Trang tiếng Anh

      Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt

   

...... ... .  . .  .  .

Xứ Phật Tình Quê II
Thích Hạnh Nguyện
Thích Hạnh Tấn


Chương năm  Phật Giáo Mạn Tây Ấn 


Aparanta -Bối cảnh lịch sử 
Phật pháp được truyền bá đầu tiên ở miền ven biển Aparanta là do ngài La Hán Purna, một đệ tử truyền thừa trực tiếp từ đức Phật. Purna nguyên là một nhà buôn giàu có từ Soparaka , khi nghe tin đức Phật giảng pháp tại Xá Vệ, ngài xin được xuất gia và gia nhập tăng đoàn. Chứng quả A La Hán xong, ngài mang Phật pháp về truyền bá nơi quê hương của mình. Tại đây ngài đã cho xây dựng tu viện Candanamala Prasada và cầu thỉnh đức Phật đến giảng dạy. Cùng với 500 đệ tử, đức Phật đến Aparanta và ở lại tu viện một đêm. Để lại dấu chân nơi bờ sông Narmada, hôm sau ngài trở lại Xá Vệ. 

Khoảng cuối thế kỷ thứ 4 trước tây lịch, vua Chandragupta Maurya đã đưa Aparanta vào triều đại Mauryan cùng với Surastra và Sindh. Trong triều đại người cháu là vua A Dục, ngài La Hán Moggaliputta Tissa đã gởi các vị tăng đi khắp AᮠĐộ để truyền bá giáo pháp đức Phật, đến cả những vùng xa xôi và hẻo lánh. Các vị tăng này dưới sự lãnh đạo của Tỳ kheo Yonaka Dharmmarakkhita đã giảng dạy Phật pháp ở Aparanta. Một trụ đá A Dục tìm thấy ở Soparaka, và một hộp đá Xá lợi, bạc và vàng cũng đào được từ các khu nền của một ngôi tháp xưa gần thành phố. 
Sau thời gian bị ngược đãi bởi vị vua Sunga đầu tiên là Pusyamitra vào thế kỷ thứ 2 trước tây lịch, Phật giáo phát triển trở lại dọc theo vùng ven biển phía tây. Vào khoảng năm 110 trước TL, một bộ tộc ở trung tâm Á châu là Saka đã di cư vào vùng bắc Persia, tiến vào vùng Sindh. Sau khi thiết lập căn cứ vững vàng ở Sindh, họ tấn công tiếp vào mạn đông đến Aparanta. Cùng theo với họ có những người Parthian và người Kusana; người bộ tộc Saka và dân Aparanta sau đã đưa người Kusana lên thống lãnh và tạo vùng này thành một vùng tự trị. 

Triều đại Kusana tiếp theo được thành lập và cai trị vùng này cho đến thế kỷ thứ 3 sau TL, còn người bộ tộc Saka thì tiếp tục cai trị vùng phía tây cho đến đầu thế kỷ thứ 5, khi vua Chandragupta II , một vị vua hùng mạnh đã sát nhập hai vùng Aparanta và Surastra lại thành một triều đại Gupta rộng lớn. Các vị vua chiến sĩ của thị tộc Maitraka đã cố bảo vệ Surastra trong thời gian bị tấn công vào cuối thế kỷ thứ 5 và đầu thế kỷ thứ 6. Các cuộc chống cự này đã giúp cho Valabhi và vùng biển Aparanta khỏi các cuộc tàn phá từ những cuộc tấn công từ trung tâm AᮠĐộ. 
Khi ngài Huyền Trang viếng thăm Aparanta vào thế kỷ thứ 7, ngài có ghi rằng vua Harsa nước Kanauj, một vị hộ trì Phật pháp đắc lực đã mở rộng tầm ảnh hưởng lớn mạnh của mình vào các vùng phía tây. Gần như tất cả vị vua chúa và quan lại ở các tỉnh phía tây theo đạo Phật và một số rất tận lực hộ trì cho những công trình phát triển Phật giáo trong vùng. 

Bharukaccha 
Cửa khẩu Bharukaccha hiện nay là Broach, trong kinh Bổn Sanh ghi là quê hương của những thương gia và là nơi mà các nhà thám hiểm dấn mình vào những cuộc tìm kiếm châu báu. Ngài Huyền Trang ghi nhận rằng: “nơi đây có 10 tu viện với khoảng 300 tăng sĩ tu theo phái Sthavira và Đại thừa. Người dân Bharukaccha sống bằng nghề đánh cá, họ không thích học hành và hòa mình vào đời sống đạo . 

