Trang tiếng Anh

Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt   

   

...... ... ..  . ..  .  .
 ĐẶC SẮC VÀ TINH THẦN CỦA PHẬT GIÁO

 

MỤC  LỤC

A.                 BÀI TỰA MỘT.

B.                 BÀI TỰA HAI.

C.                 BÀI TƯỜNG THUẬT.

D.                SÁNG TÁC CÓ XU HƯỚNG XUẤT BẢN lẦN BA.

I. CHƯƠNG THỨ NHẤT :

Động cơ tôi viết quyển sách :

  1. Tôi tin chắc Phật pháp là cần thiết để cứu chữa xã hội ngày nay.
  2. Phật giáo có thể chỉ đạo phương hướng nỗ lực của Thanh niên thế hệ chúng ta.
  3. Vì bằng hữu có tâm lực xem xét và nghiên cứu Phật học rất non kém.

II. CHƯƠNG THỨ HAI :

  Đặc sắc của Phật giáo :

1.                  Phật là người không phải là Thần.

2.                  Phật là Người thật bình đẳng.

3.                  Phật không phải là Người sanh ra mà biết.

4.                  Phật giáo không thừa nhận có người hạng thấp kém, ngu dốt mà không thể giáo hoá.

5.                  Phật không phải là độc nhất vô nhị _ mọi người đều có thể thành Phật.

6.                  Phật giáo không thừa nhận có thần linh sáng tạo vạn vật.

7.                  Phật giáo là giáo dục đúng đối tượng và định ra biện pháp thích hợp cho từng người.

8.                  Phật pháp là nhập thế.

9.            Phật giáo không có tánh biệt lập.

10.              Phật giáo là dân chủ và tự do.

III. CHƯƠNG THỨ BA :

Xóa bỏ mấy loại hiểu lầm không cần thiết :

  1. Phật giáo là trí tín, không phải mê tín.
  2. Phật giáo là khoa học, không phải phản khoa học.
  3. Phật giáo là từ bi, không sát sanh.
  4. Phật giáo là tích cực lạc quan.
  5. Phật giáo không phải là trốn tránh hiện thực.
  6. Phật giáo không chỉ nói suông nghĩa lý thâm diệu.
  7. Phật giáo phủ định: “Thuyết định mệnh”.
  8. Phật giáo không sùng bái tượng gỗ.

IV. CHƯƠNG THỨ TƯ :

Mấy loại đạo lý Phật giáo giản yếu :

  1. Thập thiện.
  2. Tứ đế.
  3. Mười hai nhân duyên.
  4. Lục độ.

V. CHƯƠNG THỨ NĂM :

Khắp nơi tín ngưỡng Phật giáo :

  1. Phật giáo có thể khiến con người hoạch được nhân sinh quan chính xác.
  1. Phật giáo có thể khiến con người tích cực hăng hái hướng thượng.
  2. Phật giáo có thể tịnh hoá nhân tâm và xã hội.
  3. Phật giáo có thể khiến con người được niềm vui chân chính.
  4. Có thể biết Đức Phật là đạo sư hiền từ nhất của nhân loại.
  5. Phật giáo có thể bồi dưỡng cho nhân cách tự tôn, tự tin và độc lập tự chủ.

VI. CHƯƠNG THỨ SÁU :

Mấy điểm thuyết minh được bổ sung :

  1. Phật giáo và văn học Trung Quốc.
  2. Giải thích sơ lược về ý nghĩa của Phật:

a)    Phật là gì ?

b)   Định nghĩa của Phật.

c)    Phật là ai?

  1. Phật giáo và Phật học.
  2. Thần linh được sản sinh như thế nào?

VII. CHƯƠNG THỨ BẢY :

Như thế nào để làm một đệ tử Phật giáo?

  1. Phải hiểu rõ Phật giáo và nghiên cứu Phật học.
  2. Phải có bi tâm thệ nguyện rộng lớn.
  3. Thọ tam quy y.

VIII. LỜI  CUỐI  SÁCH :

 

A.       BÀI TỰA MỘT

 Tôi biết Thầy Lâm Thế Mẫn từ khi ông còn nhỏ, do đó tôi hiểu ông là người phóng khoáng chân chánh, từ bi nhân hậu.

Từ nhỏ ông theo cha mẹ ra vào Phật môn, nghe kinh nghe pháp, gieo trồng thiện căn. Lại vì lòng ham muốn hiểu biết trổi dậy, vì vậy từ việc đối với giáo nghĩa của các loại tông giáo cho đến học vấn loại triết học Nhân sinh hữu quan, không có cái nào mà ông không hết sức tìm cầu và miệt mài nghiên cứu.

Ông là người ưa chuộng và là người tìm cầu chân lý. Ông có chỗ tâm đắc về giáo lý của Đức Phật, biết giá trị và ý nghĩa giáo lý của Đức Phật đối với nhân sinh. Vì đó ông không tiếc thời gian quý báu để hy sinh trong lúc nghỉ hè và bỏ ngủ quên ăn, đã viết thành quyển sách này “Đặc sắc và tinh thần của Phật giáo”để cống hiến cho vô số các bạn thanh niên ham thích và tìm cầu chân lý.

Tôi cho rằng quyển sách này có tác dụng chỉ đạo, cổ vũ và động viên một cách xác thực đối với các bạn thanh niên ngày nay. mặc dù nó được viết ra theo giáo lý của Phật nhưng trên thực tế, nó là kết tinh của việc sử dụng thái độ thành khẩn, lạc quan và khiêm tốn để tham luận chân lý. Chân lý, vả lại không phải chỉ có Phật giáo riêng có mà chính là nó thuộc về toàn thể nhân loại. Chỉ cần là một loại kiến giải rõ ràng và thấu triệt về đạo lý hoàn toàn viên mãn, bình đẳng thì không có pháp nào phá vỡ được. Bất luận chân lý, dù nó là kinh điển đến từ một loại tông giáo đó, phát xuất từ miệng một người đó nói ra, xuất phát từ tay một người đó viết ra, nó đều là lòng người có ích cho đời và đạo, có thể nó là hạnh phúc mà nhân loại mưu cầu, cho nên nó được toàn thể nhân loại tiếp nhận một cách thành khẩn và khiêm tốn.

Do đó, quyển “Đặc sắc và tinh thần của Phật giáo” này, không chỉ giới hạn ở thanh niên có tín ngưỡng Phật giáo mà còn ở các bạn học có tín ngưỡng tôn giáo khác, hoặc vẫn chưa có tín ngưỡng. Mọi người cũng đều nên cố gắng để đọc nó, chỉ cần vừa đọc thì sẽ thấy được lợi ích không kém. Đồng thời, tôi cho rằng nó là một quyển sách tốt có ích cho quốc gia và quần chúng xã hội, nó sẽ được kẻ sĩ trong xã hội khác xem đọc, cho nên tôi hoan hỉ giới thiệu đây để làm bài tựa.

Ngày 15.05.1971

Viết ở chùa Hoằng Pháp.

 B.       BÀI TỰA HAI.

Lâm Thế Mẫn là bạn học cao thượng kề cận quanh năm của tôi, do vì hứng thú hợp nhau, tuy chỉ học chung một năm mà chúng tôi trở nên thắm thiết.

Lúc ở đại học, chúng tôi đều có học ở Đài Bắc nên cơ hội tiếp xúc cũng rất nhiều. Tài hoa của Thế Mẫn lan tràn tứ phía, thường ngày ông vui vẻ, nghiên cứu, luận bàn Phật học: từ việc yêu mến nhân sinh cho đến tin chắc về chân lý là việc mà người khác không theo kịp ông.

Có lúc chúng tôi, hai người thường tận tình đàm luận đến đêm khuya, vì kết quả của đời người khốn khổ, vì vấn đề luận bàn tông giáo mà tranh luận đến nỗi mặt hồng, tía tai. Cũng do vì lẽ đó, cho nên trong lúc biện luận và đàm luận như thế, nó khiến cho con người này của tôi: từ khi chưa vào tự viện cho đến khi đã vào tự viện và từ lúc chưa được nghe Phật pháp cho đến khi được nghe Phật pháp thì tôi cũng được nhiều điều lợi ích. Tôi cũng có nhận thức và hiểu rõ nhỏ nhoi về Phật giáo, do đó tôi đã được sửa chữa quan niệm sai lầm từ lúc nhỏ cho rằng Phật giáo là mê tín, là sùng bái tượng gỗ.

Trước đây rất lâu, Thế Mẫn cũng thường đề cập đến một quyển sách mà ông cần viết về Phật giáo, ông có giới thiệu sơ về mối quan hệ hữu cơ khiến cho người khác có một quan niệm chính xác về Phật giáo, đồng thời ông chỉ ra một con đường nên đi cho một số người có tâm học Phật.

“Đặc sắc và tinh thần của Phật giáo” của Thế Mẫn cuối cùng đã  được xuất bản, quyển này chẳng qua là bước thứ nhất phát nguyện của ông. Tôi hy vọng người hữu duyên sau khi đọc thì có khả năng hiểu rõ về Phật pháp và tiến lên theo một ngọn đèn này mà thắp sáng mười ngọn đèn, trăm ngọn đèn, ngàn ngọn đèn, vạn ngọn đèn cho đến vô lượng ngọn đèn. Đây chính là kỳ vọng rất lớn của tác giả và tất cả người ham thích về chân lý.

Ngày 20.05.1971

Viết ở trường Trung học Phục Hoa.

 

C.  BÀI TƯỜNG THUẬT

Đức Phật thuyết pháp 49 năm đã để lại nhiều giáo lý. Hơn hai ngàn năm trăm năm nay, Đại Đức và cao tăng các nước trên thế giới hết lòng, hết sức miệt mài nghiên cứu, không ai mà không nhiệt tình khâm phục: từ việc học rộng đa văn, luận lý sâu sắc, tư tưởng nghiêm mật cho đến lòng nhân từ cứu thế của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.

Theo sự chuyển biến từng ngày của khoa học, những giáo lý này của Đức Phật không những không có xung đột nhau với khoa học, mà còn nhiều lần ấn chứng, chứng minh với khoa học về tánh chân thật và tánh vĩnh hằng của nó.

Mấy ngàn năm nay, nhân loại từ dã man tiến hoá đến văn minh, không biết đã sản sinh ra bao nhiêu tông giáo và cũng không biết có bao nhiêu tông giáo, nó dần dần mất hẳn trong sóng lớn của thời gian. Nhưng Phật giáo_ một loại tông giáo lưu chuyển lâu nhất và giáo hoá rộng nhất hiện nay, cho nên Phật giáo có khả năng trải qua thời gian rất lâu mà vẫn thường gần gụi và mãi sừng sững không dời đổi. Chỗ Phật giáo được tin cậy không phải uy thế cường quyền, cũng không phải thần thoại ngu dân mà là một loại giáo lý vĩ đại chính cống, khách quan như thực, mà còn có thể nhờ vào sự tu hành chứng đắc.

