Trang tiếng Anh

Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt   

   

...... ... ..  . ..  .  .

DUY LỰC NGỮ LỤC
QUYỂN THƯỢNG (TỪ NĂM 1983 - 1989)
Ban Văn Hóa Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ chí Minh Thực Hiện
Nhà Xuất Bản Tôn Giáo Hà Nội P.L.2545 - D.L. 2001


PHẦN 2 (CUỐN 11 - 20)

02-3

Hỏi : Về Vấn đề Vật Bất Thiên trong Triệu Luận, nay tham Thiền dùng câu thoại đầu có thể biết được vật bất thiên không ?

Đáp : Nếu dùng trí suy lường là lưu động rồi, phải tự ngộ mới được, muốn ngộ phải tham câu thoại đầu, ngộ rồi mới chứng được vật bất thiên. Trước mắt thấy bất cứ cái gì đều là lưu động, hễ dùng vọng tâm hiểu biết thì tất cả đều có sự thay đổi, lưu động, nên ngài Hám Sơn sau khi ngộ rồi mới chứng tỏ là Vật bất thiên: Sau khi ngộ rồi lễ Phật không có tướng lạy xuống và đứng lên; mở cửa nhìn ra ngoài thấy lá cây bay lả tả mà lá nào cũng chẳng động; đi vào nhà cầu tiểu tiện chẳng thấy tướng chảy của nước tiểu, nên có câu "Gió bảo bay núi mà chẳng động, nước sông đổ gấp mà chẳng trôi", trước kia nghi câu "thế gian tướng thường trụ" trong Kinh Pháp Hoa đến đây ngộ được và tan rã, bởi vậy bất thiên là thường trụ. Cũng như tôi đã giải hai câu :" Thị pháp trụ pháp vị, thế gian tướng thường trụ", ngài Tăng Triệu giải câu "Mặt trẻ trụ khi xưa, mặt già trụ nơi nay", tức các tánh trụ nơi một thời, xưa trụ nơi xưa, nay trụ nơi nay.

Nói xưa với nay là để cho mọi người dễ hiểu, chẳng những xưa nay, giây phút thứ nhất trụ nơi giây phút thứ nhất, giây thứ nhì trụ nơi giây thứ nhì, cho nên Khổng Tử bắt tay với Nhan Hồi, vừa bắt tay là sự bắt tay đã mất. Giây phút thứ nhì của cơ thể đã khác với giây phút thứ nhất, tế bào đã biến đổi rồi.

Pháp tánh vốn chẳng sanh diệt, thấy pháp tánh sanh diệt là do vọng tâm hoạt động, bây giờ nói do vọng tâm suy lường, ví như nói hoa đốm trên không, đứa trẻ sanh ra nói là hiện hoa đốm trên không, đứa trẻ chết nói là hoa đốm diệt, sự thật thì đâu có hoa đốm trên không mà nói sanh với diệt ! Cho nên, Phật nói trong Kinh Lăng Nghiêm " Nay thấy tất cả núi sông đất đai, Phật và chúng sanh v.v. đều do kiến bệnh từ vô thỉ", Kinh Pháp Hoa nói :" Chư pháp tùng bản lai, thường tự tịch diệt tướng " , tất cả các pháp vốn là tịch diệt, tịch diệt là bất thiên.

Nghĩa của Bất Thiên là ở trong sanh diệt lưu động thấy được bất thiên, chứ chẳng phải ở trong tịnh, nên việc này phải chứng ngộ mới được.

Sư bà Pháp Thành : Nay con đã phát tâm tham Tổ Sư Thiền, nguyện sau này có vãng sanh cũng tiếp tục tu theo pháp môn này chẳng bỏ.

Đáp : Pháp môn tham Tổ Sư Thiền này, như ở trên đã nói, tất cả các pháp vốn là tịch diệt bất động; nếu bất động thì làm sao có vãng sanh và không vãng sanh? Bây giờ thực hành theo đường lối tham thiền chỉ là đề câu thoại đầu khởi lên nghi tình hỏi tới mãi, ngoài ra đừng có nhớ đừng có biết là được rồi. Còn phát nguyện là tốt, nhưng đã bắt đầu tham thoại đầu rồi thì tất cả đều không biết không nhớ, cũng chẳng cần biết đến sau này có bỏ hay không bỏ, vì đã tiếp tục là không bỏ rồi, cần gì nguyện bỏ hay không bỏ !

Chư Phật lúc chưa thành Phật thì vị nào cũng có nguyện, nhưng sau này nếu không xả bỏ cái nguyện thì chẳng thể thành Phật được. Bổn tánh của mình vốn vô sở trụ, cho nên, đến cửa giải thoát rồi là vô tướng vô nguyện, tức nghĩa vô sở trụ, chẳng trụ ở bất cứ chỗ nào, nếu cứ ôm cái nguyện tức có sở trụ .

Hỏi : Con thì theo pháp môn tham Thiền, đến khi lâm chung, nếu những người xung quanh niệm Phật phải làm sao ?

Đáp : Trước tiên phải có lời dặn: "Đã đi theo pháp môn này rồi khỏi cần niệm Phật, tức dù có lòng tốt muốn trợ niệm , nhưng sẽ làm hỗn loạn pháp môn của tôi, vô ích ". Nếu người ta không nghe theo, thì mặc cho ai niệm Phật, mình cứ tham câu thoại đầu của mình, không biết tới.

Chớ có nói là lâm chung, trước mắt cũng vậy, vạn pháp tự nó lăng xăng, đâu dính dáng với ta ! Ai muốn làm gì thì làm, không biết tới. Chẳng những việc ở bên ngoài không biết tới, ở trong tâm mình, vọng tưởng nổi lên ào ào cũng không biết tới, không có vọng tưởng, được thanh thanh tịnh tịnh, cũng không biết tới, câu thoại đầu được miên mật cũng không biết tới, chứ đừng nói là ngoại cảnh.

Nếu Sư Bà đã quyết tử tham Thiền thì khỏi cần lo việc lâm chung nữa, trước mắt nếu làm chủ được thì lâm chung làm chủ được, đến bệnh hoạn vẫn làm chủ được, chiêm bao cũng làm chủ được thì lâm chung tự nhiên làm chủ được. Nên biết, tự tánh vốn chẳng có việc lâm chung, sanh tử vốn chẳng thật, nếu cứ lo cho việc lâm chung, sẽ rất chướng ngại cho sự tham thiền của mình. Cần phải bây giờ làm chủ được, tham câu thoại đầu không bị tất cả ngoại cảnh ảnh hưởng, bất kể người ta đến nói gì; chê cười, phỉ báng, chửi mắng. đều không biết tới.

