chẳng bảo là đừng cúng dường, vì nếu không có sự cúng dường thì Tam Bảo chẳng thể tồn tại nơi thế gian. Tứ chúng : Hai chúng xuất gia là nhờ hai chúng tại gia cúng dường, nay đã tu pháp môn giải thoát thì việc gì cũng không chướng ngại, chớ nói là Phật sự cúng dường, kể cả công thương kỹ nghệ, làm việc gì cũng không chướng ngại.

Hỏi : Phước duyên đại chúng hội tụ để được nghe pháp như thế không thể có mãi, nhưng Ngài Lục Tổ nói :" Mọi loài tự có đạo, mỗi mỗi chẳng ngại nhau", làm sao có thể tiến tu không bị ngoại cảnh chướng ngại, một ngày nào đó không còn được nghe pháp âm của Sư phụ ?

Đáp : Có chướng ngại đó là vật chất, là thân, nên bị thân trói buộc. Còn tâm chẳng phải vật chất, nên không bị chướng ngại, bất cứ hoàn cảnh nào cũng không bị chướng ngại. Do đó, người tham thiền đến công phu thành khối, lúc ngủ mê vẫn tham được, đâu có chướng ngại ? có chướng ngại là do vọng chấp của mình, ví như cho là "Tôi không rảnh, phải lo việc sinh sống". ấy là tự sanh ra chấp trước khiến chướng ngại.

Hỏi : Thế nào là ngũ chu lục tướng trong kinh Hoa Nghiêm ?

Đáp : Ý tôi dịch cuốn Yếu Chỉ Kinh Hoa Nghiêm là để tăng cường lòng tin cho người tham thiền, vì hành giả tham thiền chẳng những phải tin vào pháp môn Tổ Sư Thiền, càng phải tin tự tâm, chứ không phải để hiểu thêm giáo lý. Mọi người đều biết bài kệ của Kinh Hoa Nghiêm :"

Nhược nhơn dục liễu tri, tam thế nhất thiết Phật, ưng quán pháp giới tánh, nhất thiết duy tâm tạo", Ngũ chu lục tướng cũng là do tâm tạo.

Hỏi : Có một hành giả tham thiền, khi bỏ hết tất cả tìm đến chỗ vắng lặng để tham thì dâm tánh nổi lên, vậy phải làm sao ?

Đáp : Người đó sai lầm ngay từ bắt đầu, Tổ Sư Thiền đâu có dạy người bỏ việc đang làm, đi tìm chỗ vắng lặng yên ổn ? Có lấy có bỏ là có sở cầu, là nghịch với tông chỉ Tổ Sư Thiền. Mặc dù gắn bảng hiệu của Tổ Sư Thiền, nhưng người đó chẳng phải tham Tổ Sư Thiền, chỉ làm cho người phỉ báng Tổ sư Thiền, phá hoại Tổ Sư Thiền.

Hỏi : Nhiều người lấy lời dạy của ngài Bá Trượng nói " Một ngày không làm, một ngày không ăn " để làm phương châm, nhưng con thiết nghĩ, đạo chẳng ở chỗ làm hay không làm, như Thiền sư Trung Phong nói :" Nếu người tham thiền bỏ công phu của mình, dầu cho làm trăm việc, đều là bên bờ sanh tử ", vậy phải làm sao ?

Đáp : Việc làm đâu có chướng ngại sự tham thiền ! Ngài Bá Trượng là Tổ sư kiến tánh, làm Trụ trì cho một chùa đông chúng, ngoài sự hoằng pháp suốt ngày, đại chúng đi cuốc đất ngài cũng làm theo. Đại chúng thấy công việc nặng nhọc, nên giấu cây cuốc của ngài không cho làm, thì hôm đó ngài không chịu ăn , nói :" không làm thì không ăn". Aáy là muốn làm gương mẫu , để cảnh tỉnh sự làm biếng và ỷ lại của người đời sau, không cho "ta là Trụ trì, đã có trách nhiệm hoằng pháp " thì khỏi làm công việc, hoặc cho " ta tham thiền, khỏi làm cái này cái kia."

Việc làm là bổn phận của mình, trong Tòng lâm bao nhiêu chúng, tất cả đều bình đẳng, đâu phải người này làm và người kia khỏi làm ? Người nào cũng tu, cũng tham thiền, Trụ trì còn phải làm, huống là thanh chúng ? đâu thể nói là "Tôi đã tham thiền rồi, sao còn phải làm ?" Vậy công việc ai làm ? Ai nấu cơm cho ăn ? Ai dọn dẹp ?

Hỏi : Tham Thoại đầu có phải việc của ngày hôm nay ?

Đáp : Nói "Việc hôm nay" là muốn chấm dứt sự tìm hiểu của mình, vì tìm hiểu là do ý thức phân biệt, là vọng. Nếu dùng ý thức phân biệt, thì chẳng thể đạt đến kiến tánh, chẳng thể thấy được bản lai diện mục. Bây giờ mình tham câu thoại đầu, hễ tìm hiểu câu thoại là việc hôm nay, che khuất mặt bản lai.

