Trang tiếng Anh

      Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt

   

...... ... .  . .  .  .
NIÊN ĐẠI CỦA ĐẠI THÁP BỒ-ĐỀ
Thích Nữ Giới Hương dịch

 Nguồn gốc của đại tháp Bồ-đề ở Bồ-đề Đạo Tràng vẫn còn là một điều bí ẩn. Lý do chính về điều này là bởi vì thiếu các nguồn tư liệu để nghiên cứu. Các văn bản Phật giáo để làm nguồn tài liệu căn bản thì không rõ ràng về nhiều điểm.

Điều này có thể được chứng minh qua việc đề cập tới ba nguồn khác nhau có liên quan đến cuộc viếng thăm của vua A-dục ở Bồ-đề Đạo Tràng. Như Sắc lệnh thứ VIII của Vua A-dục khắc trên bia đá cho chúng ta biết rằng vua A-dục "đã thực hiện cuộc hành hương tới Bồ-đề Đạo Tràng vào năm trị vì thứ 10 của mình."[1] Tuy nhiên, trong cuốn Mahavamsa đã nói cuộc viếng thăm này lại ở vào năm thứ 18 trị vì của vua A-dục.[2] Divyavadana dường như đề cập đến một sự kiện khác nữa vua A-dục đã viếng Bồ-đề Đạo Tràng trong cuộc hành hương kéo dài đến những thánh tích Phật giáo ở phía bắc Ấn Độ.[3] Thật ra là Divyvadana đã nói vườn Lâm-tỳ-ni là một trong những thánh tích đầu tiên mà vua A-dục viếng thăm cùng với thầy của mình là Upagupta, kế đến là vua A-dục đến viếng thăm cây bồ-đề. Theo Divyvadana, vua A-dục đã thực hiện chuyến hành hương sau khi xây dựng nhiều tăng già-lam và tháp mà theo Mahavamsa[4] tất cả được hoàn tất vào sau năm thứ 7 lên ngôi, tức là sau năm 262 trước tây lịch.

Như vậy, có nhiều truyền thuyết không nhất quán về điểm này. Divyavadana cũng nói với chúng ta rằng lần đầu tiên vua A-dục viếng thăm cây bồ-đề, rồi Ngài đã bị cuốn hút ở đây đến nỗi hoàng hậu Tisyaraksita ganh tị và đã chặt cây bồ-đề. Nhưng cuối cùng bà bị cảm hóa bởi lòng nhiệt tâm của vua và đã cùng với Ngài viếng thăm, chăm sóc cây bồ-đề cho nó sống lại.[5] Như vậy, vua A-dục đã thực hiện hai chuyến hành hương (dhammayatras) tới Bồ-đề Đạo Tràng. Một lần vào năm thứ 10 như trong bia đá đã khắc và lần thứ hai như trong Mahavamsa đã nói. Vì vậy, ngược lại với sự xác định của tiến sĩ D.K. Barau, các nguồn tư liệu này đã không mâu thuẩn lẫn nhau về điểm này mà hơn nữa chúng lại bổ sung hỗ tương với nhau. Tuy nhiên, Barua đề nghị rằng cuộc viếng thăm của vua A-dục tới nơi này hầu như không có đề cập tới đại tháp Bồ-đề, vì điều này không được nhắc đến trong bia ký cũng như không có ghi trong bản kinh Phật giáo[6]. Đối với D.K. Barua, sự đóng góp duy nhất của vua A-dục cho Bồ-đề Đạo Tràng dường như là việc làm nổi bật thánh địa này như là một trung tâm quan trọng của thánh địa Phật giáo, chỉ bởi vì cuộc hành hương chiêm bái của vua A Dục[7]. Tuy nhiên, vấn đề này cần được xem xét lại.