Hỏi : Trang 12 của phần "Vật Bất Thiên" trong Triệu Luận có nói " Bất sanh bất diệt là thường", nhưng trong Kinh Duy Ma Cật lại nói " Bất sanh bất diệt nghĩa là vô thường", vậy là như thế nào ?

Đáp : Tất cả những gì chúng ta thấy được hiện nay đều là sanh diệt, chính cái tâm niệm vừa sanh vừa diệt. Còn tự tánh vốn bất sanh bất diệt, tức ở trong sanh diệt thấy được bất sanh bất diệt, mới là bản tánh của mình.

Nghĩa của tự tánh là vô sở trụ, đối với thường mà nói vô thường, để phá sự chấp của chúng sanh; thường và vô thường là đối đãi, nếu không có chấp thì đâu có thường và vô thường, sanh diệt và bất sanh bất diệt ? như Triệu Luận nói " Không phải do lời nói khác biệt mà chơn tâm của Bật Thánh cũng khác biệt theo". Nói khác biệt là do muốn giải tỏa bệnh chấp của chúng sanh, lời nói chỉ là phương tiện tạm thời dùng để phá chấp, chứ chẳng phải lời nói là chơn lý.

Cho nên, 36 pháp đối của Lục Tổ trong Kinh Pháp Bảo Đàn, hễ người chấp sáng thì nói tối, chấp tối thì nói sáng, chấp thường thì nói vô thường, chấp vô thường thì nói thường v.v. chỉ là để phá chấp mà thôi. Do đó, chớ có chấp vào lời nói mà đánh mất ý nghĩa, phải được ý quên lời.Lời nói của chư Phật chư Tổ thường đối chọi với nhau, kỳ thật là vô sở trụ, là bất nhị.

* Có một ngoại đạo hỏi Phật : Hôm qua thuyết pháp gì ?
Đáp : Pháp định.
- Hôm nay thuyết pháp gì ?

- Pháp chẳng định.

- Sao hôm qua định, hôm nay chẳng định ?

- Đúng vậy, hôm qua định, hôm nay chẳng định.

Đó chính là nghĩa Vô sở trụ vậy

  • Ví như tăng hỏi Triệu Châu : Con chó có Phật tánh không ?
    Đáp : Có.

    Tăng khác hỏi : Con chó có Phật tánh không ?

    Đáp : Không.

    Lời nói đối chọi nhau, cũng là thể hiện nghĩa vô sở trụ, tức không cho mình trụ ở một pháp nào. Nên Triệu Luận nói : " Lời của chư Phật chỉ là để giáo hóa chúng sanh, mặc dù nói ra muôn ngàn sai biệt, nhưng ý chỉ là một, là muốn giải tỏa bệnh chấp của chúng sanh". Còn nói " Tìm đạo ở nơi diệu ngộ", nay chúng ta chưa được diệu ngộ, tập khí ham tìm hiểu giáo lý, tăng thêm tri giải, cho nên kinh Đại thừa liễu nghĩa là để phá tri giải của mình, chấm dứt tâm tìm hiểu, mới chuyên tâm tham cứu câu thoại đầu để được ngộ. Nếu còn muốn hiểu thấu giáo lý, cũng như nhìn vào ngón tay, không chịu nhìn theo ngón tay chỉ, là nghịch với ý của chư Phật chư Tổ.

    Hai chữ "Giáo lý" chỉ để phá chấp mà thôi, chẳng phải có cái giáo lý cao siêu gọi là "chơn lý" để cho biết, cho tăng thêm ngã chấp. Ý của Phật là muốn chúng ta kiến tánh thành Phật, nên mới có pháp môn tham thiền. Nếu hiểu theo lời nói của người khác , ấy là của người khác, chẳng phải của mình; nếu cho là phải hiểu được giáo lý của Phật rồi mới chơn tu, thì hai chữ giáo lý chính là bảo mình nhìn vào chỗ đen tối, nhìn chỗ ngón tay chỉ, và nay tham thoại đầu là nhìn vào chỗ mịt mù đen tối không biết gì cả.

    Triệu Luận nói :" Như Lai vì trị bệnh chấp của chúng sanh, mới đặt ra cái này cái kia để phá chấp, gọi là giáo lý". Nếu cứ muốn nghiên cứu giáo lý, tức muốn nghiên cứu ngón tay mà chẳng chịu nhìn chỗ ngón tay chỉ, là hiểu lầm giáo lý, nghịch với giáo lý. Nay có nhiều người hiểu lầm như thế, cho là hiểu biết giáo lý, làm thầy để dạy về giáo lý, khiến đánh mất tác dụng của giáo lý.

    Hỏi : Đã tham thiền rồi còn đi tụng giới sám hối không ?

    Đáp : Lai Quả Thiền Sư Thiền Thất Khai Thị Lục nói :" Nay chúng ta tham câu thoại đầu là giới định huệ đầy đủ", chẳng những giới định huệ, tất cả pháp đều đầy đủ trong đó. Tại sao ? Vì ngoài tâm đâu có Pháp ! Tất cả tâm pháp và thế gian pháp đều không ở ngoài tâm, nay tham câu thoại đầu là trở về chơn tâm của mình, không chỉ là giới, cả định lẫn huệ đều đầy đủ.

    Nói đến sám hối thuộc về bên giới, hễ có phạm giới thì phải phát lồ sám hối. Nay ôm câu thoại đầu khởi lên nghi tình, suốt ngày đêm đều ở trong nghi tình, đâu còn khởi tâm phạm giới ?Ngày đêm khởi lên nghi tình là định, căn bản của Phật pháp là vô sở trụ, vô sở trụ tức huệ, nên giới định huệ đủ cả. Tất cả tụng kinh, niệm Phật, hay việc thế gian công thương kỹ nghệ đều ở trong đó, chẳng có ở ngoài.

    Hỏi : Lai Quả Thiền Sư nói : Từ Chùa Kim Sơn đến ở Chùa Cao Mân cảm thấy mới, ở Chùa Cao Mân được ba mươi năm thì Chùa Kim Sơn trở nên lạ" như thế nào ?