Tăng hỏi : Con mới bắt đầu tập tham, nhưng không khởi được nghi tình, vậy phải làm sao ?

Sư phụ : Sư tham câu thoại nào ?

Tăng đáp : Chẳng phải tâm, chẳng phải Phật, chẳng phải vật, là cái gì ?

Sư phụ : Sư biết là cái gì không ?

Đáp : Không biết.

Sư Phụ : Như vậy là nghi tình rồi! Cái không hiểu không biết đó, cảm thấy thắc mắc, muốn biết nhưng biết không được, chính là nghi tình. Phải tự hỏi tới mãi, không biết thì trả lời không được, hỏi đến lúc nào thình lình hiểu được, cái hiểu đó chẳng phải dùng tâm đi tìm hiểu mà biết, gọi là chứng ngộ. Lúc đó chẳng phải chỉ biết một việc, tất cả vũ trụ vạn vật đều cùng biết, đều giải quyết một lượt.

Hỏi : Bửu Tạng Luận nói :" trong trời đất có một bảo vật", hành giả tham thiền cứ nhìn vào chỗ hầm sâu đen tối ấy, một ngày nào đó có thể đạt được bảo vật đó không? Lấy gì để làm chắc ?

Đáp: Mục đích tham Thiền cuối cùng sẽ phát hiện ra bảo vật đó là lẽ dĩ nhiên, nhưng làm sao biết chắc được ? Phải tin tự tâm. Nếu chẳng tin tự tâm thì dù siêng năng thế nào cũng không hy vọng phát hiện bảo vật đó.

Bảo vật đó là tự tánh, hễ tin tự tâm, dụng công tham mãi sẽ phát hiện được bảo vật, tức kiến tánh thành Phật. Nếu không chấm dứt sự tìm hiểu, kể cả hiểu về thiền đạo Phật pháp, dù siêng năng cách mấy cũng chẳng thể nào kiến tánh, ví như đang cỡi trâu mà tìm trâu, trên đầu lại mọc thêm đầu, chỉ làm khổ thêm, chẳng ích lợi gì.

Hỏi : Làm sao mới thấy được bản tâm bản tánh của mình ?

Đáp : Bản tâm, bản tánh, bản kiến, bản văn, bản giác, bản tri v.v ..đều là biệt danh của tự tánh. Tự tánh bất nhị, chẳng phải là có hai, nếu có cái năng thấy, thấy cái sở thấy, ấy là nhị, chẳng phải kiến tánh. Nói kiến tánh, kỳ thật là tự tánh tự hiện. Muốn tự tánh tự hiện, phải cắt đứt sự tìm hiểu, ngưng sự hoạt động của tâm ý thức , nếu không thì che khuất mặt bản lai. Ngài Tăng Triệu nói :" Chơn tánh ẩn núp trong vọng tưởng", khi nào vọng tưởng lặng hết, chơn tánh tự hiện, gọi là kiến tánh thành Phật.

Hỏi : Thế nào là pháp thân thường trụ mà chẳng trụ ?

Đáp : Pháp thân cũng là biệt danh của tự tánh, tự tánh bất nhị, khắp không gian thời gian, hễ trụ là trụ ở nơi nào ? Trụ ở nơi đây thì nơi khác chẳng có, là nhị. Chớ nói là tự tánh không chỉ ra được , dù là kiến tinh, có chỉ ra được đâu ? Vì vô sở trụ nên khắp không gian thời gian. ( Sư phu thí dụ về kiến tinh trong Kinh Lăng Nghiêm, lượt qua ).

Hỏi : Kinh Kim Cang nói "Tâm quá khứ bất khả đắc, tâm hiện tại bất khả đắc, tâm vị lai bất khả đắc", vậy tín tâm là tin cái gì ?

Đáp : Bản tâm tự tánh chẳng thể dùng ý thức phân biệt suy nghĩ đến được, cũng chẳng thể dùng lời nói diễn tả, nên Phật nói :" Phàm là lời nói đều chẳng có nghĩa thật". Nhưng nếu không dùng lời nói thì chúng sanh làm sao có hy vọng giải thoát ? Do đó phải lập ra phương tiện.

Tất cả lời nói của chư Phật chư Tổ đều là phương tiện tạm thời, chẳng phải chơn lý.

Nói "tin tự tâm" chẳng phải có cái năng tin và tự tâm là sở tin, hễ có năng sở là vọng, còn không nói thì chẳng biết dựa vào đâu để giải thích, diễn tả, nên tạm mượn hai chữ "tự tâm" để nói.

Tự tâm chẳng bản thể, chỉ thì không ra, không chỉ cũng chẳng phải, thế thì dựa vào đâu ? cho nên phải nói là "khắp không gian thời gian, chẳng chỗ nào thiếu sót, tất cả đều sẳn đủ, không kém hơn Phật chút nào", Phật có bao nhiêu thần thông biến hóa thì tự mình có bấy nhiêu, vốn đã sẳn có, chẳng phải ở ngoài, chẳng phải do tìm hiểu mà có, cũng chẳng phải do không tìm hiểu mà mất đi.