Valabhi 
Nằm ở vịnh Kathiawar trên đoạn đường nối liền giữa Bharukaccha và các thành phố phía tây của Surastra. Mặc dù Phật giáo truyền vào vùng này vào thời gian đầu tây lịch nhưng mãi đến thế kỷ thứ 5 khi các nhà vua thuộc triều đại Maitraka lên nắm quyền cai trị và ủng hộ Phật giáo, thì Phật giáo mới phát triển mạnh và nơi đây đã trở thành một trung tâm tu học cực thịnh danh tiếng khắp Aᮍ Độ lúc bấy giờ. Theo bảng bia ký bằng đồng được tìm thấy, thì công chúa Dudda, người cháu của vua Dhruvasena I  đã bảo trở xây dựng ngôi tu viện Phật giáo đầu tiên ở Valabhi. Công trình xây dựng này rất vĩ đại và cũng nổi tiếng với tên gọi “tu viện hình thể Mandala”, cho thấy nó bao gồm rất nhiều chùa viện nhỏ khác bên trong. Ít nhất người ta thấy một số các tu viện khác bên trong dành cho chư ni. Bức bia ký còn ghi rằng, chính công chúa Dudda cũng xuất gia làm ni. Vào thế kỷ thứ 6, Mimma, một người đàn bà trong dòng dõi vương tộc khác cũng bảo trợ xây một tu viện và sau đó xuất gia làm ni. 

Những bức bia ký ghi nhận rằng, có ít nhất 13 tu viện khác được xây để làm nơi trú ngụ cho các chư tăng khác từ khắp nơi trong nước đổ về Valabhi để tu học. Chư tăng của 18 trường phái Sravaka sống và tu học cùng với các chư tăng Đại thừa. Tu viện giúp đỡ những người tu tại đây, và bên trong cũng có một thư viện rất lớn, tàng chứa rất nhiều kinh điển Phật giáo. 

Vào thế kỷ thứ 7, ngài Huyền Trang đến đây và thuật lại rằng; “Valabhi có đông đúc dân cư sinh sống. Các tu viện được hàng trăm gia đình giàu có bảo trợ. Những gia đình này phát đạt nhờ các lợi nhuận thương mại hàng hóa trên cửa biển, vì “hàng hóa và những đồ vật quý hiếm từ những vùng xa xôi, người ta thấy ở đây rất nhiều ”. Người dân vùng này bảo trợ cúng dường cho hàng trăm tu viện với khoảng 6000 tăng sĩ, phần lớn thuộc truyền thống Sammatiya. Gần Valabhi là tu viện Sri Bappapada, nơi hai đệ tử của ngài Thế Thân là Gunamati và Sthiramati từng cư ngụ và viết các luận phẩm của họ. Theo sự cấp phát của vua Dharasena I thì ngài Sthiramati là người sáng lập tu viện Sri Bappapada. Ngài cũng triển khai những giáo lý Vijnanavada của ngài Thế Thân, còn ngài Gunamati trong thời gian ở đây đã tập chú viết về luật và Duy thức. Đệ tử của ngài Gunamati là Vasumitra tiếp tục dòng Duy thức và sáng tác thêm nhiều luận bản về A Tỳ Đata Câu Xá, một trong những tác phẩm chính của ngài Thế Thân. 
Paramartha, một vị tăng từ Ujjayini, cũng là đệ tử của ngài Gunamati và rất giỏi về tiểu sử ngài Thế Thân nên đã ghi lại. Rất tiếc ngày nay chỉ còn lại bản dịch của tiếng Hoa mà thôi. Sau khi hoàn tất chương trình học, ngài Paramartha đã đi sang Trung Quốc. Tại đây ngài đã dịch được hơn 30 tác phẩm kể cả những tác phẩm của ngài Gunamati và ngài Vasumitra. 