    Đáp : Ấy là vấn đề lạ với quen, từ lạ trở thành quen, từ quen trở thành lạ. Vọng tưởng của chúng ta đã quen thuộc từ vô thỉ đến nay, còn câu thoại đầu thì mới lạ, hôm nay cũng tham, ngày mai cũng tham, tham mãi khiến thoại đầu ngày càng quen, vọng tưởng ngày càng lạ. Hễ câu thoại đầu quen được một tháng thì vọng tưởng lạ bớt một tháng; thoại đầu quen được một năm thì vọng tưởng lạ đi một năm. Cũng như trước ở Chùa Kim Sơn ba mươi năm, nay mới về Chùa Cao Mân thì Chùa Kim Sơn là quen, Chùa Cao Mân là lạ, từ từ ở lâu rồi quen dần, ở Chùa Cao Mân được một năm thì Chùa Kim Sơn lạ đi một năm, đến khi ở được Cao Mân ba mươi năm thì Chùa Kim Sơn trở nên hoàn toàn lạ. Tham Câu thoại đầu cũng vậy, hễ thoại đầu trở nên quen thuộc thì vọng tưởng sẽ thành lạ, và tham mãi vọng tưởng nổi lên chẳng được nữa .
    Hỏi : Thế nào là Mật tông ?
    Đáp : Mật tông là tam nghiệp gia trì : Tâm quán tưởng, thân kiết ấn, miệng trì chú. Ba thứ đồng thời ấy phải có Thượng sư đích thân truyền dạy mới được. Nay có người cho niệm chú là Mật tông, ấy là sai lầm. Mật tông cũng phải phá ngã chấp, Tịnh độ cũng phải phá ngã chấp, mới hợp với nhân quả. Nhiều người do tự mình tu không đúng tông chỉ của pháp môn, trở lại phỉ báng Phật pháp không hiệu nghiệm , là phỉ báng Phật Pháp Tăng, tạo tội địa ngục. Bất cứ tu pháp môn nào; Thiền tông, Mật tông, Tịnh độ . tất cả đều là phương tiện của Phật dạy, phải tu đúng theo tông chỉ mới được.

    Hỏi : Tu Tịnh Độ là phải trải qua mấy A Tăng Kỳ kiếp mới được vãng sanh, phải không ?

    Đáp : Nói "A Tăng Kỳ Kiếp" là bên Giáo môn, còn Tịnh Độ hạ phẩm hạ sanh phải ở trong hoa sen mười hai đại kiếp mới ra khỏi bông sen. Còn Thiền tông thì không cần đợi đến chết, lúc còn sống vẫn có thể kiến tánh thành Phật.

    Hỏi : Người tham thiền nếu còn biết đến kiếp trước hoặc nhiều kiếp thì vẫn còn bị hạn chế bởi thời gian, mà hành giả tham thiền nếu ôm chặt câu thoại đầu, trở về với Bát Nhã, không còn khái niệm thời gian, thời gian chỉ là vọng tưởng sai lầm của chúng sanh từ lâu. Như Kinh Kim Cang nói "Tâm quá khứ , hiện tại , vị lai đều bất khả đắc", thế thì hành giả tham thiền cũng chẳng cần biết đến một kiếp hay hai kiếp, một năm hay hai năm, chỉ biết là ôm chặt câu thoại đầu thì chắc chắn trở về nhà được, không nên bị lệ thuộc bởi thời gian, chướng ngại cho sự tu, có phải vậy không ?

    Đáp : Phải, nhưng cái đó là sau khi chứng ngộ mới được. Nay hễ có nói ra là sai rồi; phàm hữu ngôn thuyết, giai phi thật nghĩa, đối với người hỏi, chỉ hỏi một trả lời một, hỏi hai trả lời hai, vì muốn giúp ích cho người hỏi, mới thuyết kinh liễu nghĩa và bất liễu nghĩa. Phật thuyềt kinh bất liễu nghĩa rồi mới ở trong kinh liễu nghĩa dạy người phải y theo kinh liễu nghĩa, chứ không được y theo kinh bất liễu nghĩa. Thế thì tại sao Phật lại thuyết kinh bất liễu nghĩa ? Ấy cũng là do tùy cơ hóa độ .

    Hỏi : Thế nào là "Y kinh giải nghĩa, tam thế Phật oan; ly kinh nhất tự, tức đồng ma thuyết "?

    Đáp : Nếu muốn giải nghĩa là phải giải đúng ý Phật, chứ không được giải theo văn tự lời nói. Bởi vì lời của Phật là phá chấp,nếu theo văn tự để giải nghĩa, hễ Phật nói có thì mình chấp cái Có đó là thật, hễ Phật nói Không thì lại chấp cái Không đó là thật, ấy là oan cho Phật. Còn nếu "Ly kinh nhất tự, tức đồng ma thuyết": Kinh là phá chấp, nếu lìa kinh tức còn chấp, còn chấp là ma, không thể giải thoát được.

    Hỏi : Hồi xưa khi đi học giáo lý, Thầy có dạy " Tụng kinh giả minh Phật chi lý, niệm Phật giả cảm Phật chi ơn, trì chú giả phát Phật chi huệ, tọa Thiền giả kiến Phật chi tánh", cho nên chúng con sắp giờ tụng kinh, niệm Phật, trì chú, tọa thiền, làm hết ! vậy có đúng không ?

    Đáp : Ấy cũng như Trí Giả Đại sư nói " Học Phật pháp thành ngoại đạo", tự cho ý của mình là ý Phật. Nói "tụng kinh để minh Phật chi lý", là lý gì ? Lý đó là giáo lý, tức lời giáo hóa của Phật. Tất cả giáo lý, tất cả kinh Đại thừa liễu nghĩa đều là phá chấp, rồi bây giờ lại chấp thật, tức là nghịch với giáo lý, làm sao minh được ? Nói "Tụng kinh bất minh giáo lý" mới đúng !

    Nói "Niệm Phật để cảm Phật chi ơn", Ơn của Phật là gì ? Là chỉ đường lối tu hành cho mình tu theo khiến được giải thoát, nay muốn cảm ơn Phật mà nghịch với đường lối của Phật, theo như Trí Giả Đại sư nói, theo giới luật là tạo tội địa ngục !

    Hỏi : Xin Sư phụ giải thích hai chữ "Giáo lý".