Trên cơ sở xác nhận của Ngài Huyền Trang đã gợi ý rằng vua A-dục đã cho xây dựng một ngôi chánh điện nhỏ tại nơi Phật thành đạo.[8] Thật thú vị để nói thêm rằng, trong số những tàn tích của tháp ở Bharhut có hai mẫu điêu khắc của tháp nhỏ này với cây bồ-đề phía sau. Một trong hai mẫu này có khắc truyền thuyết cây bồ-đề của Đức Phật Thích-ca-mâu-ni.[9] Vì những kiến trúc điêu khắc này khoảng gần thế kỷ thứ II trước tây lịch nên các mẫu này có thể được xem như giống y chang cấu trúc ban đầu. Những mẫu này cho thấy rằng tháp lúc đầu chỉ là một cái mái có những cột trụ đỡ. Tòa Kim cang (Vajrasana) được đặt ở trung tâm và được trang hoàng phía trước là bốn cột trụ. Ngay sau tòa Kim cang (Vajrasana) là cây bồ-đề mọc cao lên tỏa mát khu đại tháp. Mỗi bên tòa được trang hoàng với những biểu tượng Tam bảo (Triratna) và chuyển pháp luân (Dhammachara) đứng trên đỉnh của một trụ ngắn. Đỉnh của tòa Kim cang (Vajrasana) được trang trí với nhiều hoa tươi nhưng không có tượng Phật ở đó. "Tịnh thất Kim cang" có trang thờ giống nhau ở tất cả các phía. Kiểu mẫu này thể hiện cho mẫu gốc được chứng thực rõ ràng hơn bởi sự khám phá trong "situ" của hai cái bệ trụ đá cũng như tòa sa thạch với các chi tiết liên quan khác. Hơn nữa trên bề mặt của tòa được chạm khắc các mẫu hình có vòng tròn chính giữa với các viền kép hình vuông, và bốn mặt tòa được khắc nhiều hình rất phong phú như hình chim bồ câu, các hoa văn và các con ngỗng thường được thấy ở đầu cột của vua A-dục xây. Hình sau cũng cho thấy rõ mối liên hệ của vua A-dục với các kiến trúc đó.

Một khám phá nữa làm tăng thêm sự xác định trên là có một bản khắc bằng chữ Brahmi nằm trên bề mặt nhỏ của tòa, có ý nghĩa chứng nhận việc cúng dường tòa này. Mặc dù sự kiện khảo cổ không thể phủ nhận như vậy, nhưng Barua từ chối bất kỳ sắc lệnh nào nữa của vua A-dục đối với hoạt động xây cất nào của vua ở Bồ-đề Đạo Tràng, và thêm rằng: "Ngài Huyền Trang nói, thật khó để mô tả lòng tín thành của vua A-dục trong việc xây dựng chánh điện này."

Người ta tin rằng chánh điện nhỏ này đã tồn tại, đứng trước cây bồ-đề gốc và tòa Kim cang cũng thế … Chánh điện ban đầu không phải do vua A-dục xây mà do cacị như Kuran, Matron, và bà Kuranji và sự cúng dường của họ vẫn còn được khắc trên tường đá cổ. Tháp tòa Kim cang (Vajrasana) vẫn còn tồn tại bên trong tháp hiện tại mà không có mái bao phủ và bốn trụ đá đã bị gãy[10]. Rõ ràng D.R. Barua đã bị ảnh hưởng nhiều về bộ 15 bia khắc của bà Kuranji trên các trụ đá và hai miếng đá mái chìa[11] mà ông đã quên sự kiện khảo cổ xác thực việc kết hợp của vua A-dục với đại tháp. Sự thật là, dưới tòa Kim cang (Vajrasana) có một cái bệ bằng gạch, được trang hoàng mỗi phía với những hình ảnh người, sư tử và đây chắc chắn là một cột trụ – kiến trúc tòa Kim cang (Vajrasana). Bên trong có nền gạch, ở chính giữa của mặt trước được tìm thấy một vật tròn bằng đất mà khi bị bể ra thì có nhiều vàng bạc, châu báu, ngọc ngà bao gồm một bùa hộ mạng bằng vàng giống như mẫu đồng cắc của thời vua Huvishka ở cả trên hai mặt và năm đồng cắc có dùi lổ [12]. Trong khi cạo bỏ lớp hồ trên mặt nền gạch thì khám phá thêm rằng "lớp hồ thay vì làm bằng cát và vôi thì được làm bằng san hô bột trôﮠvới những mảnh ngọc bích nhỏ, tinh thể ngọc trai và ngà, rồi trộn với vôi." Hiển nhiên điều này chỉ rõ rằng ngôi chánh điện và tòa Kim cang được xây dựng trên niềm kính trọng cao nhất. Vào thời điểm đó tháp trở nên thiêng liêng cao cả đã chứng tỏ rằng sự tồn tại của một kiến trúc trước kia và đã được bổ sung một phần suốt trong thời kỳ này. Tòa Kim cang (Vajrasana) của vua A-dục được bà Kuranji xây bồi thêm cái nền nữa, dường như nó là giai đọan thứ hai của việc xây dựng này.

