Trang tiếng Anh

Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt   

   

...... ... ..  . ..  .  .
TấmLòngRộngMở
LUYỆN TẬP LÒNG TỪ BI TRONG ĐỜI SỐNG HÀNG NGÀY

Lê Gia hiệu đính
Dịch từ nguyên tác tiếng Anh: AN OPEN HEART
PRACTICING COMPASSION IN EVERYDAY LIFE

* * *

CHƯƠNG XIII
 
SỰ THÔNG SUỐT
(WISDOM)

 

Đến đây chúng ta đã làm quen với những kỹ thuật rèn luyện tâm trí của mình vì vậy nên chúng ta có thể giữ cho tâm trí của mình tập trung hoàn toàn vào một đối tượng thiện định. Khả năng này là một phương tiện cần thiết để nắm bắt được sự trống rỗng(emptiness) riêng biệt thông suốt. Mặc dù tôi đã đề cập đến "sự trống rỗng" trong suốt cuốn sách này, bây giờ chúng ta hãy khảo sát sâu hơn về "sự trống rỗng".

 BẢN NGÃ (CÁI TÔI)
(THE SELF)

Tát cả chúng ta đều có ý thức rõ rệt về "bản ngã", cũng như một ý thức rõ rệt về "cái tôi". Chúng ta biết rằng chúng ta đang ám chỉ ai khi chúng ta nghĩ "Tôi sắp sửa đi làm", "Tôi đang đi về nhà" hoặc "Tôi đói bụng". Thậm chí loài vật cũng có ý thức về đồng loại của chúng, tuy nhiên chúng không thể diễn đạt bằng lời nói như chúng ta. Khi chúng ta cố gắng tìm hiểu "cái tôi" là gì, chúng ta khó có thể xác định được.

Ở Aán Độ cổ đại, nhiều nhà triết học Hindu đã cho rằng "cái tôi" này tuỳ thuộc vào thể xác và tâm hồn của từng người. Họ cho là ắt hẳn phải có một nhân tố nào đó tạo ra sự liên tục giữa những giai đoạn khác nhau của "cái tôi" , ví dụ như là "cái tôi" trong: "khi tôi còn trẻ" hoặc "khi tôi về già" và thậm chí là "cái tôi" trong kiếp trước và "cái tôi" trong kiếp sau. Vì tất cả những "cái tôi" này đều tồn tại ngắn ngũi và không vĩnh viễn, người ta thấy là ắt hẳn phải có một "cái tôi" nào đó độc lập và vĩnh cửu sở hữu mọi giai đoạn của sự sống này. Đây là nền tảng cho việc thừa nhận một "cái tôi" riêng biệt với tâm hồn và thể xác, người ta gọi nó là "linh hồn" (atman).

Thật ra, tất cả chúng đều có những quan điểm về cái tôi giống như vậy, chúng ta xem nó như nòng cốt của đời sống chúng ta. Chúng ta không cảm nhận được nó như những bộ phận tay, chân, đầu và mình, đúng hơn là chúng ta xem nó như là chủ nhân của những bộ phận này. Tôi tin vào "cái tôi" độc lập nằm tận nơi sâu thẳm trong lòng mình, nó sở hữu những bộ phận hợp thành chúng ta.

Có gì không ổn với đức tin này? Tại sao một cái tôi độc lập với thể xác và tâm hồn lại bị phản đối? Những nhà triết học Phật giáo cho rằng một "cái tôi" có thể được xem là có mối quan hệ với tâm hồn và thể xác. Họ giải thích rằng nếu một "linh hồn" hay "cái tôi" tồn tại, thì hoặc là nó tách rời với những bộ phận tạo ra nó hoặc là nó có những bộ phận riêng biệt của nó. Tuy nhiên , nếu nó tách rời với tâm hồn và thể xác, thì sẽ không xác đáng, bởi vì như vậy có nghĩa là nó không có liên quan gì đến tâm hồn và thể xác. Và việc đề xướng ra một cái tôi không thể phân chia và vĩnh cửu tạo nên tâm hồn và thể xác là buồn cười và lố bịch. Tại sao? Bởi vì một cái tôi không thể phân chia, trong khi đó bộ phận cơ thể thì rất nhiều. Cái tôi chỉ có một thì làm sao đóng nhiều vai trò trong việc điều khiển cơ thể?