    Đáp : Hai chữ GIÁO LÝ là nghĩa lý trong kinh giáo, tác dụng và mục đích của giáo lý là để phá chấp . Tại sao ? Bởi do chúng sanh chấp thật , nên bị kẹt nơi sanh tử luân hồi chẳng thể ra được, nên giáo lý là dạy cho chúng sanh phá chấp để thoát khỏi luân hồi, phải thực hành theo giáo lý mới mong giải thoát.

    Bất cứ tám mươi bốn ngàn pháp môn, đều là phương tiện do Phật lập ra, tất cả đều nằm trong giáo lý, chẳng có ngoài giáo lý; kể cả pháp môn Tổ Sư Thiền, nói là giáo ngoại biệt truyền, ấy chỉ là phá cái chấp thật về giáo lý, nhưng cũng là nằm trong giáo lý . Trong Bát Nhã Tâm Kinh phá hết tất cả các chấp từ Tiểu thừa, Trung thừa, Đại thừa. đều là thực hành đúng theo giáo lý chứ chẳng ở ngoài giáo lý.

    Bốn tông của pháp Đại thừa Trung Quốc là Thiên Thai, Hiền Thủ, Tam Luận, Duy Thức, thuộc về Giáo môn; và bốn tông thực hành là Thiền tông, Tịnh độ, Mật tông và Luật tông. Đối với bốn tông thực hành thì người chẳng biết giáo lý, chẳng cần biết qua giáo lý vẫn thực hành được, còn bốn tông của Giáo môn thì căn cứ theo kinh giáo, như Thiên Thai căn cứ Kinh Pháp Hoa, Hiền Thủ căn cứ Kinh Hoa Nghiêm. cho nên vừa học giáo lý vừa thực hành theo kinh giáo.

    Người thời nay học giáo lý mà nghịch với giáo lý, các Phật Học Viện đa số chỉ dạy giáo lý mà không có phần thực hành, rồi dạy kinh lại hướng dẫn phương pháp niệm Phật, dạy một cách tạp lộn, tức áp dụng không đúng tông chỉ của Kinh đó, khiến giáo lý chẳng còn tác dụng, chẳng được lợi ích.

    Hỏi : Trong Kinh Địa Tạng nói :" Công đức tụng kinh cho người chết, người chết hưởng một phần , người sống được sáu phần, vậy có đúng không ?

    Đáp : Ấy chẳng phải là lời trong kinh, mà là do người tự làm tài khôn thêm vào, cũng như trong Kinh , người ta thêm vào mười hai đại nguyện, người đời chẳng biết, tưởng là nguyên văn như thế, chẳng những Kinh Địa Tạng, kể cả Kinh Đại Tạng cũng có chen vào kinh ngụy. Pháp thế gian còn phải có nhân quả, chẳng thể lìa nhân quả, huống là Phật pháp !

    Nói đến vấn đề tụng kinh, người sống được sáu phần, người chết được một phần, ấy là không có nhân quả! Nếu vậy thì lúc còn sống chẳng cần tu hành, chẳng cần làm việc thiện, làm ác cũng chẳng sao, miễn có tiền là được, sau khi chết, hễ con cháu mời một trăm người tụng kinh thì người chết được một trăm phần công đức, mời một ngàn người tụng kinh thì được một ngàn phần công đức. mới nhiều chừng nào thì công đức nhiều chừng nấy, phải vậy không ? Thế thì nhân quả ở đâu ? Người làm ác cứ làm ác, hễ có tụng là được rồi ! Đó chính là lý do tại sao con người càng ngày càng khổ thêm , tạo nghiệp càng nặng thêm !

    Hỏi : Khi có người chết, bên Tịnh Độ thì trợ niệm, còn Thiền tông phải làm gì ? Có cần người nhắc nhở câu thoại đầu cho người lâm chung ?

    Đáp : Người tham thiền chỉ đề câu thoại đầu tham tới mãi. Mục đích tham Tổ sư Thiền là muốn làm chủ cho mình, trước mắt còn sống khỏe mạnh, nếu không tập cho tự làm chủ được, đến lúc lâm chung nhờ người xung quanh nhắc nhở, nhồi nhét cho mình là muộn rồi ! Có ỷ lại thì làm sao tự chủ được ? Phải lúc bệnh cũng làm chủ được, lúc chiêm bao cũng làm chủ được, tức trong bất cứ hoàn cảnh khó khăn nào cũng tự chủ được mới xong.

    Hỏi : Tại sao có kinh liễu nghĩa và kinh bất liễu nghĩa ?

    Đáp : Do bệnh của chúng sanh ham chấp thật, bệnh quá sâu nặng, chẳng thể bỏ chấp được, nên Phật phải thuyết kinh bất liễu nghĩa, để tạm thời làm việc thiện, gieo trồng thiện căn, hơn là đi làm việc ác. Nếu người bệnh chấp nhẹ, có thể tiếp nhận kinh liễu nghĩa thì chẳng cần qua phần bất liễu nghĩa.

    Kinh bất liễu nghĩa của Đức Phật khác hơn kinh bất liễu nghĩa của ngoại đạo; vì nguồn góc của ngoại đạo là chấp thật, nên mãi mãi là bất liễu nghĩa. Còn nguồn góc của Phật pháp là vô sở trụ, vốn chẳng có liễu nghĩa và bất liễu nghĩa, do phương tiện tạm thời thuyết pháp bất liễu nghĩa, sau đó sẽ đi vào con đường liễu nghĩa. Nếu đã tin vào liễu nghĩa mà còn chấp thật, ấy là nghịch với pháp liễu nghĩa vậy.

    Hỏi : Trước khi biết tu pháp môn tham Thiền, hàng tháng chúng con vẫn đến chùa sám hối, Bố tát, tụng kinh.. Nay nếu không đi thì có tội không ?