Lại, do tìm hiểu nên chơn tâm bị che khuất, khiến ẩn trong vọng tưởng, chẳng thể hiện ra được. Cho nên nói :" Nếu biết việc hôm nay, che khuất mặt bản lai"

Hỏi : Tại sao tham thiền không được tìm hiểu ?

Đáp : Sở dĩ muốn tìm hiểu là tại không tin tự tâm đã sẳn đủ, nên mới hướng ngoại tìm cầu. Hễ tin được tự tâm là trí, không tin tức ngu muội. Lục Tổ nói :" Một niệm trí huệ Bát nhã sanh, một niệm ngu muội Bát nhã tuyệt". Một niệm trí huệ là chẳng chấp thật, một niệm ngu muội là chấp thật. Muốn tìm hiểu là chấp thật, cho có cái chơn lý để mình đi tìm hiểu , ấy là điên đảo, ngu muội.

Hỏi : Đức Phật đã nói "thuyết pháp 49 năm chưa từng nói một chữ", vậy câu thoại đầu thì sao ?

Đáp : Đã nói là đến chỗ thoại đầu thì câu thoại tự mất, làm sao còn có thể chấp vào câu thoại ? Đã không cho tìm hiểu câu thoại thì làm sao còn chấp vào câu thoại đầu ? " Thoại đầu" là chỗ chưa khởi niệm mới là thoại đầu , vì phương tiện nên tạm gượng nói là "tham thoại đầu", chứ chẳng phải là câu thoại. Nay ông chấp vào câu thoại, vậy là chưa hiểu câu thoại đầu: Câu thoại chẳng phải thoại đầu, hễ còn câu thoại tức chưa đến thoại đầu.

Hỏi : Ngài Vĩnh Gia nói " Đang khi dụng tâm mà không có tâm để dùng" là thế nào ?

Đáp : Ấy cũng như câu "Vô tham tức chơn tham" của ngài Lai Quả. Chơn tham là đang tham thiền mà không biết mình tham, hễ có biết tức có dụng tâm rồi, nên nói " Chính ngay đang dụng tâm, ngay đó chẳng tâm dùng".

Hỏi : Có người thân lâm chung, hành giả tham thiền phải làm gì để hổ trợ ?

Đáp : Nói đúng theo tông chỉ của Tổ Sư Thiền, chỉ có đề câu thoại đầu khởi lên nghi tình, ngoài ra tất cả đều không biết. Như vừa nói ở trên, đang khi dụng tâm mà không có tâm để dùng, hiểu thiền đạo Phật pháp còn không cho, làm sao biết tới những gì chẳng phải thiền ?

Bất cứ thân nhân hoặc ai chết đều không dính dáng đến Tổ Sư Thiền, Theo tập quán của người thế gian là phải làm nghi lễ, có hình thức, nếu khởi tâm đi lo những việc đó, dùng Tổ Sư Thiền để làm những việc đó thì nghịch với Tổ Sư Thiền, phá hoại Tổ SưThiền, đều là tâm trộm cắp, không đúng với tông chỉ, chướng ngại tham thiền, lại chẳng có lợi ích thật tế cho người chết.

Sức mạnh của Tự tánh có thể tan rã Tam thiên đại thiên thế giới trong một sát na, khi chưa khởi lên một niệm gì thì tâm lực mới mạnh, có thể ảnh hưởng đến người khác, giúp ích cho người khác; hễ khởi niệm muốn giúp, dù cho có thể giúp, nhưng sức lực quá yếu, chẳng phải sức mạnh của tự tánh.

Cho nên, hành giả tham thiền chỉ là đề câu thoại đầu khởi lên nghi tình, ngoài ra đừng có biết gì là tốt hơn hết. Nếu tránh không được, cũng phải cố giữ câu thoại đầu, mặc cho ai làm gì, mình vẫn tham. Bất cứ gặp cảnh duyên nào cũng vậy, tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên. Bất biến là câu thoại đầu, cảnh duyên thế nào cũng không thay đổi.

Hỏi : Phật pháp không phá hoại pháp thế gian, hành giả tham thiền một niệm cũng chẳng khởi, rất nghịch với pháp thế gian, vậy phải làm sao mới không phá hoại pháp thế gian ?

Đáp : Đã nói "tùy duyên’ tức không phá hoại pháp thế gian, nếu phá hoại pháp thế gian thì không phải tùy duyên .

Hỏi : Có người cho là "để tâm bình thường trong hiện tại, không chạy theo ngoại cảnh , cho niệm hiện tiền đó là chánh niệm", đúng hay sai ?

Đáp : Kinh Lăng Nghiêm nói :" Dẫu cho diệt hết tất cả kiến văn giác tri, tâm giữ u nhàn, vẫn là bóng phân biệt của pháp trần". Nói giữ niệm hiện tiền, chẳng phân biệt cái gì khác, làm sao được ? Dẫu cho làm được cũng vô ích, cũng là bụi trần, là vọng, là bệnh đã thành từ vô thỉ. Cho nên, hành giả phải tham đến tự ngộ mới được, nếu không, như Kinh Viên Giác nói" Chưa ra khỏi luân hồi mà biện Viên Giác, Viên giác ấy cũng là luân hồi".