Nhưng gần nửa thế kỷ nay, Phật giáo suy vi theo đời và đạo, thêm vào đó việc phát huy của bổn thể không được hoạch định, giống như một hạt trân châu sáng rực chói mắt, dần dần bị tì vết của trần cấu làm nhuốm màu, cuối cùng mất đi màu sặc sỡ. Vì chúng ta đem tất cả sự hiểu lầm và hiểu sai lệch không cần thiết mà bổ sung cho lớp người đến với Phật giáo, khiến cho một tông giáo tốt đẹp vĩ đại mất đi uy tín và tôn nghiêm vốn có của nó.

Tôi từ nhỏ lớn lên trong gia đình Phật giáo, cho nên tai mắt thấm nhuần và nhận được ảnh hưởng sâu xa của Phật giáo. Sau khi vào Đại học, tôi hăng hái nghiên cứu Phật học. Giáo lý của Đức Phật rộng sâu, khiến tai mắt của tôi vừa tiếp cận thì hân hoan không tả đước. Việc thấu cạn và viên dung về giáo lý của Đức Phật khiến tôi được lợi ích không ngừng.

Tôi luôn đạp lên ánh trăng, bước lên đỉnh núi Vạn Thọ, từ trên nhìn xuống thì nườm nượp chúng sanh hớn hở, ầm ĩ, họ đều bị sự tranh đua danh lợi mà già nua. Nhưng Phật pháp ngày nay bị suy vi, cả thế giới cuồn cuộn chớ biết chỗ dừng. Trước đây 2.500 năm có Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cất cao bó đuốc trí tuệ, chỉ ra bờ mê và soi sáng vũ trụ vạn hữu. Lẽ nào sau 3.000 năm lại không có bậc Thượng trí Đại hiền sớm chiều gõ chuông trống vang lên để đánh thức giấc mộng của chúng sanh trong biển khổ? Nghĩ đến đây, mỗi lần đau xót đến từ bên trong thì nước mắt tôi lại tuôn rơi xuống núi hoang.

Quyển sách này chính là tôi được các bạn thanh niên trong sạch, lương thiện, có đủ quang minh cả đời viết ra, tôi mong mỏi tha thiết chúng ta có thể được sự động viên chính xác từ quyển sách này hoặc nhiều hoặc ít mà tương lai có khả năng tuyên dương Phật pháp và hiến thân có hiệu lực.

Ngày 25.05.1971

Viết ở  Cao Hùng.

 

      D. SÁNG TÁC CÓ XU HƯỚNG XUẤT BẢN LẦN BA:

“Đặc sắc và tinh thần của Phật giáo” là sáng tác vụng về của tôi. Lần đầu xuất bản 3.000 quyển trong vòng mười ngày thì tiêu thụ vừa hết, tái bản 3.000 quyển vẫn không đủ nhu cầu, vì thế tôi phải quyết định xuất bản lần ba.

Giấc mộng chân thành không dám nghĩ mà lại đến, một quyển sách nghiêm túc này cuối cùng lại được sự yêu thích của các bạn thanh niên, đồng thời một loạt kẽ sĩ trong xã hội cùng gởi thơ tới tấp khuyến khích, điều này thật là niềm an ủi lớn nhất suốt đời của tôi.

Thầy giảng dạy ban đầu của tôi là nữ sĩ, tác giả nổi tiếng Tạ Băng Oánh nói: “Tác phẩm đầu tiên này của ông thật là công đức vô lượng đối với tầng lớp học sinh trung học, đại học và thanh niên học Phật trong xã hội, vì họ có được nhiều sự giúp đỡ”. Tiến sĩ Ngô Di chủ nhiệm khoa triết học của học viện Văn hoá nói: “Lập luận của quyển sách chặt chẽ và chính trực, có ích cho lòng người trong đời và đạo”.

Pháp sư Sám Vân trụ trì chùa Liên Nhân cũng gởi thư nói: “Tác phẩm đầu tiên này của ông là quyển sách tốt, thích hợp cho người sơ cơ, thích ứng cho học sinh xem đọc”.

Ông Chu Phỉ, chủ biên của tạp chí Cây Bồ Đề nói: “Cư sĩ trẻ tuổi Hữu Vi có khả năng tự túc sáng tác một bài báo để làm công tác tuyên dương khâm phục quyển sách một cách chân thành”.

Ông Vĩnh Khánh, cháu của Hiệu trưởng trường Trung học Phục Hoa, cũng động viên toàn trường trong buổi họp hằng tháng, giới thiệu với toàn thể các Thầy giáo rằng: “ Đây là một quyển sách có giá trị, đáng để các Thầy giáo đọc và cũng nên giới thiệu cho các bạn học xem”.

Tiểu thư Khiết Phương, ở sở nghiên cứu Điều hành Nông nghiệp, cô tốt nghiệp đại học Trung Hưng nói: “Sáng tác đầu tiên này của ông có nội dung dồi dào, tư liệu chính xác, dày công suy nghĩ, có tâm nổi bật đáng khâm phục, đáng kính ngưỡng và ủng hộ”.

Một người bạn học của tôi tên Trương Nhã Mi của lớp tu học trước kia toàn là người nước ngoài nói: “Tôi rất vui mừng đã thấy quyển sách này, nó khiến cho tôi bước đầu được hiểu rõ ý nghĩa Phật pháp ………………………… Tôi nghĩ, một quyển sách này của ông không thể làm người ta thất vọng”.

Bị giới hạn ở khuôn khổ của quyển sách, cho nên tôi không thể kể ra hết mọi điều. Tôi chỉ có khả năng gởi đến Sư trưởng, bạn bè và các bạn học lời cảm tạ lớn nhất của tôi về việc chỉ bảo, khuyến khích cho quyển sách này.

Sau cùng, điều mà tôi muốn thỉnh cầu, đó là điều mà Phật giáo có sự viên dung, thấu triệt, rộng lớn, tinh thâm như thế thì cũng phải có nhiều quần chúng yêu thích, say mê mà hướng về giáo lý của Đức Phật, và Phật giáo không nên lặng im, không nên bạc nhược. Các bạn đạo có chí nguyện! Hãy cùng nắm tay chúng tôi mà chọn lấy công việc có ý nghĩa vì các đồng bào khổ nạn ở trong thời đại khổ nạn nhé!

Ngày 28.10.1971

Thế Mẫn ở Cao Hùng

I.  CHƯƠNG THỨ NHẤT:

            Động cơ tôi viết quyển sách:

            “Vì sao tôi nghĩ đến việc viết một quyển sách này?”, vấn đề này đương nhiên chỉ có mình tôi đủ có thể trả lời rõ ràng.

            Tôi tin chắc động cơ sáng tác của tôi, tuyệt đối không phải là để lấy danh nghĩa hoặc lấy tiền, vì đây là một công tác phí sức mà không được việc, đã lấy không được tiền mà cũng lấy không được danh.

            Những điều mà tôi tự thuật sau đây chính là động cơ tôi viết quyển sách, tôi quy nạp nó thành ba điểm để nói rõ:

 1. Tôi tin chắc Phật pháp là cần thiết để cứu chữa xã hội ngày nay:

            Xã hội ngày nay, không kể trong hay ngoài nước đều bị một dòng xung kích của thác nước vật dục, con người đã bị lạc vào trong việc phát minh khoa học cao độ và hưởng thụ vật chất, cho nên nền tảng căn bản của quan niệm đạo đức, của luân lý gia đình và của chính mình bị dao động. Thế thì, trên quốc tế có cuộc đại thi đua về vũ khí nguyên tử và hạt nhân để hủy diệt nhân loại. Cuộc thi đua, có cuộc giống như cuộc đùa giỡn của dã thú; của quỷ dữ có đầu tóc xỏa; có cuộc đua của quan lại tham ô; có cuộc đua của gian trá, sát hại, thương tổn, tranh giành. Ai ai cũng tranh đoạt danh lợi, bổn thể bị phiền não ngăn che, đầu óc mê muội, mọi người không biết mình đang ở đâu? không biết mình đang làm những gì? Chỉ biểu lộ trên gương mặt niềm vui tung trời, ăn uống thả cửa, nhưng nội tâm lại buồn khổ trống không.

Thế rồi lúc đêm khuya vắng người, lúc lý trí hơi được yên tĩnh, có những người đoán ngầm tự hỏi: “Đời người vì sao mà đến? Giá trị sinh mệnh là cái gì? mục đích sinh hoạt còn đang ở đâu?”.

Lại có những người thấy sự ngừng trệ về trật tự xã hội, về phá sản của đạo đức, về đọa lạc của tính người mà cảm thấy lòng buồn như lửa đốt. Nhân loại nếu không tìm ra phương hướng để tự cứu giúp, thì chỉ có một con đường tự hủy diệt mình.

Nhưng phương pháp tự cứu giúp thì ở chỗ nào? Ở bản thân của mình trong nhân loại!

Chỉ có soi rọi qua sự thức tỉnh về lý tánh của nhân loại, chúng ta mới đủ khả năng chấn chỉnh đạo đức, xây dựng lại trật tự thì nhân loại trong vị lai mới có ánh bình minh của hạnh phúc.

Tôi tin chắc trước đây 2.500 năm, di giáo của Đức Thích Ca Mâu Ni đích thực có hiệu quả, Ngài đã theo bệnh mà cho thuốc đúng với lòng người trong đời và đạo ngày nay.

Sự hữu dụng nhất của Phật pháp là sự quảng đại vô biên, bình đẳng viên dung, trên tinh thông, dưới thấu triệt. Phương thuốc mà di giáo đề ra là : mọi người đều phải bình tĩnh, vui vẻ và hạnh phúc ở trong tâm chính mình chớ không phải ở bên ngoài. Chỉ có việc soi rọi, suy xét, tinh thông thuần thục, ít muốn biết đủ, xả mình vì người thì mình mới có thể vui vẻ và tất cả khổ não của mình sẽ được dập tắt.

Không phải sao? gió trước tiên phải ngừng thì sóng mới lặng, nên sóng nước mới không phát khởi, sóng nước không khởi thì nước trong sáng như gương và có thể chiếu rọi được bóng cây, ánh núi. Hãy nhìn kỹ “Bản lai diện mục” của mình, như thế chúng ta mới có khả năng từ trong mê mờ mà tìm về được với chính mình:         

                        Ha ha! Núi trẻ vốn không già,

                        Đầu bạc vì tuyết.