    Đáp : Ở trên tôi đã nói :"Câu thoại đầu là bao gồm tất cả", như đang gánh nước bữa củi cũng là thoại đầu, ăn cơm ngủ nghỉ cũng là thoại đầu, tụng kinh sám hối cũng là thoại đầu, chỗ nào cũng là thoại đầu thì đâu có gì khác ? Nay nếu trong lúc Bố tát còn câu thoại đầu không ? Hễ còn thì chẳng có gì là chướng ngại cả. Tội với vô tội là do tâm tạo, nếu tâm không tạo thì tội làm sao có ! Ngài Lục Tổ nói "Tất cả đều chẳng chướng ngại", chớ cho là "cần" hay "không cần", tùy người tùy nơi, nếu cảm thấy thoại đầu bị công việc đó đánh mất thì phải tập cho không bị đánh mất; ví như lúc ăn cơm , thoại đầu không có, thế thì bỏ cơm không ăn ư ? Vậy phải làm sao ? Phải tập cho lúc ăn cơm cũng có thoại đầu, miễn tất cả nơi đều không quên câu thoại đầu.

    Hỏi : Bửa củi, gánh nước dễ tham, nhưng khi lên chánh điện, được cử làm Duy na dẫn chúng, hễ làm tròn nhiệm vụ thì đánh mất câu thoại, hễ lo tham thoại đầu thì e không làm tròn nhiệm vụ, vậy phải làm sao ?

    Đáp : Trong Truyền Đăng Lục có một câu chuyện về thủ đoạn của Tổ sư như sau :

    Có một vị Tăng đến cầu pháp , Tổ sư bảo :

    - Pháp luân chưa chuyển thực luân chuyển, nay ông hãy đi hóa duyên xin gạo về cho đại chúng "

    Khi trở về, Tổ lại bảo :

    - Mùa Đông lạnh giá, chùa đang thiếu củi, hãy đi hóa than về !"

    Vị Tăng vâng lời, sau khi trở về, Tổ lại bảo :

    - Hãy giữ lấy chức vị Duy na".

    Vị tăng tuy nhận lời, nhưng trong bụng cảm thấy nôn nao khó chịu, trong bụng rất nghi, tự nghĩ :" Nghe nói Tổ sư là vị thiện tri thức có tiếng tăm, vậy mà đến cầu pháp sao không chỉ dạy, mà chỉ sai làm đủ thứ việc, vậy thì làm sao giải thoát được ?"

    Mặc dù làm Duy na, nhưng cuối cùng cũng kiến tánh. Ấy là thủ đoạn của Tổ sư, tùy theo nhân duyên của mọi người, nên Lục Tổ nói là "Tất cả đều chẳng chướng ngại". Vả lại, nếu do tham thoại đầu mà quên đánh chuông gỏ mõ. thì người ta trách thì cứ trách, chỉ chiếu cố câu thoại, ngoài ra không biết tới.

    Hỏi Nếu Phật tử quy y vị tăng không chơn chánh hành pháp, tức như Sư phụ nói là học Phật pháp thành ngoại đạo, nếu cứ theo ủng hộ thì có tội không ? Nếu không ủng hộ, có phản thầy không ?

    Đáp : Vậy thì như Kinh Lăng Nghiêm nói :"Cả thầy lẫn trò đều theo đó mà đọa" ! Việc quy y là quy y Tam Bảo , bao gồm Phật , Pháp, Tăng, nghĩa chữ Tăng là Hòa hợp chúng, phải gồm bốn người mới thành Tăng. Vị Tăng đó chỉ là thay mặt cho Tam Bảo chứng minh người đó là đệ tử của Tam Bảo, chứ không phải đệ tử của một thầy nào.

    Nếu cho là quy y một vị thầy, như Hoằng Nhất Luật sư nói "quy y Nhị Bảo chứ chẳng phải Tam Bảo", chỉ là quy y Phật Bảo, Pháp Bảo và giao thiệp với một Đại đức, vì chỉ có một người thì chẳng thành Tăng, chẳng phải Tam Bảo.

    Hỏi : Con nghĩ rằng , hàng Phật tử chúng con, người nào quyết tâm cầu giải thoát thì tất cả những gì chướng ngại cho sự giải thoát của mình , phải tự mình san bằng, chẳng ai có thể san bằng giùm chính mình được. Nếu xét thấy điều đó có chướng ngại cho sự tu, dù có lợi về vật chất cũng dẹp bỏ, chẳng màng đến lời khen chê của thế gian, khen mà có hại thì không cần, chê mà có lợi cho sự giải thoát cũng hoan hỉ chấp nhận,ï phải tu đến kiến tánh mới có thể đền ơn tứ ân, có phải vậy không ?

    Đáp : Trong đường lối tham thiền là không cho nổi biệt niệm, nên lợi hay hại không biết tới, chỉ là tham câu thoại đầu, chỗ nào cũng là câu thoại đầu, thì đâu còn gì có thể chướng ngại ? Nếu còn ham thích lợi ích, thì bị lợi ích chướng ngại, bất cứ khen chê, chửi mắng cũng mặc kệ, không biết tới.

    Đối với bậc tu sĩ ở trong chùa, nếu như không chướng ngại chánh tu của mình thì tất cả đều có thể tùy duyên, tùy duyên bất biến , bất biến tùy duyên. Hễ có chướng ngại, hoặc bị bắt buộc làm những việc phải đọa địa ngục, chẳng thà bỏ đi chỗ khác, vì mục đích của mình chỉ là đi đến giải thoát chứ không phải đi xuống địa ngục.
    Hỏi : Làm sao phân biệt chánh niệm và tà niệm ?
    Đáp : Trước nhất phải xác định cái gì là chánh niệm ? Chánh với tà là tương đối, khác hơn chánh niệm tức là tà. Niệm của chúng sinh sát na sanh diệt chẳng ngừng, nên phải nhờ phương tiện của Phật dạy. Ví như chọn phương pháp tham Thiền thì nghi tình là chánh niệm, ngoài nghi tình ra, bất cứ nổi niệm gì đều là tà ; hoặc nghĩ "Tôi đang tham Thiền" ấy tức là tà, chứ đừng nói đến cái khác. Tại sao ? Vì nghi tình là không biết gì cả, nếu ngoài cái "không biết" còn biết đến "ta tham Thiền" tức là tà, chứ chẳng phải niệm thiện là chánh, niệm ác là tà!

    Kinh Kim Cang nói :" Nhược dĩ sắc kiến ngã, dĩ âm thanh cầu ngã, thị nhơn hành tà đạo, bất năng kiến Như Lai". Theo người thế gian thì lấy sắc thấy ta, lấy âm thanh cầu ta , đâu phải tội lỗi gì mà nói là hành tà đạo ? Lục Tổ nói :" Vô niệm niệm tức chánh, hữu niệm niệm thành tà", nhưng chấp vào cái chánh cũng không được, phải "Tà chánh đều quét sạch, tánh Bồ đề rõ ràng".