Trong qúa trình xây dựng, phần lớn các phần tu bổ thêm đã được tiến hành khoảng thế kỷ I và II. Điều này được xác định thêm nữa do việc khám phá một bản khắc trên đế tượng Phật gần chánh điện nhỏ bị hư, sát cổng phía nam của bức tường đại tháp.[13] Tượng này dường như thuộc về giai đọan trường phái nghệ thuật điêu khắc của Indo-Scytian. May thay, bia ký này có niên đại Samvat thứ 64 và giống như sự ghi nhận thường là của trường phái Indo-Scytian hơn là nền nghệ thuật Mathura. Hầu như không có nghi ngờ nào cả về niên đại của nó thuộc thế kỷ thứ II. Năm 64 có thể là niên đại Shaky, thuộc triều đại Huvishka. Bản khắc hiện nay trong tình trạng bị hư hoại nghiêm trọng nên tên người thí chủ cúng dường khó nhận ra. Tuy nhiên, vị ấy là môt đại vương (một hầu vương của triều đại Kushana, vua Huvishka) người mà theo ông Cunningham: "có lẽ là vua Huvishka, thuộc Indo-Scytian là người đứng xây ngôi đại tháp Bồ-đề. Tên của thí chủ là Tukamala hoặc Turamala."[14]

Đây là một kết luận, để cho thấy rằng đại tháp Bồ-đề được xây dựng trong triều đại vua Huvishka, nhưng tiếc là các sự kiện được biết này thì đã bị thất lạc. Để bắt đầu, chúng ta cần chú ý rằng các bản khắc đang được nghiên cứu hầu như không đề cập đến việc xây dựng bất kỳ tháp nào hoặc lớn hoặc nhỏ, mà chỉ nói đến việc xây hai bức tượng. Chắc chắn rằng đây là điều thích hợp nhất sau hiện tượng Phật giáo Đại thừa phát triển và việc tôn thờ hình tượng Phật bắt đầu xuất hiện. Chánh điện của vua A-dục có thờ một tượng Phật mà trước đó chưa có. Nhưng đối với chúng ta dường như rằng hai tượng mà đang bàn bạc thì không thể an vị bên trong chánh điện vì chúng là các tượng Bồ tát. Vì vậy, những hoạt động điêu khắc của triều đại Huvishka đã không đưa ra bất kỳ sự chỉ dấu nào về việc trùng tu chánh điện của vua A-dục. Những phần được thêm vào này, nếu tất cả có liên quan đến Đại tháp chính Bồ-đề thì được tu bổ thêm do bà Kuranji và những người khác.

Đọc các tường thuật sinh động của các nhà chiêm bái Trung Quốc thì điều này được bộc lộ rất rõ. Ngài Pháp Hiền (người đã rời Trung Quốc vào năm 339, hành hương đến Ấn Độ, sau đó từ tiểu bang Orissa trở về Trung Quốc năm 414) đã đề cập đến Bồ-đề Đạo Tràng rất chi tiết. Từ Gaya Pháp Hiền đi đến Bồ-đề Đạo Tràng – nơi đây tòan là rừng cây. Ở đó, Ngài thấy các thánh tích quan trọng có liên quan tới các giai đọan của Đức Phật trước khi giác ngộ và có chú thích rằng tất cả chúng đều bị hư sụp hoang phế. Tuy nhiên, ở một vài thánh tích chỉ còn có các vườn xoài. Ngài đã ghi là ở nơi Đức Phật thành đạo có ba tu viện nhưng Ngài lại không ghi gì cả về đại tháp Bồ-đề.[15] Như vậy, rõ ràng rằng đại tháp Bồ-đề này đã chưa được xây dựng lúc Ngài Pháp Hiền đến. Vì vậy, có thể đoán rằng đại tháp Bồ-đề này có thể được xây dựng vào khoảng đầu thế kỷ thứ V.