Vào thời ngài Huyền Trang, Valabhi đã là trung tâm chính cho các ngành học Sravakayana và Vijnavada, kế đến mới là đại học Nalanda. Ngài Nghĩa Tịnh ghi rằng, đại học Nalanda và Valabhi là hai nơi ở Aᮍ Độ mà các học giả có thể hoàn tất ngành học về hai môn này . Vua Valabha bấy giờ là Dhruvapata, cũng là cháu của vua Siladitya của vùng Malava và là con rể của vua Kanyakubja. Ngài Huyền Trang ghi rằng: “vua Dhruvapata là một người năng nổ và vội vàng, sự hiểu biết và điều hành quốc gia chưa thấu đáo. Mới vừa quy y tam bảo, nhà vua liền cho triệu tập tăng chúng và trong 7 ngày cúng dường các bảo vật đến mọi người. Cúng dường xong nhà vua lại mua chuộc lại với giá gấp đôi. Nhà vua quý chuộng công đức và tôn trọng người hiền. Nghe những bậc có trí tuệ, vua rất là tôn kính; với các vị từ xa đến, vua tiếp đón nồng hậu và đảnh lễ cúng dường . Quyền lực của vua Dhruvapata mở rộng ra khắp vùng vịnh Surastra giàu có. Theo các chữ ghi khắc trên đá được tìm thấy, thì vị vua này cũng được xem là một vị Dharmadiya, một vị pháp vương. “Hướng tây Valabhi là Surastra nơi có dân cư đông đúc. Tại đây có khoảng 50 tu viện với 3000 tăng sĩ, phần lớn thuộc phái Sthavira và Đại thừa. Các tu viện được tạc từ những đá núi rắn chắc của ngọn Ujjanta. “Ở đây các bậc thánh và những vị ẩn sĩ sống thư thái thanh nhàn, họ có nhiều năng lực thần thông ”. 
Tại Gurjarat, hướng bắc của Surastra và Kaccha, Ngài Huyền Trang thấy Phật giáo ở đây suy đồi. Trong vùng sa mạc này chỉ có một tu viện với khoảng trăm tăng sĩ theo Sarvastivadin. Còn các chùa Aᮍ giáo thì rất nhiều, hơn cả Phật giáo đến mươi lần. Ngài Huyền Trang rất trọng nể vị vua trẻ xứ Gurjarat vì sự lãnh đạo quốc gia thông minh và có lòng hướng về Phật pháp. 

Sindh 
Theo ngài Huyền Trang, Phật giáo ở Sindh đã thịnh hành vào thế kỷ thứ 7 và đây là một quốc gia giàu có, nhiều vàng bạc và đồng, được vua Sudra là một người rất tôn sùng Phật giáo cai trị. Có hàng chục trụ đá vua A Dục cho tạo dựng ở đây để tưởng niệm sự viếng thăm của đức Phật đến nơi này. Ngài Huyền Trang ghi: “tổ Upagupta  cũng thường đến giảng pháp và độ người. Các chùa viện và tháp được xây ở những nơi mà tổ đã viếng thăm. Tóm lại, nhà chiêm bái này ghi nhận có hàng trăm ngôi chùa, với hàng mươi ngàn tăng sĩ tu tập, phần lớn thuộc truyền thống Sammatiya (Chánh Lượng Bộ). Có quá nhiều đền tháp chùa viện xây dựng ở Sindh đến nổi ngài Huyền Trang ghi rằng: “công trình xây dựng thấy ở khắp mọi nơi, tôi chỉ nói sơ lược thôi ”, nhưng ngài Huyền Trang thêm rằng, các tăng sĩ sống trong tu viện giới luật có phần lỏng lẽo. Còn những ai tu hành nghiêm mật thì thường sống đơn độc ở những vùng sa mạc, núi non hoặc ẩn tu trong rừng.” 

Thành phố Visapapura, Vasmapura, Balmapura, Minagara, kinh đô của Sindh có thể ở gần Mohenjo Daro, một thành phố lớn bị bỏ quên vào khoảng năm 1500 trước TL. Trong triều đại Kusana , một ngôi tháp Phật giáo lớn và một tu viện được xây trên đỉnh cao của nền Mohenjo Daro. Khi nơi này được khai quật vào giữa năm 1922-1923, nền của tu viện được cho là rất lớn, bốn cánh mở rộng với một ngôi tháp cao ngất ở giữa, và nhiều dãy kiến trúc tu viện bên cạnh một khoảng sân rộng. Nền tháp cao đến 20 feet, và đường kính tháp rộng hơn 33 feet, giữa tháp dường như rỗng. Theo nhà khảo cổ học Marshall, một người khai quật được rất nhiều nền tháp, tự viện thuộc triều đại Kusana thì tháp được tô điểm với nhiều cột trụ, và cao đến ba tầng. 
Những ngôi tháp nhỏ xây cúng dường và phòng ở chư tăng được xây dựng chung quanh đại tháp. Các kiến trúc chung quanh khuôn viên sân có thể cao hai tầng, với lan can hướng về khoảng sân. Một số lượng lớn tro tìm thấy ở nơi này, chứng tỏ gỗ đã được dùng trong các vật liệu xây cất và tu viện từng bị thiêu hủy bởi hỏa hoạn. Những dấu hiệu khác còn cho thấy, tu viện từng được trùng tu và sửa sang nhiều lần, và độ cao được nâng dần lên sau khoảng 3, 4 thế kỷ. 