    Hỏi : Nếu đi theo một pháp môn khác, có phải phản thầy không ?

    Đáp : Nay người đời nói đến vấn đề "phản bội", nếu biết là sai vẫn nghe theo làm theo tức hại cho thầy mình, chứ không phải là thương thầy, vì giúp cho tạo tội khiến đọa địa ngục.Nay nếu không đủ sức cứu thầy mình thì phải chuyên tu, khỏi cần sanh tâm tách rời hay không, tất cả những gì chướng ngại cho sự tu đều không biết tới, kể cả sự tu của mình cũng không biết tới, huống là cái khác !

    Phật và Tổ là muốn mình thực hành, tự giải thoát cho chính mình và giải thoát cho chúng sanh, ấy mới gọi là báo Tứ ơn : Ơn Phật, chúng sanh, thầy và cha mẹ. Nếu chúng ta thành Phật tức báo đủ tứ ơn, hễ tu không đúng mà bị đọa là hại, tức chiều theo vọng chấp của thế gian, làm sao báo được ? Chiều theo vọng tâm mê chấp của thế gian là phải chấp cho càng sâu nặng thêm, nếu không thì bị chê là phản bội thầy. Nhưng sự thật chúng ta chỉ đi đúng theo lời dạy của Phật, của Tổ, không có phản bội.

    Lại, nếu nói xa thầy là phản bội , ví như khi học hết tiểu học phải lên trung học, vậy đối với người thầy dạy tiểu học là phản thầy sao ? rồi lên đại học thì phải xa thầy trung học, sau khi tốt nhgiệp đại học , đi du học nước ngoài, cũng là phản thầy sao ? Lúc du học trở về, mặc dù trí thức lúc đó có thể làm thầy của thầy, nhưng gặp lại thầy tiểu học vẫn là thầy của mình, Tục ngữ Trung Quốc có câu " Một ngày làm thầy, suốt đời là cha", đâu có phản thầy ?! Pháp thế gian chấp tướng còn như thế, huống là Pháp xuất thế gian phá tướng ?Hai chữ "Phản thầy" là do người có tâm chấp thật mới sanh ra suy nghĩ như thế, ấy là nghịch với ý của Phật, của Tổ, cũng nghịch với lý thế gian vậy.

    Hỏi : Sự khác nhau giữa Như Lai Thiền và Tổ Sư Thiền như thế nào ?

    Đáp : Như Lai Thiền và Tổ Sư Thiền hơi sai biệt; bên Giáo môn đạt đến Như Lai Thiền chứ chưa đến Tổ Sư Thiền. Trong Truyền Đăng Lục có một công án phân biệt về Như Lai Thiền và Tổ Sư Thiền như sau :

    * Thiền sư Hương Nghiêm xưa kia vốn rất thông minh, nói một hiểu mười, ở nơi Bá Trượng học thiền rất lâu, do bị thông minh chướng ngại, không được kiến tánh. Sau khi ngài Bá Trượng tịch, đến ở với Qui Sơn, Qui Sơn là một Thượng thủ của Bá Trượng, cùng Hương Nghiêm vốn là sư huynh đệ với nhau, nay đã ra hoằng hóa.

    Một ngày kia, Qui Sơn nổi lòng từ bi muốn dẫn dắt Hương Nghiêm, hỏi:

    - Theo sự hiểu biết của ông, trước khi cha mẹ chưa sanh, là cái gì ? Hãy nói cho ta biết !

    Hương Nghiêm trả lời không được, lục khắp các sách đã học vẫn tìm không ra, cứ yêu cầu Qui Sơn nói trắng ra.

    Qui Sơn bảo : "Ta nói thì được rồi, chỉ e sau này ngộ sẽ chửi mắng ta".

    Cầu mãi vẫn chẳng chịu nói, trong tâm thắc mắc quá, bèn đem đốt hết tất cả sách vở, nói rằng :" Nay chỉ làm một ông tăng ăn cơm mà thôi".

    Hương Nghiêm từ giã Qui Sơn đi hành cước, vào trong núi ở một mình, tâm cứ nghi câu " Trước khi cha mẹ chưa sanh mặt mũi bản lai ra sao ?" Một ngày kia nhổ cỏ liệng cục đá trúng cây tre phát ra tiếng liền ngộ, mới biết thủ đoạn của Qui Sơn, hướng về phía Qui Sơn lễ bái.

    Sau khi ngộ có làm một bài kệ, Qui Sơn nghe được nói với đệ tử Ngưỡng Sơn rằng :

    - "Hương Nghiêm đã kiến tánh."

    Ngưỡng Sơn nói " Chưa chắc, để con đi thử một phen".

    Ngưỡng Sơn gặp Hương Nghiêm, nói :" Thầy nói ông đã kiến tánh, hãy nói thử xem !"

    Hương Nghiêm làm bài kệ rằng :" Năm xưa nghèo, chưa phải nghèo, năm xưa nghèo còn có đất để cấm dùi; nay nghèo mới thật nghèo, kể cả dùi cũng chẳng có".

    Ngưỡng Sơn nói :" Như Lai Thiền thì cho ông ngộ, Tổ Sư Thiền thì chưa. Hãy nói nữa xem !"

    Hương Nghiêm nói :" Tôi có một cơ, nhìn vào trong đó, nếu vẫn chưa ngộ, chớ gọi Sa Di".

    Ngưỡng Sơn mới chấp thuận, rằng :" Mừng cho Sư đệđã ngộ Tổ Sư Thiền".

    Vì bài kệ trước vẫn còn lý giải được, bài kệ sau thì chẳng thể lý giải. Ví như Thiền tông có người hỏi Tổ Sư :

    - Thế nào là Phật ?

    Đáp :" Cục cứt khô".

    Nếu là bên Giáo môn, hỏi thế nào là Phật thì phải trả lời :" Phật là người giác ngộ, gồm tự giác giác tha, giác hạnh viên mãn v.v."

    Cho nên, Tổ Sư Thiền chỉ chú trọng thực hành, nếu khởi tâm tìm hiểu thì ngày càng xa vậy.

    Hỏi : Sau khi kiến tánh thành Phật, có thể biết được sự bắt đầu của vạn vật chăng ?