                        Nước theo nguồn không lo,

                        Mặt nhăn vì gió.

Người ta vốn là tự do tự tại, phiền não ấy đến chăng? Buồn khổ đó đến hả? Ồ! Việc ấy là do “Tuyết”, việc đó là do “Gió” nhỉ!

Nhưng tuyết tan thì không còn dấu vết, vậy tuyết ở đâu? Gió thổi thì không thấy hình bóng, vậy gió ở chỗ nào? Người ta lại cứ làm chai lì mà tự buộc, tự tìm phiền não, đáng cười chăng? Hay là đáng buồn?

2. Phật giáo có thể chỉ đạo phương hướng nỗ lực của Thanh niên thế hệ chúng ta:

Không kể là Thái Bảo, A Phi hay là Hi Bì, Phi Đầu, họ đều là những người thiếu sót tâm lý. Họ không phải tự tại thì là tự ti hoặc là có đủ cả, họ cưỡi ngựa, phóng xe nhanh như chớp làm náo loạn đường phố. Việc họ làm là gây sự chăm chú của người khác, chỉ vì nội tâm của họ do dự, bồi hồi, họ uống thang thuốc ảo ảnh làm cho mê say, hút mạnh điếu thuốc lá; việc họ làm là tránh sự mỏi mệt hiện thực làm nhiễu nhương, chỉ vì nội tâm buồn khổ của họ. Nhưng các thanh niên sinh trưởng vào thời đại này, nếu như không có nhân sinh quan chính xác, không có phương hướng phấn đấu chính xác, thì ai có thể không giận đời? Ai có thể không tiêu cực bi quan?

Nhưng Phật giáo, Phật giáo chính là yêu cầu người ta trước tiên hãy ngồi xuống, trước tiên hãy tĩnh tọa mà xem xét mình, biết mình và rèn luyện mình. Chỉ có tự xem xét mình, mới có khả năng hiểu rõ cuồng vọng, hung hăng, ấu trĩ và vô tri của mình; cũng chỉ có biết mình, rèn luyện mình, mới không thể tự đại và tự cao một cách mù quáng; hơn nữa, phải rèn luyện mình trước tiên mới có thể có ý chí kiên cường, trí tuệ thông minh, dũng khí tràn đầy để đối mặt với tất cả khổ nạn, chặt phá chông gai, hoàn thành sự nghiệp và nhân cách vĩ đại.

Đạo lý của Phật giáo bao la không ngần, tinh sâu rộng lớn, nó có thể đáp ứng tâm hiếu kỳ và hy vọng được tìm hiểu của các loại thanh niên (bao gồm thanh niên tốt ở trong nước có tư tưởng trong sáng, tốt cả phẩm hạnh và học tập).

Vũ trụ quan của Phật giáo rộng lớn bao la, nó có thể mở rộng hoài bão của thanh niên, kích thích tính tình phóng khoáng mênh mông trời biển và tìm tòi bí hiểm thiên nhiên của thanh niên.

Nhân sinh quan của Phật giáo có thể cổ vũ sự nhiệt tình, lòng từ bi cứu đời của thanh niên, họ phục vụ có thực chất, được nhân dân đề cử ra và phấn khởi trong tích cực.

Lý tưởng cuối cùng của Phật giáo chính là khiến cho mọi người hoạch được niềm vui và hạnh phúc chân chính, tự do và bình đẳng chân chính, tịnh hóa và giải thoát chân chính. Lúc đó, con người không còn chịu đựng sự nung nấu của hoạn nạn khốn khổ, không còn là nô bộc của ai, không còn là con dê con của ai, nhưng là chủ nhân của chính mình, chủ tể của chính mình. Tiền đồ vị lai của mỗi một người được điều khiển trong tay của chính mình (đây mới là bảo hiểm thỏa đáng nhất, nếu trông vào người khác mà làm thì vẫn là khổ đau). Nhưng hạnh phúc và vui vẻ hoàn toàn do sự nỗ lực của chính con người mình mà hoạch được ( đây mới tỏ ra thật đáng quý cho việc làm khó khăn đó, mới tỏ ra thần thánh và trang nghiêm của tánh người).

Thanh niên vẫn cứ bắt chước cái tâm bị cưỡng ép, cái tính mềm mại bị dâng cao. Phật giáo không có quyền uy và quyền cán gì mà có thể kích thích sự ham muốn thống trị và tha hồ tự đại của thanh niên. Phật giáo không có giai cấp đối lập, Đức Phật bình đẳng một loạt với chúng sanh, không phân ra ai chủ, ai tớ, ai là dê con và ai là người chăn cừu.

Hãy xem nào!

            Nước sông cuồn cuộn

            Sóng to bát ngát

            Không rõ được đâu sóng

            Chỗ nào là nước,

            Nước là sóng,

            Sóng là nước!

Chúng sanh là Phật vị lai, Phật là chúng sanh của quá khứ! (nghĩa là Phật là chúng sanh đã giác ngộ). Điều này vạch rõ cho thanh niên: nhân loại tuy có khác nhau về giai cấp, màu da, ngôn ngữ, phong tục, tín ngưỡng, nhưng đều bình đẳng trên nhân cách, trên Phật tánh và trên cơ bản ở chỗ là một hạt giống tiềm năng vị lai có thể thành Phật. Giống như một hạt kim cương được cất giữ bên trong cái hộp báu tinh xảo thanh thoát, lóng lánh trong sáng và một hạt kim cương hơi bị cáu bẩn làm dơ, thì giá trị của chúng không phải khác nhau sao?

Sóng và nước không thể phân ra, Phật và chúng sanh cũng không thể tách rời, sóng và nước là một thể, Phật và chúng sanh là một nhà.

A! nhân loại vốn là mừng lo cùng nhau, khổ vui cùng chịu, người ta không thể vứt bỏ đồng loại, mà hưởng vui một mình (sóng không thể tách rời nước mà tự có). Vì đó, chúng ta phải ôm ấp tâm phục vụ, tâm đồng tình, tâm bình đẳng, dùng tài sức thông minh của mình mà tạo phước cho nhân quần.

Con đường nỗ lực của thanh niên chính là một con đường đại đạo khang trang này: “tự lợi lợi tha” và “tạo thuận lợi cho nhau giữa mình và người”. Phương hướng phấn đấu của thanh niên chính là một mục tiêu lý tưởng này: “Trước lo sau vui” và “Thế giới đại đồng”.

Đây chính là sự soi sáng của Phật giáo! Là sự giáo dục của Đức Thích Ca!

3. Vì bằng hữu có tâm lực xem xét và nghiên cứu Phật học rất non kém:

Tôi phục vụ trong giới giáo dục, mặc dầu vẫn không tới ba năm, nhưng thấy được số bạn học có đủ hứng thú để nghiên cứu về Phật giáo thì số không ít. Sau khi ăn cơm, các bạn học của tôi lúc rỗi rãnh, tốp hai, tốp ba người, ở dưới gốc cây, lần theo bóng mát và ở sân trường có hoa nở đầy vườn, họ cùng nhau vây quanh tôi một cách nhiệt tình để hỏi vấn đề có liên quan về Phật giáo.

Giảng về việc bố thí của Phật giáo, thì trong tất cả bố thí, tôi lại nói về công đức lớn nhất của “Bố thí pháp” (tức là dùng đạo lý để vạch rõ và giáo dục người khác). Tuy cái biết của mình không nhiều, sở học không dồi dào, nhưng từ bé tôi được sinh trưởng trong gia đình Phật giáo nên vừa mắt quen tai và trong bốn năm ở đại học cũng tầng lập chí đi sâu nghiên cứu. Phật pháp như mật, bên trong đều ngọt, không nếm thì thôi, vừa nếm vào thì lấy làm lạ, khiến người ta quý mến không bỏ được.

Tôi dầu không phải là một “Nhà truyền giáo”, nhưng tôi cho rằng, tôi có trách nhiệm nắm giữ đạo lý Phật giáo, để nói cho người không hiểu Phật pháp nghe, khiến cho bao nhiêu giáo nghĩa của Phật giáo, họ đều có thể hiểu; lại gợi ra cho họ tâm tánh trong sạch tốt đẹp, có thể làm cho họ tự nỗ lực phấn đấu và cố vươn lên hàng đầu, có thể hiến thân phục vụ cho quảng đại quần chúng. Tôi nghĩ đây là một việc có ý nghĩa, đồng thời cũng là một việc mà tôi vui vẻ làm.

Nhưng phục vụ ở trường học thì phải làm gương cho người, càng phải xem học sinh như đệ tử; cố nhiên phải đem tri thức hỗn tạp truyền bá, bỏ đi rườm rà và giữ lại cái tinh hoa, phân tích sửa sang và hết tâm, hết sức giảng dạy cho học sinh. Hơn nữa, mục đích của giáo dục cũng không chỉ vỏn vẹn ở việc chỉ bảo của tri thức, điều quan trọng nhất vẫn là ở việc “Truyền đạo” và “Hóa giải cảm xúc”: dùng đạo lý xử thế làm người mà giáo dục họ, giải đáp nghi hoặc cho họ về vấn đề nhân sinh, trông mong họ có thể thức tỉnh và tăng thêm trí đức, khiến các bạn học không những có đủ học thức phong phú, đồng thời càng có đủ phẩm hạnh tốt đẹp và nhân sinh quan chính xác, có khả năng cống hiến sở học mà tạo phước cho xã hội.

Nhưng ngày thường, các bạn học có thắc mắc về Phật giáo, mặc dầu việc ham muốn tìm hiểu được hết sức đáp ứng nhưng vẫn là đáp ứng rất ít. Vì phần giới thiệu hệ thống của chúng tôi còn thiếu sót nên không thể khiến họ có sự hiểu rộng toàn thể; đó là chỗ còn có thiếu sót.

Việc xuất bản quyển sách chính là phải thực hiện việc giới thiệu và thuyết minh Phật học một cách đơn giản, tôi hy vọng các bạn học có thể có nhận thức chính xác và rõ rệt về Phật giáo, tiến tới là dùng lời dạy bảo của Đức Phật để trau giồi đạo đức và trở nên học sinh có tài năng xông xáo, tương lai sẽ là quốc dân tốt đàng hoàng tử tế.