Như nay chưa thức tỉnh, dù ở trong chiêm bao được khai ngộ, vẫn còn là việc trong chiêm bao. Kinh Lăng Nghiêm nói :" không gian hiện nay là ở trong biển giác của mình, do mê vọng mới có hư không, có hư không mới lập ra thế giới, nhưng hư không chỉ là một bọt nước trong biển giác", nếu bọt nước bể thì hư không cũng tiêu, ba cõi thế giới kiến lập ở đâu ? Không gian đã chẳng còn thì làm sao có thời gian ?

Nên Kinh Kim Cang nói :" Tâm quá khứ bất khả đắc, tâm hiện tại bất khả đắc, tâm vị lai bất khả đắc", là phá sự chấp về thời gian.

Tất cả không gian, thời gian, số lượng đều do vọng tâm tạo ra, nên nói người kiến tánh đập bể hư không, hư không tan rã, do vọng đã hết , tự nhiên hư không cũng mất, ví như bệnh nhậm hết rồi thì hoa đốm trên không liền tiêu. Nếu còn thấy hoa đốm tức bệnh mắt vẫn còn. Người thế gian hay có những "chủ trương" hoặc "cho là". những danh từ này đều là nguồn gốc của sanh tử luân hồi.

Hỏi : Một số hành giả hay nói là công phu rất đắc lực, nghi tình nổi lên ùng ùng. vậy có phải đã đến thoại đầu ?

Đáp : Những người nói công phu đắc lực ra sao, sự thật là không có công phu. Vì còn ngã chấp, mặc dù có công phu , cũng là tu theo ngã chấp, cuối cùng không thành tà ma, cũng thành ngoại đạo. Người có công phu đắc lực, đâu có thời gian để nói cho người khác biết!

Hỏi : Thế nào là trên đầu một chữ Như ?

Đáp : Chữ NHƯ trong Phật pháp rất sâu rộng, siêu việt số lượng, hễ còn có số lượng thì chẳng phải là rộng. Nói vạn pháp đều như; bất động như như v.v. đều là siêu việt số lượng, lời nói văn tự chẳng thể diễn tả, , nên miễn cưỡng dùng chữ NHƯ để tỏ bày.

Chữ NHƯ là đúng như sự thật, nay tất cả sự hiểu biết của chúng ta đều không đúng với sự thật, là tướng bệnh. Tham thiền là quét sạch tướng bệnh, rồi tướng mạnh tự hiện, chữ như là diễn tả tướng mạnh.

Hỏi : Kinh Lăng Nghiêm nói "Luân hồi sanh tử cũng do lục căn, giải thoát tự tại cũng do lục căn", vậy tham thiền khởi nghi tình có thu nhiếp lục căn không ? bằng cách nào ?

Đáp : Lục căn đối với lục trần, sanh ra lục thức, đều là tướng bệnh đã thành từ vô thỉ, do chúng sanh chấp thật, bởi lục căn mà bị luân hồi sanh tử. Nay muốn được giải thoát, được chứng Niết bàn, phải đóng cửa lục căn lại, do nghi tình nhiếp cả lục căn, rồi kiến tánh giải thoát, cũng là do lục căn.

Tham thiền rất chú trọng nghi tình, tức nhìn chỗ đen tối không biết gì cả. Nếu không biết gì thì nhiếp cả lục căn, mắt thấy như không thấy, tai nghe như chẳng nghe, các căn khác cũng vậy, hễ có biết là chẳng nhiếp được.

Hỏi : Thế nào là "Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn" ?

Đáp : Đó là diễn tả tự tánh bất nhị. Thiền sư Vân Môn nói :" Nếu lúc đó tôi nghe được, đánh chết cho con chó ăn", cũng là thể hiện nghĩa bất nhị, chứ chẳng phải phỉ báng Phật.

Hỏi : Mục đích của hai thời công phu là gì ?

Đáp : Sở dĩ có hai thời công phu là để đối trị người làm biếng không chịu tu giải thoát. Hai thời công phu của Giáo môn phải có thiền quán, người đời nay không có thiền quán, chỉ tụng kinh cho Phật nghe, vậy đâu phải tu ?Như con chim bắt chước tiếng người, nói thì cứ nói, đâu có biết nghĩa câu nói ! Chỉ lặp đi lặp lại thôi. Có tụng mà không tu thì làm sao giải thoát ?

Hỏi : Khi xưa con nghe giảng kinh Pháp Hoa, đến phẩm Đa Bảo Tháp, theo sự hiểu biết của con, Đa Bảo Tháp là danh từ dụ cho tự tánh, do một niệm bất giác, chúng con xa lìa căn nhà tự tánh, nay muốn trở về, nên con hỏi vị thầy giảng : "Làm sao trở về Đa Bảo Tháp? Trên đường trở về, thế nào cũng gặp nhiều chướng ngại, con có phải cầm sẳn trong tay cây gươm trí huệ mới quay về được ?"