Tuy nhiên, Ngài Huyền Trang đã làm rõ ràng thêm sự kiện này. Ngài Huyền Trang rời Trung Quốc năm 629 và trở về năm 648. Ngài đã đưa ra một biểu đồ của Đại tháp Bồ-đề. Khi Ngài đến viếng cây bồ-đề thì thấy rằng có một bức tường gạch dày và cao bao quanh. Cổng chính phía đông hướng về phía sông Ni-liên-thuyền (Nairanjana). Cánh cổng phía nam dẫn ra một hồ bông hoa đẹp. Cổng phía bắc dẫn đến một tăng già-lam do vua Tích Lan xây dựng, còn phía tây thì bị cây cối bít lối. Những tháp này do những vị vua, quan, quý tộc có lòng kính tin Phật pháp đã xây dựng để kỷ niệm. Chính giữa bức tường bao quanh cây bồ-đề là tòa Kim cang và phía đông của cây bồ-đề có một cái tháp cao 160 feet. Tháp này được xây bằng gạch và tô vôi, và ở mỗi tầng có nhiều khung giống nhau có thờ tượng Phật bằng vàng. Bốn vách tường của tháp có khắc những chuỗi ngọc trang nhã. Trên mái là một amalaka bằng đồng mạ vàng. Ở phía đông của tháp có ba cái đồi nối tiếp nhau, tất cả làm tăng thêm vẻ mỹ quan và có một lối đi thông vào một tịnh thất bên trong. Ngài Huyền Trang cũng đề cập đến nhiều những tháp nhỏ khác tại Bồ-đề Đạo Tràng.[16]

Như vậy, chắc chắn rằng vào đầu thế kỷ thứII đại tháp Bồ-đề đã có rồi. Các nhà chiêm bái Trung hoa đã thấy tháp giống như Đại tháp Bồ-đề bây giờ, thì hiển nhiên việc so sánh của O⮧ Cunningham giữa việc mô tả của Ngài Huyền Trang với hiện thực chi tiết của đại tháp hiện tại như sau:[17]

- Kích cở của hai tháp thì hầu như giống nhau. Cấu trúc hiện tại rộng 48 feet, cao 170 feet, hầu như phù hợp với lời mô tả của Ngài Huyền Trang. Thật thú vị để chú ý rằng vào năm 1861, khi đại tháp Bồ-đề này được hoàn tất thì nó cao 160 feet và được cao thêm 10 feet nữa sau khi sửa lại đỉnh tháp.

- Hầu như khớp với lời mô tả của Huyền Trang là tháp được xây dựng bằng gạch có màu hơi xanh và được tô bằng thạch cao.

- Bốn mặt của tháp hiện nay có vài tầng có các khung thờ. Tầng này kế tiếp tầng khác. Rõ ràng ở mỗi tầng có thờ tượng Phật như Ngài Huyền Trang đã tường thuật. Tuy nhiên, vào thời Ngài Cunningham thì chỉ còn sót lại có ba tượng.

- Cổng chính phía đông thì không thấy Ngài Huyền Trang đề cập đến, có lẽ do sau này mới xây thêm vào, vì sân lát gạch không giống với gạch của đại tháp. Mặt khác, việc mô tả của nhà chiêm bái Trung Quốc về bức tường xung quanh đại tháp Bồ-đề thì giống y chang như bức tường hiện nay.

Các tường thuật của Ngài Pháp Hiền và Huyền Trang đã khẳng định rõ ràng rằng đại tháp xây khoảng năm 420 đến 600. Nghĩa là sau khi Ngài Pháp Hiền đi và trước khi Ngài Huyền Trang đến. Về điểm này đã bộc lộ rằng việc ghi nhận có giá trị sớm nhất gắn liền với việc trùng tu đại tháp Bồ-đề trong khoảng thế kỷ VI-VII.[18]

Hầu hết các cuộc trùng tu xảy ra trước lúc Ngài Huyền Trang đến bởi vì Ngài mô tả về đại tháp này hầu như không có nhu cầu để sửa chữa hoặc nâng cấp lại. Vì vậy, thời gian gần nhất cho việc trùng tu có thể khoảng năm 625. Một hiểu biết chung cho rằng bất kỳ cấu trúc kiên cố nào đòi hỏi sửa chữa thì cũng không quá 100 năm. Điều này ám chỉ rằng tháp đầu tiên phải được xây dựng khoảng năm 525. Niên đại này dường như là hợp lý.