II  CHƯƠNG THỨ HAI:

            Đặc sắc của Phật giáo:

            Nếu chúng ta đem Phật giáo so sánh với tông giáo khác hiện còn trên thế giới thì điều đó rất rõ ràng có thể phát hiện: giữa Phật giáo và tông giáo khác có sự khác nhau rất nhiều. Vì phương tiện giải thích mà tôi quy nạp điều này thành mười điểm để thuyết minh, cũng chính là nói Phật giáo ít nhất có đủ mười đặc sắc sau đây:

1. Phật là Người, không phải là Thần:

Nhìn khắp các tông giáo trên toàn thế giới, ngoài Phật giáo ra, không có một giáo chủ của tông giáo nào, mà không phải tự nhận lấy phẩm chất “Thần” của siêu nhân. Chất Thần này có được khả năng kêu gió, gọi mưa, biến đá thành vàng; Thần thống trị phước hoạ, lành dữ của nhân loại; Thần điều khiển vinh nhục, sống chết của vạn vật. Nhân loại chỉ có phủ phục trước mặt Thần mà ca ngợi, ca tụng, đạt được thành tựu vinh quang là do Thần vạn năng, tín ngưỡng vào tài năng của Thần thì là thiên đường, phản đối lại thì chỉ có đọa vào địa ngục, tuyệt đối không có chỗ nào để biện bác và đề đạt.

Nhưng giáo chủ của Phật giáo _ Đức Thích Ca Mâu Ni, câu nói đầu tiên của Ngài đến với nhân gian chính là: “Trên Trời, dưới đất chỉ có Ta được tôn thôi” Điều chú ý các chữ trong câu này là xin hãy hiểu chữ “TA” của “Chỉ có Ta được tôn thôi”, cũng không phải là đơn giản chỉ cho bản thân của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, mà là chỉ cho mỗi một cá nhân ở trong toàn thể nhân loại.

Câu nói này nên giải thích một cách chính xác rằng: ở trong vũ trụ, con người thì hiên ngang cứng cỏi, mỗi một người đều là vị chúa tể của mình, quyết định vận mệnh của mình mà không phải nghe lời bất cứ ai hoặc bất cứ Thần linh nào hơn người.

Việc giác ngộ, thành tựu và trình độ mà Đức Thích Ca Mâu Ni đem lại cho Ngài là hoàn toàn do công lao ở tài trí và nỗ lực của chính bản thân Ngài.

Đức Thích Ca Mâu Ni cho rằng: phước hoạ, lành dữ, thành tựu ,vinh nhục của một người là quyết định ở chỗ người đó có tham gia hành vi thiện ác và nỗ lực của chính mình hay không? Không có một người nào có thể đề bạt mình lên thiên đường, cũng không có một người nào có thể đẩy mình xuống địa ngục, và cũng không có một người nào được ca ngợi và ca tụng mà không thể lìa khổ được vui, chỉ có tu tâm dưỡng tánh đến nơi đến chốn, mới có thể khiến cho nhân cách của mình được tịnh hóa thăng hoa, khiến cho mình hưởng thụ được niềm vui hoàn toàn yên ổn.

Đức Thích Ca Mâu Ni không thể biến đá thành vàng giống như các pháp biến đổi. Ngài chủ trương: “Con người muốn thu hoạch ra sao? Thì trước tiên phải gieo trồng như thế nào?”

Ngài không thể làm cho một cây sen có hạt trổ ra quả táo, nếu như Ngài muốn thu hoạch quả táo thì trước tiên phải gieo chủng tử quả táo. Đức Thích Ca Mâu Ni chẳng qua là chỉ nói cho bạn cách vun trồng như thế nào để đến ngày có thu hoạch to lớn, nhưng công việc vun trồng vẫn do chính bạn bắt tay vào.

Trong một bài văn “Thú vị của học vấn” của ông Lương khải Siêu, không phải cũng đã viết ví dụ như thế sao? Ông nói rằng: thú vị của việc tắm nắng trong ngày mùa đông thì có vẻ dễ chịu, nhưng người thân của vua nước Chư hầu không chịu tắm nắng, người khác không thể phơi nắng dùm họ được”.

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết pháp 49 năm, giảng kinh hơn 300 lần, không có kinh nào mà không phải chỉ ra cho chúng ta một con đường “Thành đạo”_ là con đường tự sáng tạo trí tuệ và nhân cách viên mãn triệt để nhất. Nhưng một con đường này lại là con đường phải nương vào nghị lực, trí tuệ và ý chí bền vững của chính mình để mà đi hết con đường. Cho nên Đức Phật nói: “Công việc, họ nên tự đi làm, bởi vì họ cần con đường phải đi nên ta chỉ giáo hóa”.

Thành Phật không có con đường tắt, tu hành là công phu nhỏ giọt. “Không trải một phen lạnh thấu xương, sao được hoa mai tỏa mùi thơm”.

 2. Phật là Người thật bình đẳng:

Tôi nói Phật là Người thật bình đẳng, điều này cũng không phải là nói bừa, trước tiên chúng ta hãy xem xét bối cảnh xã hội Ấn Độ đương thời:

Ai cũng đều biết xã hội Ấn Độ, thời đại Đức Thích Ca Mâu Ni phân thành bốn giai cấp lớn là Bà La Môn, quý tộc, bình dân và nô lệ. Nhưng điều kính trọng là Đức Thích Ca Mâu Ni lúc còn là Thái Tử, thấy rõ ràng giai cấp xã hội không hợp lý, Ngài kiên quyết không hề do dự, phất lên lá cờ bình đẳng, phế bỏ giai cấp đối lập, nêu lên sự bình đẳng của chúng sanh.

Xin vua nước Chư hầu thử suy nghĩ  lại cho kỹ, các cuộc cách mạng nổ ra trong lịch sử, đều là yêu cầu “Đề cao” giai cấp ti tiện, thấp kém là phải bình đẳng với giai cấp quan quyền, cao thượng. Nhưng tuyệt đối không giống vơi ý nguyện của Đức Thích Ca Mâu Ni, nghĩa là về thân phận Thái Tử của chính Ngài phải bình đẳng với giai cấp bình dân và nô lệ. Do loại đại công vô tư này của Ngài mà mưa gió không có chỗ tác lên tác xuống, cho nên tôi nói Phật là Người thật bình đẳng.

Đồng thời, Phật giáo còn chủ trương “ Vô duyên đại từ” và “Đồng thể đại bi”, hơn nữa ý nghĩa bình đẳng được đưa vào càng làm cho hoàn cảnh tiến lên một bước.

Tôi nghĩ, ý nghĩa “Vô duyên đại từ” và “Đồng thể đại bi” nhất định vẫn có một số bạn học không hiểu rõ lắm, chỗ này tôi nên thuật ra một chút:

* Vô duyên đại từ:

            Chủ trương của Phật giáo là không những phải từ ái đối với người có quan hệ với mình như cha mẹ, thân thích và bạn bè của mình; đồng thời cũng phải từ ái đối với người không có quan hệ thân thích, bạn bè với mình, như người mà từ trước đến nay không qua lại với mình hoặc vốn không biết nhau thì cũng quan tâm và quý mến như nhau.

            Câu “Vô duyên đại từ” mà nhà Nho dùng để nói chính là: “Người già, là cái già của ta cho đến cái già của người; Người trẻ, là cái trẻ của ta cho đến cái trẻ của người”. Ý nghĩa của câu này về lễ tiết phần lớn giống nhau, cũng chính là nói “Không riêng gì người thân của mình mới là thân, con của mình mới là con”.

            * Đồng thể đại bi:

Đồng thể đại bi chính là một loại tinh thần người đói, mình đói; người yếu mình yếu; xem tất cả chúng sanh mình và người thành một thể, thân thích với nhau, cốt nhục liền nhau.

Nhà Nho có câu: “Trong nước còn biết mình, chân trời như gần hơn”. Lại có câu: “Trong bốn biển đều là anh em”, bày tỏ thật đúng với hoài bão “Đồng thể đại bi”. Nhưng tâm bi nguyện sâu rộng của Bồ tát Địa Tạng Vương: “Ta không vào địa ngục, thì ai vào địa ngục?”, thật là vô cùng tận của “Đồng thể đại bi”.

Sau cùng, điều mà tôi muốn nói rõ thêm cũng chính là điều có khả năng nhất để biểu hiện tinh thần “Thật bình đẳng” của Phật giáo, đó là con người được Phật giáo không giới hạn quan niệm bình đẳng bởi linh hồn của vạn vật. Phật giáo phản đối luận điệu cho là tất cả động vật, ngoại trừ nhân loại ra, chúng đều được sáng tạo để cung cấp cho người hưởng thụ ăn uống no nê. Tiếng kêu bi ai của tất cả động vật sắp chết thật là thảm thiết không nỡ nhìn nó khóc rống không nỡ nghe, ngay cả Mạnh Tử cũng phải thở dài rằng: “ Nghe tiếng của nó không nỡ ăn thịt nó”.

Phật giáo càng khẳng định thêm một bước rằng: những động vật mà bị chúng ta bắt giết lung tung, bừa bãi và chúng ta khoe mình cho nhân loại là linh hồn của vạn vật, thì động vật, không có động vật nào mà không có đủ Phật tánh _ là một loại tiềm năng tương lai có thể thành Phật. Dù cho giữa con người và động vật khác, có chỗ khác nhau về hình thức, về trí tuệ, nhưng trên quyền lợi mong cầu sinh tồn và trên Phật tánh lại là chỗ bình đẳng. (Cũng giống như một người hung ác cùng cực hoặc là ngu xuẩn không biết gì, họ cũng có đủ một dạng của “Tánh người”, chúng ta phải dùng “ Nhân đạo” để đối đãi họ, dùng “Nhân đạo” để giáo dục họ hoặc cảm hoá họ).

Cổ nhân có câu: “Trời có ân huệ bình thường”. Lại có câu: “Vạn vật và ta đều sống”, cũng là một loại tư tưởng bình đẳng, xem vạn vật là một thể, chẳng qua chỉ là câu nói như thế, không có thấu triệt Phật giáo mà thôi.

3.  Phật không phải là Người sinh ra mà biết:

            Đức Thích Ca Mâu Ni là một người bình thường, họ của Ngài là Kiều Đáp Ma. Vào thế kỷ thứ sáu trước Tây lịch, Ngài sinh ở miền Bắc Ấn Độ, ngày nay cũng tức là tiếp giáp lãnh thổ phía nam của Nepal và Catmanda khoảng 200 km, là nơi có cảnh vật trong sáng đẹp đẽ, tuyệt vời.

            Năm đó Ngài 29 tuổi, Ngài đã bỏ ngôi vua sắp sửa có thể kế thừa mà xuất gia học đạo, Ngài tìm cầu phương pháp giải thoát khổ não của đời người. Sau 6 năm, cũng chính là lúc Ngài 35 tuổi, Đức Thích Ca Mâu Ni dưới cây Bồ đề bên sông Ni Liên Thiền đã chứng đắc chánh giác, đã giác ngộ một cách chính xác và thấu triệt đạo lý căn bản của đời người trong vũ trụ.