Vậy thì bản chất của "cái tôi" mà chúng ta quá quen thuộc này là gì? Một số nhà triết học Phật giáo hướng đến sự kết hợp giữa những bộ phận thể xác và tâm hồn và xem toàn bộ tập hợp đó là cái tôi. Những người khác lại cho rằng sự liên tục ý thức chúng ta chính là "cái tôi". Cũng có những người tin rằng những năng lực tinh thần, nền tảng tâm hồn của tất cả mọi người, là "cái tôi". Tất cả những quan điểm trên đều là những cố gắng để dung hòa những đức tin của chúng ta về "cái tôi". Trong khi chúng ta nhận ra được rằng sự cố định và vĩnh cửu là phi lý, chúng ta tự nhiên gán cho "cái tôi" những bản chất mà mình thấy hợp lý.

 CÁI TÔI VÀ NHỮNG ĐAU KHỔ
(SELF AND AFFLICTIONS)

Nếu chúng ta suy xét những cảm xúc của chúng ta, những kinh nghiệm của chúng ta về lòng lưu luyến và sự thù địch mạnh mẽ, thì chúng ta sẽ thấy rằng căn nguyên của những tình cảm đau khổ đó là xúc cảm mãnh liệt bám vào "cái tôi". "Cái tôi" như vậy chúng ta cho là độc lập và tự chủ. Khi đức tin của chúng ta về "cái tôi" mạnh mẽ thêm thì mong ước bảo vệ và thỏa mãn mó cũng tăng lên.

Tôi sẽ cho bạn một ví dụ: khi bạn trông thấy một chiếc đồng hồ đẹp trong cửa hiệu tự nhiên bạn bị lôi cuốn. Nếu người bán hàng đánh rơi chiếc đống hồ đó, bạn sẽ nghĩ "Ô trời! Chiếc đồng hồ bị rơi xuống đất rồi". Điều này gây tác động lên bạn không mạnh mẽ lắm. Tuy nhiên, nếu bạn mua chiếc đông hồ đó, và từ đó bạn xem nó là "chiếc đồng hồ của tôi", rồi thì , nếu bạn đánh rơi nó, thì bạn sẽ bị tác động rất mạnh mẽ, bạn sẽ cảm thấy như tim của mình nhảy ra ngoài vậy!! Cảm xúc mạnh mẽ này xuất phát từ đâu? Sự sở hữu xuất phát từ "cái tôi". YÙ thức về "cái tôi’’ càng mạnh thì ý thức về "cái của tôi" cũng càng mạnh. Đây chính là lý do tại sao bạn nên giảm bớt đức tin về một cái tôi độc lập và tự chủ . Môt khi bạn loại bỏ được ý thức về cái tôi như vậy, những cảm xúc được bắt nguồn từ cái tôi đó cũng biến mất.

 LÒNG VỊ THA CỦA NHỮNG NGƯỜI PHI THƯỜNG
(SELFLESSNESS OF ALL PHENOMENA)

Họ không phải là những người không có "cái tôi". Tất cả những người phi thường đều có "cái tôi". Nếu chúng ta phân tích hay tìm hiểu một bông hoa, bằng cách nhìn nơi những bộ phận của nó, chúng ta sẽ không tìm thấy gì. Điều này cho thấy rằng bông hoa thật sự không sở hữu những tính chất bên trong. Một chiếc xe ca, một cái bàn hay một cái ghế cũng vậy. Thậm chí là chúng ta có thể tách mùi của chúng ra được một cách khoa học, rồi đó chúng ta có thể chỉ ra được mùi và vị của chúng.

Tuy vậy, chúng ta không thể phủ nhận sự tồn tại của bông hoa và mùi thơm của nó. Vậy thì chúng ta tồn tại như thế nào? Một số nhà triết học Phật giáo đã giải thích rằng cái bông hoa mà bạn trông thấy chỉ là dáng vẻ bên ngoài của nó mà thôi. Nó chỉ thật sự tồn tại theo cách mà chúng ta cảm nhận nó thôi. Theo sự giải thích này, nếu có một bông hoa trên bàn, bông hoa mà tôi cảm nhận được bằng tâm hồn của tôi mới đúng thực chất là bông hoa đó, còn bông hoa mà bạn cảm nhận bằng mắt và trông thấy ở trên bàn có thể chỉ là vẻ bên ngoài của nó mà thôi. Mùi của bông hoa mà bạn ngữi thấy có thể cũng đúng mùi mà bạn cảm nhận được. Bông hoa mà tôi cảm nhận có thể khác với bông hoa mà bạn cảm nhận.