    Đáp : Nói kiến tánh thành Phật, là kiến được tự tánh tức thành Phật. Thế thì nói " Tự tánh vốn là Phật", được không ? Nếu tự tánh vốn là Phật , tại sao lại biến thành chúng sanh? Nếu Phật có thể biến thành chúng sanh thì tu thành Phật cũng vô ích, sau này vẫn có thể trở thành chúng sanh. Nếu nói tự tánh là chúng sanh, thì dẫu cho tu cách nào cũng chẳng thể biến thành Phật ! Nếu vốn chẳng phải là chúng sanh thì lục đạo luân hồi từ đâu ra ? Vì có chúng sanh mới có lục đạo luân hồi, có lục đạo luân hồi mới có nhân quả!

    Làm thiện sanh thiện đạo, làm ác sanh ác đạo, nay giả thiết trước kia tất cả chúng sanh đều như nhau, chẳng ai làm thiện, cũng chẳng ai làm ác, thì trước khi chưa khởi niệm làm thiện làm ác, ai lên thiên đàng, ai xuống địa ngục ? Nếu chưa làm mà đã có người xuống địa ngục, người lên thiên đàng thì không có nhân quả !

    Hiện nay, các nhà khoa học muốn tìm sự bắt đầu của vũ trụ, nhưng truy cứu mãi cũng chẳng được, nếu chiếu theo Tiến Hóa Luận của nhà khoa học, là con người do con khỉ tiến hóa mà thành, cho rằng cái nhân đầu tiên là một hạt nguyên tử cực nhỏ, vậy theo kiến thức mọi người cũng biết, từ thai nhi trong bụng mẹ phải trải qua mười tháng mới được hình thành, và thân này rõ ràng do cha mẹ sanh. mọi việc chẳng có sự bắt đầu thì làm sao ráng tìm được sự bắt đầu ?! Cho nên, Đức Phật nói là " Vô thỉ" - Không có sự bắt đầu, vì tất cả đều do tâm tạo.

    Tại sao dám nói là Vô Thỉ ? Vì thời gian chẳng có bắt đầu thì tất cả chẳng có bắt đầu.
    Hỏi : Xưa nay số lượng chúng sanh thành Phật có bao nhiêu ?
    Đáp : Tôi đã nói cái căn bản rồi, mà ông còn chấp vào vấn đề này! Nếu chấp thật có chúng sanh thì phải có đơn vị và số lượng. Nay thử làm một bài toán : Hễ một chúng sanh thành Phật thì số chúng sanh bớt một và số Phật thêm một, phải không? Theo lời Phật nói : Nếu trong một đại kiếp có một ngàn chúng sanh thành Phật thì bây giờ đã chẳng còn chúng sanh nữa. Chớ nói một ngàn chúng sanh, hễ trong một đại kiếp có một chúng sanh thành Phật; trong mười đại kiếp, trong một trăm đại kiếp hoặc một triệu đại kiếp có một chúng sanh thành Phật, thì bây giờ cũng hết chúng sanh rồi ! Tại sao ? Vì thời gian không có số lượng, là vô số lượng !

    Nếu số lượng chúng sanh có thể tính bằng đơn vị, lấy số lượng so sánh với vô số lượng , cho dù số lượng lớn nhất vẫn còn là nhỏ :Thí dụ cứ mỗi một triệu đại kiếp có một chúng sanh thành Phật, thì bớt đi một chúng sanh, bớt mãi số lượng sẽ hết, còn về thời gian không có sự bắt đầu, nên không bị hạn chế bởi số lượng.

    Cho nên nói " Chúng sanh nghiệp thức " là không đúng, chúng sanh chẳng có bớt, cho đến tận vị lai; Chúng sanh cũng bao nhiêu đó, Phật cũng bao nhiêu đó, chẳng thêm chẳng bớt. Vì có thật đâu mà thêm bớt ! Kể cả nhân quả luân hồi cũng là việc trong chiêm bao, nay nếu ở trong chiêm bao truy cứu mãi, vẫn là việc trong chiêm bao, chỉ cần thức tỉnh là ra khỏi nhân quả luân hồi trong chiêm bao. Đức Phật cần chúng ta thức tỉnh, bằng không, dẫu cho Thiện tri thức giải thích tất cả giáo lý nhà Phật cũng là ở trong chiêm bao, chưa thể ra ngoài được.

    Hỏi : Tại sao Phật ở Kinh này nói khác, ở kinh kia lại nói khác ?

    Đáp : Tất cả lời nói của Phật kiến lập ra, như tứ đại, ngũ uẩn, Phật, chúng sanh, Bồ đề, Niết bàn v.v. chỉ là giả danh để phá sự chấp của chúng sanh, khiến mau được giác ngộ, mau được thức tỉnh để ra ngoài chiêm bao mà thôi. Mặc dù nói muôn ngàn đường lối, đủ thứ sai biệt, chỉ vì từ bi muốn chúng sanh thoát khổ, tùy căn cơ trình độ của chúng sanh mà thuyết pháp, nên ở kinh này nói khác, ở kinh kia lại nói khác . Nếu như không hiểu ý Phật thì cảm thấy rất mâu thuẫn, kỳ thật chẳng có mâu thuẫn.

    Chư Phật chư Tổ không có ý muốn gạt chúng sanh, chỉ vì chúng sanh chẳng thấu được lời nói của Phật, của Tổ, cho nên bị Phật gạt, bị Tổ gạt. Cũng như núi sông biển cả vốn chẳng có ý muốn chướng ngại người, tại người đi qua không được, nên bị núi sông biển cả chướng ngại. Do đó, các Tổ Sư Thiền tông sau khi kiến tánh rồi nói :" Sau này ta chẳng bị Phật gạt nữa ".

    Hỏi : Thế nào là thân trung ấm ?

    Đáp : Nhiều người cho rằng hễ người chết rồi sẽ biến thành quỷ, ấy là tư tưởng sai lầm. Lục đạo gồm: Trời, người, A Tu La, súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục, nghiệp quỷ chỉ là một loại trong lục đạo, chứ không phải là ai chết rồi cũng biến thành quỷ.