            Từ đó chúng ta mới gọi Đức Thích Ca Mâu Ni là Phật Đà, hoặc gọi tắt là Phật. Nghĩa là tỉnh ngộ chân lý hoặc gọi tắt là Bậc giác ngộ.

            Tôi giới thiệu sơ về quá trình tu hành của Phật Đà, mục đích chủ yếu là nói với quý vị Đức Thích Ca Mâu Ni cũng là người bình thường giống như chúng ta, Ngài đủ năng lực để nương nhờ việc tu hành mà ngộ đạo. Vì đó, nhân loại ngàn vạn người cũng đều có thể đồng loạt hưởng ứng noi theo và dựa vào giáo pháp lưu truyền của Ngài mà tu hành chứng quả.

            Đức Thích Ca Mâu Ni _ Ngài chỉ là một trong vô số nhân loại biết trước và giác trước, nhưng chúng ta là người biết sau và giác sau. Phật khác với chúng ta không phải khác về nhân cách, về địa vị mà chỉ là khác ở một chữ Giác mà thôi. Hàn Dũ có câu cảm nghĩ rằng: “Hiểu đạo thì có trước có sau”.

4. Phật giáo không thừa nhận có người hạng thấp kém, ngu dốt mà không thể giáo hoá:

Căn cứ việc nói pháp của tông giáo khác, tông giáo khác là chủ tể vạn năng hoặc giáo chủ của hạng người không thể giáo hóa, sau khi trăm phương ngàn kế, tông giáo khác dụ dỗ cưỡng bức họ, nhưng khi có người khác thành tâm khuyên bảo và tha thiết giáo huấn họ, nếu như họ vẫn không biết giác ngộ sâu sắc, sám hối, thừa nhận chính mình là nạn nhân lạc đường, là con cừu đáng thương dưới lá cờ nhờ vả đến thần linh, thế thì một khi việc xét xử cuối cùng cũng đến, họ một loạt bị bỏ vào 18 tầng địa ngục, vĩnh viễn không siêu sanh.

Bậc làm cha mẹ, làm người ở trên đời, hãy luôn mở cửa lớn, trông mong lãng tử đủ năng lực hồi đầu, dù rằng con cái của họ cường bạo quá mức, tội ác dãy đầy. Từ xưa đến nay không có một bậc cha mẹ nào mong muốn hoặc nhẫn tâm cho con mình vĩnh viễn chịu khổ trong địa ngục tối tăm ngột ngạt, nước sôi lửa bỏng.

Phật giáo thừa nhận tánh người là lương thiện, chỉ cần bỏ đao đồ, lập tức có thể thành Phật. Phật cũng cho rằng “Phạm nhân” chân chánh không phải là tội ác, mà là vô tri, tất cả tội ác đều được gây ra bởi vô tri (Phật giáo gọi là  “Vô minh”). Do đó, chúng ta ngày đêm không ngừng động viên và thành tâm khuyên bảo chúng sanh, đó là trách nhiệm biến chúng sanh thành Phật. Phật quan tâm chăm sóc chúng sanh “ Như mẹ nhớ con”, không những không chịu cho thân phận chúng sanh bị khổ trong địa ngục mà còn phát thệ nguyện “Địa ngục chưa trống, thề không thành Phật, độ hết chúng sanh, mới chứng Bồ đề”(ý nghĩa của Bồ đề là “Giác ngộ” hoặc “Chánh đạo”, ý nghĩa của chứng Bồ đề chính là Đắc đạo hoặc Thành Phật).

Đó là từ tâm của Bậc nào! Bi nguyện của đấng nào! Đó mới là chân bác ái! Đó mới là lòng thương xót thật sự!

5.  Phật không phải là độc nhất vô nhị _ mọi người đều có thể thành Phật:

Trong phần 3. ở phía trước, tôi đã nhắc đến Phật và chúng sanh giác ngộ trong thời gian trước hay sau mà thôi. Hàn Dũ có câu: “Hiểu đạo thì có trước có sau” cũng được nêu ra để nói rõ thêm.

“Phật”chỉ là tên gọi thông thường của một bậc giác ngộ mà thôi. Giống như chúng ta gọi người có thể “Truyền đạo, dạy nghề, giải mối nghi ngờ” là “Giáo sư”. Giáo sư không chỉ là một người, mà mọi người đều có thể là giáo sư. Về đạo lý cũng vậy, Phật không phải chỉ riêng có một vị Thích Ca Mâu Ni, mọi người đều có thể thành Phật, mọi nơi đều có thể có Phật, không chỉ thế giới này có Phật mà trong vũ trụ, vô số tinh cầu trên đó đều có thể có Phật (đương nhiên cũng có chúng sanh).

Một điểm này cũng là điểm Phật giáo khác với căn bản giáo hoá của tông giáo khác, vì tông giáo khác chỉ có thể thừa nhận vị thần “Độc nhất vô nhị” của họ. Cho nên chúng ta phải hết sức công kích và phủ định Thần mà họ giáo hóa là “Thần giả”.

Đồng thời, dưới giáo nghĩa của tông giáo khác thì nhân loại dù nổ lực phấn đấu như thế nào, vĩnh viễn họ không thể song song cùng tiến với Thần và không thể đối xử nhau trong hoàn cảnh bình đẳng (vĩnh viễn là quan hệ chủ và tớ). Vì Thần là Thần tạo hóa, mà con người chẳng qua chỉ là một trong số người bị Thần hóa tạo mà thôi.

6. Phật giáo không thừa nhận có Thần linh sáng tạo vạn vật:

Căn cứ theo cách nói của những tông giáo nào đó, thì vũ trụ vạn vật chính là do chủ tể của vạn năng sáng tạo, chứng cứ của họ là “Sáng lập thế kỷ” trong hạn chế cũ kỹ.

Thực ra, người có tư tưởng hơi hiểu biết một chút liền có thể hiểu nghĩa: “Thần” cũng là sản phẩm của tư tưởng nhân loại, nhân loại dựa vào quan niệm và hình tượng của mình mà tạo ra Thần. Nhưng một trong những mục đích nhân loại sáng tạo ra Thần là ở chỗ khởi nguồn của “Vũ trụ nhân sinh” mà nhà Phật gọi nó là “Nhân duyên thứ nhất”. Nhưng bản thân của Thần từ đâu mà đến? Giáo đồ khác không chịu đi truy cứu, vả lại nói một cách hoàn toàn khẳng định: “Thần là vạn năng, Thần là tự nhiên tồn tại”.

Hỡi bằng hữu thân ái! Nếu như thần đủ có thể “Tồn tại chính mình” thì có nghĩa là Thần không cần được sáng tạo bởi người khác, thì cũng có thể chính mình tồn tại. Thế thì, quan niệm “Thần sáng tạo vũ trụ nhân sinh” lại có ý nghĩa gì? (vì có cùng lý lẽ nên vũ trụ nhân sinh cũng có thể tự  nhiên tồn tại).

Trong đây, chúng ta kê ra một số học thức để chứng minh vấn đề này, mặc dầu không hoàn toàn thích hợp, nhưng bao nhiêu đó cũng có thể giúp đỡ các bạn học hiểu rõ:

Giả thiết khởi nguồn của trụ nhân sinh là X.

                                                             Tìm      X =   ?

Giải đáp của giáo đồ khác là như thế đó, họ không cần dẫn định lý hoặc giả thiết đã biết, đáp án trực tiếp chính là viết:

                                                                           X = Thần.

Nhưng Thần thì từ đâu đến? Xin xem biểu thức liệt kê dưới đây:

                                                                        X = Thần = Y.

Người có chút ít quan niệm số học đều biết, Y cũng là một con số chưa biết, nghĩa là vấn đề này vẫn không có được giải đáp.

Phật giáo căn bản phủ định giả thiết “Thần sáng tạo vạn vật”, vốn là không thừa nhận vũ trụ có “Sự bắt đầu” thứ nhất. Cho cái đó là một “Sự bắt đầu” thì chỉ là một sự “Kết thúc” trước đó mà thôi. Trong một chuỗi quan hệ nhân quả, thì một sự vật mà mất đi, được cấu thành điều kiện sinh khởi của một sự vật khác. Tiến sĩ Trương Đăng Cơ, trong quyển sách mà ông biên soạn “Cái gì là Phật pháp?” , vấn đề này sẽ được nói rõ như sau:

            “Quan niệm về “Sự bắt đầu” này là vì tâm lý (nơi sản sinh) của nhân loại thì “Hữu hạn”, nên không thể bao quát quan hệ nhân quả ngàn vạn”.

            Ví như nói chúng ta đi xem phim “Giai nhân đời loạn”, màn thứ ba “Bắt đầu” diễn từ 7 giờ đến 10 giờ thì “Kết thúc”. Nhưng chúng ta thử suy nghĩ kỹ lại, “Sự bắt đầu” của phim màn ba, thực ra chỉ là “Sự kết thúc” của màn thứ hai, mà “Sự kết thúc” của màn thứ ba, không phải là “Sự bắt đầu” của màn thứ tư sao?

            Cho nên nói khái niệm của “Sự bắt đầu” này, chỉ là nói về một sự vật đặc định nào đó thì mới có ý nghĩa. Nói về toàn thể vũ trụ ràng rịt xen lẫn nhau và nhân quả tương tục thì không có ý nghĩa. Thời gian thì trôi mãi không ngừng, ai có thể tìm ra sự đình chỉ và bất động từ trong thời gian thì điều này được gọi là một điểm đến của “Hiện tại”. Sau đó, nói một điểm này chính là “Sự bắt đầu” chăng?

            Thực ra, Phật giáo không có vấn đề lợi ích về nhân sinh đối với một loại thảo luận này (Siêu hình học về triết học), cũng không cảm thấy hứng thú, vì vũ trụ là cái vô thuỷ, cũng là cái vô chung, chúng ta dốc lòng để truy cứu “Nhân duyên thứ nhất của vũ trụ” sẽ là uổng công, vô ích. Lúc mà bạn đắng cay ngàn vạn tìm được “Nhân duyên thứ nhất” nhất định bạn sẽ phác giác trước nó vẫn có một “Nhân duyên”. Tuần hoàn như thế không ngừng, quay quanh và trở lại ban đầu, thì bạn vĩnh viễn không tìm ra được một “Nhân duyên thứ nhất” cố định bất biến.

            Đồng thời, đời người ngắn ngủi, sinh mệnh vô thường, nếu như bạn vẫn phải lao vào chỗ bế tắc, thế thì lúc bạn chưa tìm được đáp án “Nhân duyên thứ nhất của vũ trụ”, bạn có thể đã chết rồi.