Sự quan sát bằng tâm hồn này làm hạn chế tri giác của chúng ta về sự thật của vật thể, nó đóng một vai trò quan trọng trong ý thức. Người ta nghĩ ra những sự việc khác nhau, bị kích thích bởi những hiện tượng phi thường khác nhau và cuối cùng chẳng tìm thấy được điều gì cả.

 SỰ TRỐNG RỖNG VÀ CĂN NGUYÊN PHỤ THUỘC
(EMPTINESS AND DEPENDENT ORIGINATION)

Vậy thì "sự trống rỗng" là gì? Nó đơn giản là "chẳng tìm thấy được gì cả". Khi chúng ta tìm kiếm bông hoa trong những bộ phận của nó, chúng ta đối mặt với "sự không hiện hữu" của bông hao mà chúng ta muôn tìm. "Sự không hiện hữu" đó gọi là "sự trống rỗng" của bông hoa. Nhưng mà nếu vậy thì không có bông hoa sao? Dĩ nhiên là có. Tìm kiếm căn nguyên của bất kỳ một sự vật hiện tượng nào có nghĩa là đạt tới những cảm nhận tinh vi về "sự trống rỗng" của nó, cái sự "chẳng tìm thấy được gì cả". Tuy nhiên, bạn đừng nghĩ là "sự trống rỗng" của một bông hoa đơn giản là tình trạng "chẳng tìm thấy được gì cả" của nó mà chúng ta đối mặt khi chúng ta tìm kiếm những bộ phận của nó. Đúng hơn, nó là bản chất phụ thuộc vào bông hoa hoặc những bộ phận của nó mà bạn đặt tên, chính những điều đó cắt nghĩa "sự trống rỗng" của nó. Điều này đuợc gọi là "căn nguyên phụ thuộc".

 THIỀN ĐỊNH VỀ "SỰ TRỐNG RỖNG"
(MEDITATION ON EMPTINESS)

Thấu hiểu được "sự trống rỗng" không phải là điều dễ dàng thực hiện được, những trường đại học Tôn Giáo ở Tây Tạng đã bỏ ra nhiều năm để sinh viên học tập và nghiên cứu về nó. Những nhà sư học thuộc lòng những bài kinh Phật và những lời bình chú qua những bậc thầy người Tây Tạng và Aán Độ. Họ học tập nghiên cứu cùng với những học giả thông thái và trải qua nhiều giờ trong một ngày để tranh luận về vấn đề. Để gia tăng hiểu biết về "sự trống rỗng", chúng ta phải học tập, nghiên cứu và suy niệm về nó rất nhiều. Điều quan trọng là phải làm công việc đó cùng với sự chỉ đạo hướng dẫn của một bậc thầy có đủ năng lực, một người thấu hiểu "sự trống rỗng" hoàn tòan.

Cùng với những vấn đề khác được đề cập trong sách này, sự thông thái được trau dồi bằng những kỹ thuật "thiền định phân giải" và kỹ thuật "thiền định cố định" . Tuy nhiên, trong trường hợp này, nhằm nâng cao nhận thức hiểu biết về "sự trống rỗng", bạn không luân phiên 2 kỹ thuật này, mà thực ra thì bạn kết hợp chúng. Bạn tập trung tâm trí mình vào việc phân tích "sự trống rỗng" bằng phương pháp "tập trung vào một điểm duy nhất". Điều này được gọi là sự hợp nhất của duy trì điềm tĩnh và sự hiểu biết sâu sắc đặc biệt. Bằng cách liên tục thiền định theo cách này, sự hiểu biết của bạn biến thành nhận thức thật sự về "sự trống rỗng". Ở điểm này, bạn đạt tới "giai đoạn chuẩn bị".

Nhận thức của bạn chỉ là khái quát, vì nhận thức của bạn về "sự trống rỗng’’ đã được xuất phát từ những suy luận hợp lý. Tuy nhiên, điều này trang bị cho người thiền định để họ có thể đạt được những nhận thức đúng đắn về "sự trống rỗng".