Vào 25 năm đầu của thế kỷ thứ V, khi Ngài Pháp Hiền đến Ấn Độ thì Ngài đã thấy tòan bộ khu này là rừng rậm. Và người ta có thể đoán là dù sao đi nữa một công trình được xây dựng trên một chổ như vậy thì không có thể hoàn tất nhanh chóng khi Ngài Pháp Hiền đi. Trong bối cảnh này như thế khiến cho niên đại của ngôi tháp như được cho rất là hợp lý. Thứ hai, thời đại tiền Gupta là những người theo đạo Bà-la-môn, do đó kiến trúc này không thể do sự đề xướng của họ. Hiển nhiên rằng chỉ khi triều đại này bị suy yếu, tức sau năm 500 thì lúc đó ngôi tháp mới có thể được xây dựng. Tuy nhiên, điều này không đề cập rằng những ngôi tháp này do vua chúa khởi xướng xây dựng nhưng chắc chắn rằng một đại tháp quan trọng như vậy thì không thể được xây dựng mà không có sự ủng hộ của vua chúa. Cuối cùng, nếu chúng ta xét theo lịch sử kiến trúc chùa chiền Ấn Độ, thì dường như rằng các tháp như vậy chỉ có thể được xây dựng vào cuối thời đại Gupta tức là khoảng niên đại mà chúng ta đã đề nghị ở trên.

Như vậy, đại tháp Bồ-đề dường như đã được xây dựng vào đầu thế kỷ thứ VI và niên đại khởi công xây dựng vào khoảng năm 525 được nêu ra là giống nhau. Rõ ràng, công trình xây dựng đại tháp đã có trước hai giai đọan xây dựng gần tòa Kim cang; giai đọan đầu là suốt triều đại vua A-dục và giai đọan hai là trong thế kỷ thứ I.

***

[Trích dịch từ "A Note on the Date of MahaBodhi Temple" của Giáo Sư Vijay Kumar Thakur, đăng trong kỷ yếu Buddha Vandana, Buddha Gaya 1998, trang 9].


 [1] B.M.Barua, Inscriptions of Ashoka, pt. ii, Calcutta, 1945, p. 186.

[2] XX.I.

[3] R K. Mookerji, Ashoka, Delhi, 1955, p. 149.

[4] V 171.

[5] R K. Mookerji, op.cit., pp.149-150.

[6] Buddha Gaya Temple: Its History, Buddha Gaya, 1981, p11.

[7] Ashoka's association with the temple has been mentioned in a hymn of Chinese pilgrim Hasia-pias (A.D. 1921) and a late Burmese inscription. Even Hsuan-tsang credits him with the erection of a ten feet high stone boundary wall around the Bodhi tree. op. cit., pp. l 1-12.

[8] A. Cunningham, Mahabodhi or the Great Buddhist Temple under the Bodhi Tree of Buddha-Gaya, London, 1982.

[9] D. K. Batua, op. cit., p.12.

[10] Gaya and Buddha-Gaya, Vol.II, Calcutta, 1934, p.40.

[11] A Cunningham, op. cit,, p.15.

[12] Ibid., p. 20.

[13] B. M. Barua, op.cit., p.70.

[14] Op. cit., pp.18-21.

[15] James Legge (tr.) A Record of Buddhistic Kingdoms. Being an Account by the Chinese Monk Fa-Hien of his Travel.s in India and Ceylon (A.D.399-414) in search of the Buddhist Books of Discipline, London, 1898.

[16] T. Watters, On Yuan Chawang's Travels in India, A.D. 629-645, Delhi, 1965, pp. 119-138.

[17] A. Cunnigngttam, op. cit., pp. 18

[18] B. M. Barua, op. cit., p.68.

 


Cập nhật: 1-1-2001

Trở về mục "Phật tích và Danh thắng"

Đầu trang