            Trong kinh Phật có một đoạn ví dụ rất tuyệt vời:

            “Có một người bị thương bởi mũi tên độc, thân hữu của anh mang anh đi Bác sĩ ngoại khoa để khám. Giả như lúc đó, anh này nói: “Tôi không muốn nhổ mũi tên này ra, tôi muốn biết ai bắn tôi, người kia là loại Sát Đế Lợi? Loại Bà La Môn? Loại Phệ Đà? Hay là loại Thủ Đà La? Tên họ và họ tộc của người kia là gì? Người kia cao hay thấp hay là vóc người trung bình? Màu da của người kia là đen hay nâu hay là màu vàng kim? Người kia từ một thành thị hay một thị trấn nhỏ nào đến? Tôi không muốn lấy mũi tên này ra, trừ phi tôi biết tôi bị bắn trúng bởi cung gì, dây cung loại gì? Mũi tên kiểu nào? Tên vũ nhưng loại lông nào chế ra, tên thốc lại được chế ra bằng vật liệu gì?……..”. Như thế, người này ắt sẽ chết, mà không nghe biết được những đáp án này”.

            Cho nên vấn đề “Nhân duyên thứ nhất của vũ trụ”, Phật giáo hết sức đi truy cứu mà không lãng phí thời gian so đo. Vì truy cầu cũng là vô dụng, đồng thời cũng là vô ích đối với đời người. Những đau khổ sanh, lão, bệnh, tử này không có quan hệ gì với sự thoát ly của chúng ta, nó không thể khiến cho con người từ đó có được niềm vui giải thoát và yên tĩnh.

            Đề tài nói hơi xa xôi, bây giờ chúng ta hãy bàn về Phật giáo để phản đối vũ trụ vạn vật là do Thần sáng tạo, và xác định rằng vạn vật đều là “Nhân duyên tụ họp” mà thành.

            Ví như một ngọn núi trước mắt chúng ta, nó là sự tích trữ của đất đá; và ao hồ do đất lõm tích trữ nước mà thành; hãy xem bàn ghế trong lớp học, quy tắc do thợ mộc dùng gỗ làm thành.

            Nếu như phân tán đất đá thì lại không thành “Núi”, rút nước của ao hồ cho khô cạn thì thành đất lõm, nào đâu bóng dáng của “Ao hồ”? Lại chẻ ra từng miếng gỗ, xin hỏi “Bàn ghế”ở đâu?

Những đồ vật này có hình thể thấy được, chúng ta cũng có thể gọi tắt chúng là “Sắc”, vì chúng chỉ là “Nhân duyên tụ hợp tạm thời” mà thôi, cũng không phải là cái chân thật không biến đổi, cho nên chúng ta gọi chúng là cái “Rỗng không” _ không có thực thể vĩnh viễn tồn tại bất biến.

            Đây chính là đạo lý đơn giản trong kinh Phật “Sắc tức là không”. Nhưng Phật giáo nói “Sắc tức là không”, chữ “Không” này cũng không phải là “Không” của “Rỗng không”, cũng không phải là “Không” của “Một cái cũng không có”, mà là một loại “Chân không” hàm chứa “Diệu hữu”.

            Cách nói của câu nói này là thế nào? Tôi tạm nêu ra một ví dụ để nói rõ:

            Trước mắt bạn có một chén nước, sau khi nấu nước sôi thì nước biến thành hơi nước, lại cũng không thấy được bóng dáng của nước. Nhưng đó cũng không phải là nói cái chân thật của nước bị mất đi và biến thành “Không”, vì lúc hơi nước gặp lạnh, lại sẽ trở về nguồn thành “Nước”.

            Hơn nữa, người hiểu được hóa học, cũng biết nước là chất hoá hợp của Hydro và Oxy, nghĩa là “Nước” chẳng qua là “Chất” hòa hợp tạm thời của Hydro và Oxy mà thôi. Sau khi nước đã điện giải, lại sẽ biến thành khí Hydro và khí Oxy.

            Theo loại này, suy ra vạn sự và vạn vật trong vũ trụ, không có một sự vật nào không phải nhân duyên tụ hợp tạm thời mà sinh ra, không có một hình dạng nào tồn tại mãi mãi không biến đổi. Nhân duyên hợp thì sinh ra, nhân duyên phân tán thì diệt, ở đâu mà có “Thần” sáng tạo vạn vật?, “Vạn vật” có đâu mà được Thần sáng tạo?

7. Phật pháp là giáo dục đúng đối tượng và định ra biện pháp thích hợp cho từng người:

Đức Phật thuyết pháp, Ngài nhắm đúng vào căn cơ khác nhau của chúng sanh mà bố trí dạy dỗ họ theo thời gian và không gian khác nhau.

Vì đối tượng giáo hóa khác nhau, nên Đức Phật có giải thích khác nhau: ví dụ, đối với người có trí tuệ cao, Đức Phật nói đạo lý trực chỉ nhân tâm, nên tâm họ có thể sáng và thấy được bổn tánh ngay khi đó, họ liền ngộ. Đối với người có trí tuệ hơi thấp, Đức Phật nói cho họ đạo lý tiến dần tuần tự theo từng bước để họ tu hành.

Còn như đối với người mãi mê danh lợi, Đức Phật nói cho họ đạo lý “Danh lợi đều là không”, nhưng đối với người bi quan tiêu cực, cho rằng đời người không có chút ý nghĩa, mạng sống toàn là hư vô trống rỗng, Đức Phật nói cho họ về “Đời người khó được, mạng sống quý báu, nên con người có thể dựa vào sự nỗ lực để nhận được hạnh phúc và niềm vui” nhằm cổ vũ cho họ lòng tin và dũng khí.

Đạo lý cũng vậy, do thời gian và không gian khác nhau nên Đức Phật có ví dụ và thuyết pháp khác nhau:

Ví dụ, người Đài Bắc hỏi Đức Phật rằng: “ Ở Đài Trung làm sao nghe pháp?” Câu trả lời của Đức Phật là: “Đi xuống miền nam”. Còn như họ hỏi người ở Cao Hùng thì Đức Phật nói: “Đi lên miền bắc”. Suy theo loại này, chỉ cần nơi chúng sanh ở khác nhau,  thì câu trả lời của Đức Phật cũng khác nhau.

Phật pháp có ba tạng, mười hai bộ kinh và 84.000 pháp môn (pháp môn chính là phương pháp tu hành). Những phương pháp tu hành được tạo ra đều là để thích ứng cho căn cơ của chúng sanh và đối trị phiền não cho chúng sanh.

Nếu như không có chúng sanh thì cũng không nên có Phật pháp. Phật pháp như “Thuốc”, chúng sanh không có “Bệnh”, không phiền não thì không cần thuốc.

Phật pháp truyền qua các đời sau, hơn 2.500 năm, mà thời đại thích ứng có thể khác nhau và chúng sanh khác nhau. Đó chính là Phật pháp có thể giáo dục đúng đối tượng và định ra biện pháp thích hợp cho từng người. Nhưng loại phương pháp giáo dục này chính là một trong những đặc sắc của Phật pháp.

8. Phật giáo là nhập thế:                                                                                           

Mục đích cuối cùng của đạo lý mà Phật giáo giảng, dầu là “Xuất thế”, nhưng đạo lý cũng không mâu thuẫn với tinh thần “Nhập thế” (nói “Xuất thế” cũng không phải nói thoát ly, trốn tránh thế gian, mà là cải tạo thế gian này, xây dựng lại thế giới này).

Trong kinh Phật có giảng: “Phật pháp ở thế gian, không rời cái biết của thế gian, lìa thế gian mà tìm bồ đề, giống hệt như đi tìm sừng thỏ”. Câu này chính là nói rõ tu hành phải ở ngay thế gian, giác ngộ cũng phải ở tại thế gian. Mỗi một người có tâm hướng đạo thì không thể ghét bỏ thế giới này, không thể trốn tránh nhân loại trên thế giới này, mà tu thành chánh quả lo riêng cho thân mình. Vì một người mà muốn thành Phật, ngoài việc có đủ trí tuệ thông minh, vẫn phải có bi tâm thệ nguyện để phổ độ chúng sanh. Phải dùng hai loại “Bi” và “Trí” này mà vận dụng lẫn nhau, tương trợ tán thành nhau và hoàn cảnh tu hành phải triệt để, viên mãn thì mới có thể thành Phật. Cho nên Phật giáo là dùng tinh thần xuất thế để làm sự nghiệp nhập thế, bởi vì, chúng ta từ khi tu hành mãi cho đến thành Phật, diễn ra mãi ở thế gian này, đã không có “Nhập thế” thì cũng không có “Xuất thế”.

Mặc dầu trong kinh Phật, trước kia có nói Tịnh độ “Thế giới Tây phương Cực Lạc” và “Thế giới Đông phương Lưu Ly” khuyên người niệm Phật vãng sinh. Nhưng người có chút ít hiểu rõ về chân đế của Phật pháp, đều biết đó là một loại phương tiện thích nghi tạm thời của Chư Phật và Bồ tát vì hóa độ chúng sanh. Mục đích sau cùng nhất của Phật giáo là ở chỗ “Biến nhân gian thành Tịnh độ trang nghiêm, hóa địa ngục thành thế giới Cực Lạc”. Đó mới là tông chỉ chân chánh của Phật giáo, cũng không phải muốn mọi người trốn tránh thế giới này, ẩn thân đến Tây phương Tịnh Độ để mà hưởng phước.

9. Phật giáo không có tánh biệt lập:

Trên thế giới, phần lớn các tông giáo chỉ thừa nhận giáo nghĩa của tông giáo mà mình tin, mới là “Chân lý” duy nhất, nên họ biệt lập giáo lý của tông giáo khác là “Tà thuyết”.

Nhưng Phật giáo cho rằng, tất cả tông giáo rất ít có sai biệt về tốt; xấu; tà; chánh mà chỉ có phân biệt về giáo nghĩa sâu; cạn. Bất kỳ một loại tông giáo nào, có thể tồn tại trên đời ngàn năm trở lên, thì ít nhiều cũng có bổ ích cho lòng người trong đời và đạo. Nếu không như thế thì tông giáo này sớm bị “Trí tuệ” của nhân loại ruồng rẫy cho đến bị sóng to của thời gian xối mất.

Vấn đề chỉ là ở trong những tông giáo nào đó, chỉ có thể cung cấp cho con người bằng niềm vui thiểu số, ngắn ngủi; nhưng có những tông giáo nào đó có thể cung cấp cho con người bằng hạnh phúc đa số vĩnh hằng; nhưng Phật giáo chính là một trong những tông giáo phía sau thuộc về thiểu số.