Thầy ấy trả lời :" Phải có trí huệ mới quay về được."

Con hỏi tiếp : Thế thì tự tánh của con ở nơi con hay ở nơi Đa Bảo Tháp ? Nếu ở nơi con thì đâu cần quay về ? Nếu ở nơi Đa Bảo Tháp thì trí huệ ở đâu mà con có ?"

Vị thầy đó bảo con về tụng Pháp Hoa rồi sẽ biết, nhưng con tụng mãi vẫn thắc mắc hoài cho đến con gặp Sư phụ.

Đáp : Tại chấp thật tự tánh là vật, thân này là vật, cho nên vị thầy giảng kinh ấy học ra trường, biết giảng kinh thuyết pháp nhưng nghịch với kinh. Đã gọi là Tự tánh thì làm sao xa mình được ? Tự tánh chẳng phải vật, khắp không gian thời gian, nên gọi là Như Lai, tức chẳng có khứ lai. Do đó, mình làm sao rời khỏi tự tánh ?

Tự tánh ẩn trong vọng niệm của mình, như tướng mạnh ẩn nơi tướng bệnh, tướng bệnh hết tướng mạnh tự hiện , đâu phải là tướng mạnh rời khỏi tướng bệnh ?

Ngài Lai Quả nói " Dù có đi xa quê nhà mười ngàn dặm, chỉ cần quay đầu là đến nhà, đâu cần cất bước ?" bởi vì đâu phải ở ngoài ? Nói ở trong vẫn còn không đúng, vì trong ngoài là nhị.

Nay có nhiều người học xong các viện Phật học Sơ đẳng, Trung đẳng, Cao đẳng, ra làm giảng sư, có địa vị cao, giảng kinh thuyết pháp rất giỏi, nhưng không hiểu giáo lý, nghịch với giáo lý. Ngài Lục Tổ nói :" Thuyết pháp chẳng lìa tự tánh, hễ lìa tánh thuyết pháp, gọi là tướng thuyết". Có tướng mới có thể chỉ ra, tự tánh vốn chẳng hình tướng, làm sao chỉ ra xa gần ?

Hỏi : Thiền sư Trung Phong nói " Phải lấy việc sanh tử làm mối nghi", vậy việc nghi sanh tử và nghi thoại đầu là một hay là hai ? Có phải chính vì mối nghi sanh tử nên phải tham câu thoại đầu ?

Đáp : Nghi câu thoại đầu cũng là nghi về sanh tử , nên nói sanh tử là việc lớn. Tại sao ? Việc thế gian nếu không có sanh tử thì tất cả đều chẳng có, vậy thì tại sao chúng ta ở trong sanh tử mà không biết đó là việc gì ? Khi chưa có trời đất, ta là cái gì ? Từ đâu ra ?Trời đất còn chưa có, ta sanh từ đâu mà lại có tử ? Tất cả mọi vấn đề đều liên quan đến sanh tử, là nguồn gốc của vạn pháp, nên nói là "việc lớn".

Hỏi : Thế nào là chiếu soi tự tánh ?

Đáp : Nay tham câu thoại đầu khởi lên nghi tình là chiếu soi tự tánh.

Hỏi : Tu mà không cầu thì tu để làm gì ? Phải cầu giải thoát đến chỗ không chấp thật. Nhưng Sư phụ lại dạy là "vô sở cầu, vô sở đắc, vô sở sợ", vậy là thế nào ?

Đáp : Chẳng có thật mà chấp cho là thật, nên gọi là bệnh; mà bệnh cũng chẳng phải thật, gọi là bệnh giả. Do cần dùng lời nói thế gian để giải thuyết, cho nên Đức Phật dùng thuốc giả để trị bệnh giả, khi bệnh giả hết, thuốc giả cũng phải bỏ. Hễ chấp thật tức có sở trụ, ắt thành bệnh, đánh mất sự hoạt bát vạn năng của tự tánh. Vậy chín chữ "vô sở cầu, vô sở đắc, vô sở sợ" cũng là thuốc giả, đâu phải thuốc thật !

Do người thế gian ham cầu, nên nói"Vô sở cầu"; người thế gian ham đắc, nên nói "vô sở đắc"; người thế gian hay sợ, nên nói "vô sở sợ". Nếu đã không cầu, không đắc, không sợ thì chín chữ này đã là thừa.
Kinh Kim Cang nói : "Pháp còn phải bỏ, huống là phi pháp !", lại, như đi chiếc bè qua sông, đến bờ thì phải bỏ bè. Chiếc bè chỉ là phương tiện tạm thời để qua sông, đến bờ rồi chiếc bè đâu còn tác dụng ? hễ còn vác trên vai có phải chướng ngại không ?
Tại có bệnh mới cần thuốc, bệnh đã hết giữ thuốc làm gì ? Ấy là chấp thuốc thành bệnh. Nay nhiều người chỉ nghiên cứu kinh Phật, chấp thật lời Kinh và hiểu theo sự chấp của mình, đem những thứ đó dạy chúng sanh tu theo ngã chấp, tưởng là tri kiến của mình cao, rồi tranh giành hơn thua với tông phái khác. như lời của Tổ Sư thí dụ là :" con chó đuổi theo cục xương ".
Có một hạng người đã không hiểu Phật pháp, lại cho cục xương là của mình, lấy lời của Phật xen vào ý của mình đem dạy người, hạng người này còn tệ hơn, Tổ sư mắng là " Ăn phẩn của người khác", còn không bằng con chó. Aáy đều là nghịch với ý Phật.