    Ví như nói làm thiện sanh tam thiện đạo, làm ác sanh tam ác đạo, nếu thiện ác cân bằng, chưa thể phân biệt phải sanh thiện đạo hoặc ác đạo, gọi là thân-trung-ấm, tức thân trước chết rồi, thân sau chưa sanh, ở nơi chính giữa, gọi là trung ấm. Trong bảy ngày, nếu tâm hơi nghiêng về thiện thì sanh thiện đạo, hể nghiêng về ác sanh tam ác đạo. Nếu trải qua bảy ngày mà vẫn chưa phân biệt thiện ác, lại thêm bảy ngày nữa, cứ trải qua bảy lần như thế, tức bốn mươi chín ngày thì phải đi đầu thai, người thế gian gọi là cúng cầu siêu bảy thất là vậy.

    Mục đích cầu siêu là mong hướng dẫn người chết hướng tâm về thiện, nhưng nếu cúng bằng heo, gà, ảnh hưởng đến tâm ác, khiến đọa ác đạo chẳng ích lợi gì.

    Hỏi : Về vấn đề tu Thiền nhờ tự lực, và Tịnh Độ nhờ tha lực như thế nào ?

    Đáp : Tất cả phương tiện của Phật dạy đều phải nhờ tự lực, phải tự ngộ chứ không thể nhờ tha lực. Nói Pháp môn Tịnh Độ nhờ tha lực là sai lầm; bởi tông chỉ của Tịnh Độ là Tín, Nguyện, Hành, cũng là nhờ tự lực. Nhất là về cái nguyện, khi đã phát đại nguyện rồi thì phải thực hành, ấy là nhờ tự lực. Niệm Phật cũng phải tự lực tự làm, chẳng được nhờ người khác niệm giùm.

    Tông phái nào cũng phải nhờ tha lực, nhưng tự lực là chánh, tha lực là trợ duyên. Còn nói Thiền tông là nhờ tự lực chẳng nhờ tha lực cũng không đúng, tại sao ? Thế có phải khi mình sanh ra đã biết tham Thiền đâu ! Pháp môn này là do Phật dạy, ấy là trợ duyên; do chư Tổ truyền lại đời sau, ấy là trợ duyên; Thầy dạy chúng ta tham Thiền, ấy cũng là trợ duyên, là tha lực..Cho nên chẳng có Tông phái nào chỉ nhờ tự lực hoặc chỉ nhờ tha lực mà được, tại con người chấp tâm sai lầm thôi.

    Hỏi : Tác giả bài "Tứ Liệu Giản" có phải của ngài Vĩnh Minh không ?

    Đáp : Ngài Vĩnh Minh là Tổ thứ ba của Pháp Nhãn Tông, đã kiến tánh triệt để, có tác phẩm Tông Kỉnh Lục gồm một trăm quyển rất danh tiếng. Hư Vân Thiền sư đã xem hết tất cả tác phẩm của Ngài, chẳng thấy bài kệ này. Trong Tứ Liệu Giản nói :" Có Thiền mà không có Tịnh Độ thì mười người tu chín người sai; có Tịnh Độ mà không có Thiền thì muôn người tu muôn người được; còn nếu có Thiền và có Tịnh độ ,Thiền Tịnh song tu, như cọp mọc thêm sừng". Chính bài kệ này đã là mâu thuẩn rồi. Tại sao ? Nếu chỉ có Tịnh độ mà không cần thiền đã muôn người tu muôn người được, cần gì tu thêm Thiền để muôn phần mất hết chín ngàn ! Vã lại, Tổ Sư đã kiến tánh làm sao lại có bài kệ tự mâu thuẩn kể trên !

    Hỏi : Thiền tông nếu chẳng thấy được Phật thì tu để làm gì ?

    Đáp : Muốn tranh cãi về vấn đề chấp Phật hay không chấp Phật, trước tiên phải xác định chữ PHẬT này là gì, nên chấp hay không nên chấp. Thế thì theo ý ông, chữ Phật là gì? Giáo môn cũng có nói :" Nếu chấp Phật là thật có, ấy là chấp thêm; còn nếu chấp Phật là thật không, ấy là chấp bớt", nếu tự tánh vốn là Phật thì chẳng thể biến thành chúng sanh; nếu tự tánh là chúng sanh thì dù tu thành Phật , sau này cũng sẽ biến thành chúng sanh.
    Lại, nếu tự tánh vốn là chúng sanh thì chẳng thể tu thành Phật, vậy chấp Phật để làm gì ? Nói "tu đến kiến tánh thành Phật", vì chữ PHẬT nghĩa là giác ngộ, hễ giác ngộ gọi là Phật, Muốn giác ngộ phải tham Thiền, đến khi ngộ rồi gọi là Kiến tánh thành Phật, chứ chẳng phải Phật là một vị thần linh! Nếu trong tâm chấp phải có một ông Phật thật khiến cho mình ngộ thì vĩnh viển không được ngộ.

    Hỏi : Nếu nói ngộ là Phật, Phật là ngộ thì thử hỏi ai là người ngộ , cái gì ngộ ? Nếu không thì e rằng sẽ đi vào cái ngoan không !

    Đáp : Tại ông chấp cái có là thật có, chấp cái không là thật không, nên có câu hỏi này. Theo Phật pháp, chấp có thì bệnh còn nhẹ, chấp không bệnh nặng khó trị. Nên biết tự tánh là bất nhị, không có hai, lại, trong các Kinh Pháp Bảo Đàn, Kinh Duy Ma Cật, Kinh Kim Cang đều nói VÔ SỞ TRỤ; bất cứ nói pháp nào thật, pháp nào không thật đều là trụ, là nhị. Nói có AI thành Phật đã là nhị rồi, vì có người năng thành, có Phật sở thành, chẳng phải là tự tánh !

    Lại, Tự tánh khắp mọi nơi, đâu có một chỗ để ông chỉ ra được ! Nếu phải chỉ là "ai", ấy là ngã chấp. Tiểu Thừa phải phá ngã chấp rồi mới chứng quả A La Hán, còn Đại Thừa phá ngã chấp rồi, phải phá luôn pháp chấp, tức chẳng có cái pháp để mình tu, chẳng có cái quả để mình chứng, phá hết mới gọi là Bồ tát Đại thừa, nhưng cũng chưa phải đã thành Phật, vì còn cái tri giải về phá chấp.


Mục Lục | Phần 1 | Phần 2 | Phần 3 | Phần 4 | Phần 5 | Phần 6

 


Vào mạng: 1-1-2002

Trở về thư mục "Thiền Phật giáo"

Đầu trang