Trong gần 2.500 năm truyền đời của Phật pháp, Phật giáo mãi hòa bình cùng tồn tại với tông giáo khác. Trên lịch sử, vì truyền đạo mà phát sinh xung đột, đổ máu cho tông giáo khác thì Phật giáo từ xưa đến nay không có trải qua. Di giáo được gom góp rộng rãi trong bộ sử ký của Tư Mã Tương Như Truyện _ Nan Đào Lão Phụ, có một đoạn cáo văn mà nguyên văn đến nay vẫn còn và được điêu khắc trên mõm đá: “Không thể chỉ tôn trọng tông giáo mình mà coi thường tông giáo người khác, nên theo lý lẽ mà tôn trọng tông giáo khác. Làm như thế này, không những có thể giúp đỡ cho tông giáo mình trưởng thành mà cũng còn làm tròn nghĩa vụ đối với tông giáo khác; làm ngược lại thì không những đào mồ cho tông giáo mình mà cũng làm tổn thương cho tông giáo khác”.

“Do đó, hài hoà mới là việc tốt. Mọi người đều phải nghe rõ, nghe rõ một cách tận tình giáo nghĩa của tông giáo khác”. (Đế thính tức là chú tâm nghe).

Xem ra, từ một đoạn văn tự này, loại văn có thành ý và khoan dung này, chính là một trong những di sản quý báu nhất trong văn hóa Phật giáo.

“Chân lý” ở Phật giáo, xem ra là không có biên giới, nó không phải là “Nhãn hiệu” của bất kỳ tông giáo nào. Nó cũng không thuộc về bất cứ một tông giáo, hoặc thuộc về bất cứ một người trong bất kỳ thời đại nào. Cho nên chân lý mà Đức Phật nói, không phải là chân lý có riêng của một người. Vì Đức Phật chẳng qua chỉ là một “Người phát hiện chân lý” mà thôi; giống như “Sức thu hút của lòng đất” của con bò phát hiện ra khi nó dập đầu xuống; mà cái giống như này, không phải lúc nào con bò dập đầu xuống cũng có.

Do đó, đạo lý mà Phật giáo cho rằng tất cả đều là “Phật pháp”, là đạo lý có đủ sự tồn tại, lâu dài, hợp lý và không biến đổi.

“Bạn nên yêu kẻ thù của bạn”, câu này mặc dầu được rút ra từ Thánh kinh, nhưng Phật giáo không một chút nghi vấn mà thừa nhận nó có đủ chân lý của đức tính tốt đẹp. (Giống với “Vô duyên đại từ” và “Đồng thể đại bi” của Phật giáo).

Phật pháp giống như sông biển rộng lớn bao la, nó có thể dung nạp tất cả sông ngòi lớn, nhỏ trên địa cầu. Cho nên trong kinh Phật có câu: “Tất cả các pháp đều là Phật pháp”!

10. Phật giáo là dân chủ và tự do:

Trong tông giáo khác, lời giáo chủ nói chính là “Mệnh lệnh” không thể kháng cự, là “Chân lý” không dễ hoài nghi. Nếu như ai không phục tùng hoặc tỏ vẻ hơi hoài nghi, thế thì sẽ gặp Thiên thần trách phạt.

Trong kinh điển của ngoại giáo có ghi chép một cách rõ ràng: Thủy Tổ của nhân loại vì phản bội mệnh lệnh của Thượng Đế mà vĩnh viễn bị đuổi ra khỏi vườn Y Điện, vả lại con cháu của họ _ cũng sẽ là nhân loại ngàn ngàn vạn vạn, luôn cả trước đây, bây giờ và về sau, nhân đó cũng theo chịu khổ mà không hiểu thế nào.

Theo giải thích của ngoại giáo, đó gọi là “Di truyền” của tội nguồn. Nhưng mà, tôi chỉ nghe nói qua về một số tật bệnh nào đó có thể di truyền, không nghe nói về “Tội” cũng có thể di truyền. Ngoại trừ thời đại dã man, chuyên chế của thời cổ đại thì một người phạm tội, cả dòng họ sẽ bị giết chung, nên đến nỗi đã bị chém giết sạch hết. Hiện tại, bất cứ một quốc gia văn minh tiến bộ nào nếu cha mẹ phạm tội, cha mẹ ngồi tù, không có dính líu một chút quan hệ gì với con cái.

Nhưng Phật giáo lại chủ trương như thế này: Phật giáo cho rằng, một người gây việc thì một người gánh chịu, cha mẹ giết người thì con cái không xuống được địa ngục. (Con cái cũng không thể chịu tội thay thế cha mẹ).

Tôi có một câu chuyện tranh cãi đến nỗi mặt đỏ tía tai với người bạn tri kỷ tốt, anh ta vốn là tín đồ Cơ Đốc cung kính. Trước đây, chúng tôi thường lấy trộm quả cấm cho Á Đang và Hạ Giai ăn mà bị “Đuổi khỏi vườn”.

Sau đây là cuộc đàm thoại dạo ấy của chúng tôi:

-   Tôi hỏi: “ Á Đang, vì sao mình có thể bị họ đuổi ra khỏi vườn?”

-   “Vì Hạ Giai không nghe lời của Thần, bị rắn độc dụ dỗ trộm quả cấm để ăn, anh ta chống lại mệnh lệnh của Thần”.

-    “Xin hỏi, Thần là toàn tri, toàn năng sao?

-    “Đúng vậy, Thần là toàn tri, toàn năng”.

-   “Xin hỏi, Thần toàn tri, toàn năng có biết trước được việc Hạ Giai luôn luôn bị rắn độc dụ dỗ không?”

-    “Không biết được, vì Thần muốn thử Á Đang và Hạ Giai là có nghe lời của Thần hay không?”

-    “Đã là Thần mà việc trước đó không biết, thế thì Thần còn có thể được gọi là toàn tri, toàn năng không?”

          “Ôi chao! Eo ôi! Sai rồi, việc trước đó Thượng Đế đương nhiên là biết Hạ Giai luôn luôn bị dụ dỗ. Vì Thần là chủ tể của toàn tri, toàn năng mà! Tôi thật đáng chết, vừa rồi tôi dám xúc phạm đến Thần, nói là việc trước đó mà Thần không biết”.

Thấy bạn của tôi có vẻ chuyển đà, nhưng anh ta không nghĩ đến rằng chuyển một bên nào cũng là ngõ chết!

-  “Đúng, chủ tể của toàn tri, toàn năng đã biết rõ ràng việc Hạ Giai luôn luôn bị dụ dỗ của rắn độc trước đó, lại còn để cho rắn độc đến dụ dỗ cô ta, mà không cân nhắc để ngăn chặn, sau việc đó vẫn còn trừng phạt họ. Đó không phải là có ý xấu, mà cố ý đưa vào để kết tội?”

“Ôi chao?” Bạn tôi cuối cùng bị nghẽn lời vì điều này.

            Á Đang và Hạ Giai chính là bị đuổi ra một cách mơ hồ như thế này, nên chúng tôi cũng theo chịu khổ một cách mơ hồ như thế này.

            Dù như thế nào, lời của Thần vẫn là đúng, chống lại lời của Thần, hậu quả chính là bi thảm như thế. Nhưng Thần trong chính mình lại không tự phản tỉnh mình; lời của Thần trong chính mình không phải hợp lý sao? Không phải tự mâu thuẫn sao? Không phải quá độc đoán? Quá chuyên chế sao?

            Ngoài truyện này ra, trong các loại kinh điển của tông giáo, luôn ghi chép cho là Thần nổi giận do người ta không nghe lời, mà phương thức xử phạt bao gồm bằng cách dùng nước lũ thảm tuyệt để chìm nghỉm nhân loại trong nhân gian, dùng tai nạn ôn dịch để sát hại nhân loại.

            Trong kinh điển Phật giáo, tuyệt đối chúng ta tìm không ra việc ghi chép Đức Phật nổi giận, càng không có phương thức loại xử phạt tàn khốc, vô tình này.

            Trong 49 năm Đức Phật giáo hóa, nét mặt mà chúng đệ tử thấy được ở vị đạo sư của họ là luôn luôn vui vẻ và hài hòa, từ bi và khoan thai. Ngài đối với người tốt như thế, đối với người xấu cũng là như thế.

            Đức Phật đối với đạo lý mà Ngài nói ra, dứt khoát không cưỡng bức chúng đệ tử  phải tiếp nhận, Ngài khuyến khích họ nên phát biểu những thắc mắc. Mãi đến lúc Ngài 80 tuổi, sắp sửa lâm chung giữa rừng Sa La Song Thọ, vẫn còn giáo huấn một cách tha thiết và nhiều lần buông lời hỏi chúng đệ tử rằng có còn gì thắc mắc nữa hay không.

            Đức Phật nói: “Đại nghi mới có đại ngộ, tiểu nghi chỉ có tiểu ngộ, không nghi thì vĩnh viễn không ngộ”.

            Trong lời di giáo sau cùng, Đức Phật nói: “Ta chưa tầng nghĩ rằng đệ tử các con là đệ tử của Ta, chúng sanh là chúng sanh của Ta, Ta chẳng qua là một người trong đó của các con, luôn ở chung ngôi nhà lớn với các con……… Ta từ đó đến giờ không bức bách người khác, cũng không thể muốn người đến phục tùng ta”. Đó là lời di giáo hiền hòa biết bao! Làm mọi người cảm động biết chừng nào!

            Tinh thần tự do hoài nghi phát biểu và tiến tới thâm nhập thảo luận, đó là hai loại đạo lý mà Phật giáo cho phép, khuyên khích giáo đồ hỏi về bản thân của giáo chủ, tôi nghĩ tông giáo cả thế giới không có hai loại đạo lý này?

            Các bạn hữu, chân lý không dễ gì cướng bức người khác tiếp nhận, ép buộc người ta theo khi người ta không hiểu, hoặc người ta không vui, thì đó là chính trị mà không phải là tông giáo. Chân lý chỉ có suy nghĩ và bàn bạc nhiều lần dưới tiền đề dân chủ và tự do thì mới có thể càng thêm hiển lộ ra tinh thần và giá trị của nó.

            Nhưng trong các tông giáo trên toàn thế giới, chỉ có giáo chủ và kinh điển Phật giáo là cho phép được hoài nghi, thảo luận và truy cứu.

            Hoan nghinh các bạn học có tinh thần nghiên cứu, có nhân cách độc lập tự chủ, có trí tuệ thông minh để nghiên cứu Phật pháp và hoan nghinh cánh cửa lớn của Phật giáo luôn rộng mở cho các bạn.