Lúc này, người thiền định liên tục trau dồi và nâng cao nhận thức suy luận của mình về "sự trống rỗng". Điều này dẫn đến việc đạt được "hướng nhìn nhận" . Bây giờ, người thiền định đó thấy được "sự trống rỗng" trực tiếp, rõ ràng như là họ gạch một đường thẳng lên tay của mình.

Bằng cách liên tục về "sự trống rỗng", người ta tiến tới "thiền định". Đến đây, không còn khía cạnh nào khác của cuộc hành trình tâm hồn cần thiết phải được trau dồi.

 NHỮNG MỨC ĐỘ BỒ TÁT
(THE BODHISATTVA LEVELS)

Một tín đồ Mahayana ( một giáo phái của Phật giáo) bắt đầu quá trình trau dồi phát triển của họ qua những giai đoạn dẫn tới Cõi Phật ở một mức độ phát sinh tấm lòng Bồ Tát. Là một người luyện tập, chúng ta nên phát triển mọi phẩm chất khác nhau đã được trình bày trong cuốn sách này. Khi có được hiểu biết thật sự về luật nhân quả, chúng ta phải loại bỏ những hành vi gây hại cho bản thân và cho mọi người. Chúng ta phải nhận thức được rằng cuộc sống là một chuổi dài đau khổ. Chúng ta phải có khát vọng vượt qua những đau khổ đó. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải có khát vọng từ bi giúp làm nhẹ bớt những đau khổ tràn lan của mọi người, những đau khổ đó giăng bẫy làm cho mọi người sa chân vào vũng bùn lầy lội của vòng luẩn quẩn. Chúng ta phải có được lòng yêu thương - tử tế lòng mong ước đem đến cho mọi người niềm hạnh phúc vô bờ bến. Chúng ta phải cảm nhận được trách nhiệm của mình là phải đạt tới sự giác ngộ cuối cùng.

Ở mức độ giác ngộ này, người ta đạt tới "sự tích lũy". Cùng với những động cơ thúc đẩy của trạng thái bồ tát, người ta liên kết được "đức trầm tĩnh" và những hiểu biết đặc biệt của mình, bằng cách đó người ta có được những nhận thức về "sự trống rỗng" đã được mô tả bên trên. Đến lúc này người ta đạt được "sự chuẩn bị". Trong suốt "sự tích lũy" và "sự chuẩn bị", vị Bồ Tát băng qua một khoảng thời gian vô tận của việc luyện tập, nhờ đó mà vị Bồ Tát tích lũy được vô số tài năng và đ?ng thời mở rộng, nâng cao sự thông suốt của mình.

Khi nhận thức về "sự trống rỗng" của một người không còn ở mức độ suy luận nữa, người đó đã đạt tới mức độ thứ nhất trong số 10 mức độ bồ tát dẫn đến Cõi Phật. Qua việc suy niệm liên tục về "sự trống rỗng", người đó đã đạt tới mức độ thứ hai dẫn đến Cõi Phật và đồng thời đạt được "sự thiền định". Theo đà tiến triển, người đó vượt qua khoảng thời gian luyện tập vô tận thứ hai và đạt được mức độ thứ ba, tích lũy vô số tài năng và sự thông suốt.

Liên tục duy trì ba mức độ bố tát này, người đó vượt qua khoảng thới gian tập luyện vô tận thứ ba và nhờ đó đạt được "sự nâng cao kiến thức".

Bây giờ, người đó đã là một Đức Phật hoàn toàn giác ngộ.

Vậy thì phía trước vẫn còn nhiều khoảng thời gian vô tận của việc luyện tập nữa. Chúng ta phải kiên trì. Chúng ta phải tiến lên từng bước một, liên tục trau dồi luyện tập. Chúng ta cũng phải giúp mọi người luyện tập đạt tới mức độ như chúng ta và ngăn mình không gây hại cho mọi người. Khi lòng ích kỹ của chúng ta giảm dần và lòng vị tha của chúng ta tăng lên, chúng ta trở nên hạnh phúc hơn, mọi người xung quanh cũng hạnh phúc hơn. Đây là một cách để chúng ta tích lũy được những tài năng và đức hạnh cần thiết nhằm đạt tới cõi Phật.

Mục lục | Lời tựa | Giới thiệu | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 |

Chúng tôi chân thành cảm ơn Phật tử Ngọc Hạnh đã phát âm đánh máy gởi sách này về cho ban biên tập

 


Vào mạng: 1-1-2005

Trở về mục "Đức Phật và Phật pháp"

Đầu trang