Hỏi : Câu chuyện Tề Hoằng Công và thợ đẽo bánh xe như thế nào ?

Đáp : Tề Hoằng Công là vua nước Tề, thời xưa chưa phát minh cao su, bánh xe phải làm bằng gổ, muốn cho bánh xe quay, công đẽo phải đúng mức, không chật quá cũng không được lỏng, hễ chật thì bánh xe chẳng quay được, hễ lỏng thì dễ xút ra rất nguy hiểm. Người thợ đẽo bánh xe của vua trong lúc làm đã cảm nhận ra rằng: muốn làm cho đúng mức thì tâm phải chuyên chú vào cánh tay, tay cầm cây búa đẽo vào gỗ, chẳng sơ hở chút nào.

Lúc Tề Hoằng Công ở nhà trên đọc sách, ông thợ ở nhà dưới đẽo bánh xe, thợ hỏi vua :
- Chúa công xem sách gì ?
Đáp : Sách của bậc thánh hiền.

Hỏi : Thánh hiền ở đâu ?
Đáp : Thánh hiền đã qua đời.

Thợ nói :" Thánh hiền đã qua đời, vậy những thứ cặn bã đó có tác dụng gì ?"

Tề Hoằng Công nổi giận : "Sao ngươi dám phỉ báng thánh hiền ? Hãy nói thử xem, có lý thì được tha, vô lý sẽ bị chém đầu."

 

Thợ nói :" Thần có một đứa con, cũng là thợ mộc danh tiếng , nay thần còn sống, muốn đem sự cảm nhận và tay nghề của thần truyền lại cho con, đích thân chỉ dạy còn truyền không được, huống là lời của Thánh hiền chỉ có lời nói, làm sao truyền lại ? Chẳng phải cặn bã sao !"
Bánh xe, búa đẽo v.v. đều là việc trước mắt nơi thế gian còn truyền không được, huống là việc xuất thế gian vốn chẳng hình tướng, làm sao truyền ? Cho nên, Phật Thích Ca muốn chúng sanh mỗi mỗi tự ngộ, chứ chẳng thể truyền. Thiền tông sở dĩ có sự truyền thừa, là khi trò kiến tánh rồi, thầy chỉ ấn chứng cho, gọi là truyền tâm ấn , tức lấy tâm truyền tâm.

Hỏi : Vậy xem kinh học Phật để làm gì ?

Đáp : Kinh là dạy người tu để ngộ được tự tánh mình, làm chủ cho chính mình, đạt đến tự do tự tại, vĩnh viễn giải thoát tất cả khổ. Nay có người học Phật học đến Cao đẳng, học đầy bụng rồi dạy cho người khác, tự cho mình đã thông suốt tất cả kinh điển, chẳng biết dù kinh điển đầy bụng, có giúp ích cho sự giải thoát đâu !
Cho nên, nói "Đào tạo Tăng tài", nếu là Tăng tài thì phải dạy người tu giải thoát. Đa số Tăng tài hiện nay, xử dụng nơi thế gian thì chẳng xài được trong công thương kỹ nghệ, lại chẳng thể dạy người tu giải thoát, kinh điển chỉ là danh từ pháp số chứa đầy bụng, đem dạy cho học trò, rồi học trò cũng chứa đầy bụng để dạy lại cho học trò. rốt cuộc Tăng tài chỉ là để dạy học trò mà thôi, đâu có hiển bày được sự dụng hoạt bát vạn năng của chính mình ?

Hỏi : Tham thế nào để khỏi phỉ báng Phật pháp ?
Đáp : Thực hành đúng theo tông chỉ Tổ Sư Thiền, giữ chín chữ "vô sở cầu, vô sở đắc, vô sở sợ" là giữ được căn bản, ngoài ra không cho tâm đi tìm hiểu, chỉ đề câu thoại đầu khởi lên nghi tình tham tới mãi.

Hỏi : Đề Bà Đạt Đa có mật hạnh gì ?
Đáp : Bồ tát độ chúng sanh có thuận độ và nghịch độ, nghịch độ là thị hiện tạo tội địa ngục, cảnh tỉnh chúng sanh chớ có làm ác. Ví như Đề bà Đạt Đa, mặc dù ở trong địa ngục, cũng như ở cõi Tam thiền vậy.

Hỏi : Tại sao ngài Lai Quả nói " một nén hương tiêu được đấu vàng "?