Các đồng tiền tìm thấy nơi đây cũng cho biết là tu viện từng có người ở vào giữa năm 150 trước TL cho đến năm 500 sau TL, hoặc khoảng triều đại vua Kusana I Vasudeva cho đến cuối thế kỷ của triều đại Gupta. Trước khi khai quật, nơi này có độ cao là 72 feet so với mặt nền chung quanh. Nếu tu viện và ngôi đại tháp bị thiêu hủy vào năm 500 sau TL, ngài Huyền Trang có thể thấy sự kiện này trong lúc đi hành hương đến Sindh, nhưng ngài không có đề cập đặc biệt nào về khu di tích này. 
Ở Marshland dọc theo sông Indus, ngài Huyền Trang đến một nơi có cộng đồng sắc tộc rất lạ. Họ đều cạo đầu như những người tu nhưngại sống cuộc sống thế tục. Chuyện kể rằng, vào một vài thế kỷ trước, có vị La Hán đến viếng thăm vùng này và nhận thấy tính khí người dân nơi đây hung dữ, bạo động. Ngài đã ở lại với họ một thời gian và hóa độ họ trở nên rất hiền lương. Khi hoàn toàn hiểu biết về Phật pháp, họ đã thay đổi thói cũ, từ bỏ sát sanh, giết hại và thọ các giới tỳ kheo. Mặc dù vào thế kỷ thứ 7, họ vẫn giữ hình thức tu tập ở bên ngoài, nhưng không còn giữ giới. Tự sống như những người thế tục, họ thuận theo quan điểm tiểu thừa, khinh chê Đại thừa.” 

Tại cửa khẩu sông Indus, trên vùng biển Arabian là vương quốc “O-tien-po-chi-lo” ngài Huyền Trang đề cập: “Ở đây cũng giống như vương quốc Sindh, người dân rất ưa chuộng Phật giáo. Có khoảng 80 tu viện trong vùng , và với khoảng 5000 tăng sĩ thuộc truyền thống Sammatiya; cũng có một trụ đá A Dục đánh dấu nơi đức Phật đến viếng thăm nơi này. Năm 1920, trong một cuộc khai quật, người ta tìm thấy những bảng ghi lạc quyên tại khu đồi Tharro, gần Gujo, một ngôi làng khoảng 50 dặm về hướng bắc cửa khẩu sông Hindus. 

Đi xa hơn về phía tây, dọc theo bờ phía bắc biển Arabian, là vương quốc Langala. Ngài Huyền Trang ghi rằng, ở đây có khoảng trăm tu viện với 6000 tăng sĩ và họ đều tu học ở cả hai truyền thống Sravaka và Đại thừa. Vào thế kỷ thứ 7, vùng này được cai trị bởi người Persia, dù rằng ngôn ngữ và chữ viết ở đây rất giống như chữ viết AᮠĐộ. Trong khi ngài Huyền Trang chưa đi đến Persia, ngài cũng nghe có hai ba tu viện Phật giáo ở đó với vài trăm tăng sĩ thuộc phái Sarvastivadin; một trong tu viện đó còn có cất giữ chiếc bình bát của đức Phật. 

Cả ngài Pháp Hiển và ngài Huyền Trang đều có nói đến truyền thống, “bình bát đức Phật phải được giữ trong quốc gia thọ trì giáo pháp của ngài”. Ngài Pháp Hiển ghi rằng, “vào thế kỷ thứ 5, bình bát ấy vốn được giữ tại Tỳ xá Ly, tại Gandhara. Sau một thời gian bình bát ấy chuyển đến trung tâm Á châu, rồi đến Khotan, Kucha. Từ đó lại đi đến Trung Quốc, Tích lan và về lại Ma Kiệt Đà. Sau đó bình bát ấy lại được mang lên cõi trời Đâu Suất, và biến hiện ra bốn bình bát khác, phân chia ra đến bốn vị Thiên vương. Sau khi Bồ tát Di Lặc giác ngộ thành Phật, bốn vị thiên vương kia sẽ hiện đến Kim cang tòa và cúng dường bình bát cho ngài như họ đã từng làm đối với đức Phật Thích Ca. Đức Phật Di Lặc sẽ đặt những chiếc bình bát ấy, chiếc này vào trong chiếc kia và ấn xuống để trở thành một bình bát. Như vậy chiếc bình bát này sẽ được truyền trao cho từng vị Phật mãi đến ngàn vị Phật trong hiền kiếp . 
Hướng bắc của Langala, khoảng 200 dặm phía bắc của vùng biển Arabian và hướng tây của sông Indus là vương quốc Pitasila, một vùng đất dựa vào vương quốc Sindh. Ở đây ngài Huyền Trang thấy khoảng 50 tu viện với 3000 tăng sĩ thuộc phái Sammatiya. 


| Giới thiệu | Tin tức | Đất nước | Mạn Đông | Mạn Đông-Nam | Mạn Tây-Ấn | Sanchi

 


Cập nhật: 6-5-2000

Trở về thư mục "Phật tích và Danh thắng"

Đầu trang