Đáp : "Một nén hương" chỉ về sự tham thiền, xưa kia chưa có đồng hồ, ngồi thiền và kinh hành cứ đốt lên một nén hương, nén hương này ngồi thì nén hương khác đi. Hễ ngồi tu được một nén hương, thì nhân thành Phật đã gieo trồng. Người chơn tu dẫu cho ăn một đấu vàng cũng tiêu, nếu không tu hành , dù uống một giọt nước, ăn một hạt gạo của thí chủ cũng phải trả nợ.
Hỏi : Đề câu thoại đầu khởi nghi tình không cầu không đắc, vậy có ảnh hưởng đến vong linh những người quá cố không ?

Đáp : Đã nói "không cầu" thì làm sao mong cầu ảnh hưởng đến cha mẹ ? Aáy là có cầu rồi ! Nhân quả là người nào làm, người ấy chịu, ai ăn nấy no, người khác chẳng thể ăn giùm được.

Chớ nói cha mẹ đã qua đời, dù cha mẹ còn sống, mình có thể khuyên cha mẹ bỏ ác hướng thiện không ? Có thể khuyên cha mẹ tu đến giải thoát không ? Nhiều người còn phải chiều ý cha mẹ, chứ cha mẹ chẳng chịu sửa đổi theo. Còn sống đã như vậy, huống là đã chết ?

Do đó, chẳng thể nói ảnh hưởng hay không, phải tin vào nhân quả, bổn phận người tham thiền phải đi đến kiến tánh, chứng quả rồi, đối với đại hiếu thì cha mẹ được ưu tiên. Nay khởi ý muốn dùng tham thiền để trực tiếp ảnh hưởng, ấy là vọng tưởng, là tâm trộm cắp. Tham thiền là đi đến kiến tánh, quét sạch tất cả vọng tưởng, hễ có ý đồ như thế là tự chướng ngại không được kiến tánh.

Dù cho thật sự ảnh hưởng đến cha mẹ để sửa đổi tâm, cũng không nên mống khởi niệm như thế, ấy là sai lầm, cũng như thấy người ta tụng kinh cầu siêu, mình cũng tham thiền cầu siêu, vậy có khác gì ? Phải tự mình kiến tánh triệt để thì cha mẹ mới mong ưu tiên được độ.

Hỏi : Thế nào là mua bán Như Lai ?

Đáp : Không theo kinh tu hành đã là nghịch với kinh, tụng kinh để được lợi dưỡng là tham cầu, là đem kinh để mua bán, là mua bán Như Lai, chẳng có phước lại có tội, Phật nói là "thật đáng thương xót".
Những người như thế xưng là Tông Tịnh độ cũng chẳng đúng, tụng kinh đâu phải Tịnh độ ? Tịnh độ phải hành theo Tín, nguyện, hành, cho nên, chính ngài Aán Quang pháp sư, Tổ thứ mười ba của tông Tịnh độ , dạy người chuyên tu về tín, nguyện, hành, không cho người tụng kinh, xem kinh thì chỉ hạn chế trong ba quyển : Kinh A Di Đà, Kinh Quán Vô Lượng Thọ, và Kinh Vô Lượng Thọ mà thôi. Nên người đời nay cho tụng kinh là Tịnh độ, ấy là sai.

Hỏi : Vậy thì chúng con phải làm gì khi gia đình có người chết ?

Đáp : Do thói quên từ xưa nay, khi có người thân qua đời là phải làm đám hoặc tụng kinh cầu siêu, ấy là sai lầm, nên tôi đã sửa đổi lại, thuyết pháp trước linh cữu. Đối với hành giả tham thiền thì lúc nào cũng phải tham, cha mẹ còn cũng tham, cha mẹ mất cũng phải tham, người đến dự lễ tang cũng phải tham.
Nếu thật muốn sửa đổi mà có thể làm chủ được, không nên mời thầy tụng đến nhà hay đến chùa làm đám tụng nữa, hễ lúc sống biết tu hành thì chết cứ đem đi thiêu hoặc chôn. Hễ muốn tổ chức lễ tang thì mời Thầy đến thuyết pháp trước linh cữu , nhờ người quá cố làm nhân cho người sống được nghe pháp, nhưng phải thuyết đúng chánh pháp. Đối với những người không biết Phật pháp thì chẳng cần nói gì, vì họ đã theo thói xưa, chẳng thể phá chấp được.

Đối với tu sĩ ở chùa, nhiều người nhờ đám tụng nuôi chúng, Kinh nói là "mua bán Như Lai" , lại, Phật tử cúng dường Tam bảo là vô điều kiện, mới được gọi là cúng dường, còn đem tiền của đến nhờ tụng kinh, là mua bán Như Lai.

Nếu chơn thật tu hành, hễ có người đến thỉnh đi đám là từ chối không đi, và giải thích cho họ biết. Phật pháp là vậy, chứ không có lấy kinh để trao đổi mua bán. Vì đã biết sai , phải sửa lại mê tín thành chánh pháp, nếu không cắt dứt, cứ kéo dài mãi thì làm sao có thể tu giải thoát ?

Ở Trung Quốc, có những vị gọi là "ứng phó Tăng", do không có tu hành, chỉ đi đám nhận sự lợi dưỡng, nên bị người đời khinh chê. Do đó có câu " Chẳng thà chết đói ở giữa đường, chứ không làm tăng ứng phó ở ngoài đời".

Hỏi : Nhiều người cho là nhờ có đám tụng làm nhân duyên, khiến mọi người biết đến chùa lạy Phật, đúng hay sai ?

Đáp : Muốn nhờ phải nhờ chánh nhân, hễ nhân không chánh, chỉ được tội, đâu được phước ?

Hỏi : Nếu không cho đọc Kinh sách, thì những bộ kinh để làm gì ?

Đáp : Đức Phật là muốn chúng ta thực hành, như Giáo môn là tín, giải, hành, chứng, Thiền môn cũng vậy. Nhưng Thiền môn khi bắt đầu thực hành rồi là hành khởi giải tuyệt. Giáo môn gọi là Kinh giáo, Thiền môn gọi là giáo ngoại biệt truyền, hễ tu theo pháp môn nào , phải thực hành đúng theo tông chỉ pháp môn đó.

Tôi đâu có bảo bỏ kinh? Tôi chỉ là không cho tìm hiểu, luôn cả thiền. Chính đang tham thiền mà không cho tìm hiểu thiền; đang tham câu thoại đầu mà không cho tìm hiểu câu thoại, chứ chẳng phải chỉ không cho đọc kinh, tụng kinh, tất cả đều không cho tìm hiểu. Tổ Sư Thiền là khi đề câu thoại đầu khởi lên nghi tình, trong đó đầy đủ giới định huệ, đầy đủ lục độ vạn hạnh, chẳng lấy chẳng bỏ, vì có lấy bỏ là tương đối.

Kinh nói :" Y kinh giải nghĩa, tam thế Phật oan, lìa kinh một chữ, đồng như ma thuyết". Nay tôi thuyết pháp đều là y theo lời Phật dạy, chẳng lìa kinh một chữ, còn Lời nói của cô còn chấp thật, là y kinh giải nghĩa, làm oan cho Phật vậy.

Hỏi : Thượng Tọa ngồi đây thuyết pháp là có trụ và có cầu không ?

Đáp : Do có ngã, chưa tin tự tâm, cho là có ta năng đắc, có pháp sở đắc, có sở cầu cũng thế. Tôi thuyết pháp đâu có cái gọi là "Phật Pháp" mà tôi thuyết ? Kinh Kim Cang nói :" Nếu ai nói Như Lai có thuyết pháp là phỉ báng Phật", vì đâu có pháp nhất định để thuyết ? Đã nói tự tánh chẳng năng sở, làm sao có ta là năng thuyết, quý vị là sở nghe ? Cho nên, cứ đề câu thoại đầu khởi lên nghi tình, làm sao còn năng sở đối đãi? Lại, khi một niệm chưa khởi mới là thoại đầu, nay khởi niệm này niệm kia, thì làm sao có thể đến thoại đầu được ?

Hỏi : Các pháp môn khác đều có khẩu quyết tương truyền, còn Tổ Sư Thiền thì sao ?

Đáp : Nếu có khẩu quyết tương truyền là tà ma ngoại đạo, chớ nói là Tổ Sư Thiền, các pháp môn khác thuộc về chánh pháp đều không có khẩu quyết tương truyền. Tổ Sư Thiền mặc dù nói truyền tâm ấn, nhưng không phải có truyền, chỉ là trò đã ngộ rồi, thầy ấn chứng cho sự ngộ, gọi là truyền. Tâm khắp mọi nơi, đâu phải vật để truyền ? Cũng như nói kiến tánh, đâu phải có cái tánh để kiến ?

Hỏi : Người đời thường nói " Tâm tịnh thì Phật độ tịnh", thế mà Lục Tổ lại nói "Trụ tâm quán tịnh là bệnh, chẳng phải thiền". Vậy làm thế nào cho tâm được tịnh mà không phải bệnh ?

Đáp : Tịnh là trong sạch, bản thể Phật tánh của mình vốn trong sạch chẳng ô nhiễm, tịnh đó đã sẳn, làm sao còn muốn thêm cái tịnh nữa ? ấy là cấu bẩn rồi ! Tâm vốn vô hình tướng, một niệm cũng chẳng có, luôn cả cái "chẳng có" cũng không, mới là thật trong sạch của Phật tánh. Nay khi không nổi lên một niệm quán tịnh, có năng quán sở quán, cho năng quán là tâm, sở quán là tịnh, thì sở quán là bụi trần, đã dính dơ cái tịnh rồi.

Cho nên, khởi tâm quán tịnh là bệnh, chúng ta chỉ là phát hiện cái tịnh của bản thể, chứ không phải lấy cái tâm làm năng quán, để quán cái tịnh.   


Mục Lục | Phần 1 | Phần 2 | Phần 3 | Phần 4 | Phần 5 | Phần 6

 


Vào mạng: 1-1-2002

Trở về thư mục "Thiền Phật giáo"

Đầu trang