III  CHƯƠNG THỨ BA:

            Xóa bỏ mấy loại hiểu lầm không cần thiết:

            Phật giáo phát nguồn ở Ấn Độ, thời gian đến nay có gần 2.500 năm, đã biến chuyển mọi hang cùng ngõ hẽm trên thế giới. Do vì thời gian lâu dài và rộng lớn của khu vực mà ít nhiều khó tránh được bộ mặt vốn có đã biến đổi của nó.

            Việc biến đổi của loại bộ mặt này: có loại vì thích ứng biến dị tự nhiên sinh tồn và phát triển của bản thân mà hình thành, như sự tham góp nhiều mặt để thấm nhuần tư tưởng của đạo nho và Phật giáo sau khi truyền vào Trung Quốc, lại như sự phát huy phong cách của Đại thừa tông và sự khai sáng của Thiền tông, nó đều có đủ tinh thần và màu sắc độc đáo của Trung Quốc. Có loại người ta ở đời sau, vì không rõ ngọn nguồn, họ tự đeo vào cặp mắt kính màu sống động mà phụ họa theo, nên vướng vào hiểu lầm mà nảy ra chuyện dựng đứng.

            Việc phải thảo luận trong chương sách này chính là cần giúp đỡ các bạn đọc tháo cặp mắt kính màu sẵn đeo của mình ra, hy vọng có thể nhờ đó thấy rõ sự vật trước mắt là trong sáng. Nếu như có thể theo đó nhận thức thêm một bước về Phật giáo, hiểu rõ Phật giáo, thì sự hiểu lầm về Phật giáo được làm trong sáng, dù cho nó là việc nghe được, hoặc việc mình thấy được, đó đều là lý do tác giả mong muốn và vui mừng nhất.

            Đến nỗi, sự hiểu nhầm chồng chất của một loạt người về Phật giáo, tôi quy nạp sự hiểu nhầm này thành 8 mục để tiện việc nói và kể rõ thêm:

            1.  Phật giáo là trí tín, không phải mê tín:

            Ở phần trước vẫn chưa thảo luận đến cốt lõi sự việc, nên chúng tôi trước tiên phải đưa ra định nghĩa về “Trí tín” và “Mê tín”.

            Nói tóm lại, phàm chúng ta trước khi đã quan sát rõ ràng và khảo sát cẩn thận tỉ mỉ mà còn tín ngưỡng mù quáng thì đó là “Mê tín”.

            Ngược lại, phàm chúng ta công phu đã có thể “Phân rõ” và “Cẩn thận tỉ mỉ” rồi mới tín ngưỡng thì đó là “Trí tín”.

Nhưng bây giờ một số người, trước tiên chỉ trích Phật giáo là “Mê tín”, chỉ cần thấy được bề ngoài có một số nông cạn của Phật giáo thì bắt chặt và quy định Phật giáo là “Mê tín”, thực ra đầu óc được chứa chất của chính họ có bao nhiêu trí tuệ và tư tưởng? Nếu như không có thâm nhập truy tìm, chưa có trải qua sự quan sát rõ ràng mà phụ hùa theo với người khác thì bản thân họ đã “Mê tín” từ lâu rồi __ Mê tín việc nói bừa của người khác.

            Từ xưa, Đức Thích Ca Mâu Ni không cưỡng bức chúng đệ tử tín ngưỡng, a dua, đồng thời khuyến khích họ phát biểu thắc mắc.

            Ở mục số 10, trong chương thứ hai có liên quan về điểm này, tôi đã nói rất là tỉ mỉ, các bạn học có thể tham khảo và  xem đọc.

            Kinh điển Phật giáo có một chỗ khác nhau rất lớn với kinh điển của một số các tông giáo, đó chính là chỗ kinh Phật cho phép hoài nghi và nghiên cứu, còn kinh điển ngoại giáo thì lại cho là chân lý tuyệt đối, không dễ biện bác, nếu không như thế thì họ cho là dám xúc phạm Thần.

            Đức Phật đã thường bảo chúng đệ tử rằng: Điều hoài nghi của các con, điều mờ mịt của các con là điều chính đáng, vì đối với một việc đáng nghi ngờ thì việc đó phải có sinh nghi.

            Đức Phật cho rằng mỗi người cần phải chú ý, không thể bị chi phối bởi tin đồn truyền thuyết, không thể dựa theo điển tịch của các tông giáo, không thể chỉ dựa vào luân lý hoặc suy lường, cũng không thể vì tưởng tượng có sự việc nào đó mà có thể tin theo cho là thực.

            Tư tưởng của Đức Phật rất vĩ đại nhưng vẫn không ngừng ở đây. Đức Phật cho rằng, mỗi người không thể tin sâu, không nghi ngờ đối với lời nói của Ngài, vì “Ngài là Đạo sư của chúng ta”. Nhưng việc mà Đức Phật muốn yêu cầu chúng đệ tử là ở chỗ:“Làm việc gì mà chính mình biết chắc, thì việc đó là lương thiện, là tốt đẹp; lúc đó mình  hãy tin nhận và phụng hành”.

            Phật giáo không cho rằng việc hoài nghi là tội ác hoặc là ngu xuẩn mà trái lại cho rằng hoài nghi là đạt đến con đường giác ngộ: “Đại nghi đại ngộ, tiểu nghi tiểu ngộ, không nghi không ngộ”. Điểm chủ yếu mà  Đức Phật trông mong được nói rõ sự thật cho chúng ta trong loại câu này là tinh thần.

            Cho nên ông Lương Nhiệm Công nói: “Phật giáo chính là trí tín, không phải mê tín”. Lẽ nào ông là người nói năng tùy tiện?

2.  Phật pháp là khoa học, không phải phản khoa học:

            Quốc phụ nói: “Phật học là mẹ của triết học, nghiên cứu Phật học có thể sửa được cái sai của khoa học”.

            Nghĩa là Phật học không những hợp với khoa học mà còn sửa sai cho khoa học và sửa chữa sai lầm việc nghiên cứu khoa học.

            Ở đây tôi muốn tùy tiện nêu ra mấy ví dụ để cho mọi người dễ hiểu là việc nói rõ khoa học cũng không xung đột với Phật học, vì mục tiêu của khoa học đều là đang truy tìm “Chân tướng” và “Sự thật”:      

1/Vũ trụ quan của Phật học:

            Xưa kia, các nhà Thiên văn học, có người giả định vũ trụ là cái có cùng tận, cái có biên tế, nhưng giả định này đã bị lật đổ bởi nhà Thiên văn học ngày nay vì sự phát hiện mới mẻ càng lúc càng nhiều.

            Trước đây, chiếu theo học thuyết “Ptolematis system”: địa cầu là trung tâm của vũ trụ, là nơi đứng yên bất động, thái dương nhiễu quanh địa cầu mà vận hành. Lúc đó học thuyết này cũng bị Tòa Thánh La Mã cho là chân lý không dễ hoài nghi. Về sau thường có những người như Côpecnich nhà Thiên văn học Ba Lan (1473-1543) và Galilé nhà tư tưởng, nhà Thiên văn và Vật lý người Ý (1564-1642) hết sức bác bỏ thuyết của ông, xuýt nữa họ chôn vùi thân già của ông vì thuyết này. Nhưng quyền thế của các tông giáo cuối cùng không ngăn cản được chứng cứ khoa học, hiện tại ngay cả một học sinh tiểu học cũng biết địa cầu chẳng qua chỉ là một loại chòm sao nhỏ trong vô số tinh cầu trong vũ trụ mà thôi, vả lại nó không những có thể tự xoay chuyển, đồng thời vẫn có thể nhiễu vòng quanh Mặt Trời (xem Lịch sử Cao Trung, quyển thứ ba – trang 21-22).

            Bây giờ, chúng ta hãy thử xem vũ trụ mà Phật giáo miêu tả thì nó là một tổ chức vĩ đại, thật đúng là không bàn bạc mà hợp với những gì khoa học hiện đại đã tường thuật. (Việc miêu tả đã có từ lâu).

            Phật giáo cho rằng: một ngàn Thái dương hệ hợp thành một “Tiểu thiên thế giới”, một ngàn tiểu thiên thế giới hợp thành một “Trung thiên thế giới”, lại một ngàn trung thiên thế giới hợp thành một “Đại thiên thế giới”. Mỗi một Đại thiên thế giới gọi là một “Quốc độ Phật” (khu vực mà Đức Phật đi giáo hóa). Thế thì một quốc độ Phật gồm có bao nhiêu Thái dương hệ? Bao gồm lủy thừa ba của một ngàn, tức là 1.0003 = 1.000.000.000 Thái dương hệ tương đương với một toà tinh vân trong thiên văn học.(Một vì sao được bao quạnh một đám hành tinh; vệ tinh, mà cấu thành một hệ thống gọi là Thái dương hệ. Như Mặt Trời của chúng ta, xung quanh thì có hành tinh lớn như Địa cầu, Thuỷ tinh, Kim tinh, Hoả tinh, Mộc tinh, Thổ tinh, Thiên Vương tinh, Hải Vương tinh, Minh Vương tinh cho đến 27 vệ tinh và hơn 1.100 tiểu Vệ tinh).

            Nhưng trong vũ trụ có bao nhiêu Quốc độ Phật? Trong kinh A Di Đà của chúng ta chỉ nói rằng: “Từ đây qua đó là Tây Phương hơn mười vạn ức cõi Phật, có thế giới tên là Cực Lạc.” Đó là quá đủ để nói rõ rồi, chính là nói từ Địa cầu của chúng ta đến thế giới Tây Phương Cực Lạc thì có hơn mười vạn ức cõi Phật như thế. Vì vũ trụ bao la, do đó địa cầu chỉ được thấy là một vết vằn.

            Cho nên Đức Thích Ca Mâu Ni nói: “Mười phương hư không, không có cùng tận, Quốc độ của thế giới không thể hạn lượng.” (Mười phương hư không giống với nghĩa một từ “Thái không” mà chúng ta nói.)

            Câu này chính là nói tinh cầu ở trong Thái không, chúng ta có đoán cũng không hết, Thái không là không có biên tế.

            Văn học Âu Châu từ khi phục hưng đến nay Galilé dùng kính viễn vọng quan sát chòm sao trên bầu trời, nên thiên văn học mới tiến bộ dần dần, mãi đến ngày nay chúng ta mới hiểu rõ được chút ít sự rộng lớn vô biên của Thái không, mới hiểu rõ địa cầu của chúng ta chẳng qua chỉ là một hành tinh nhỏ trong Thái dương hệ mà thôi, nhưng Thái dương hệ trong Thái không, thế mà chúng ta có tính cũng không rõ ràng, vì nó có ngàn ngàn vạn vạn vô số Thái dương.

            Nhưng trước đây 2.500 năm, Đức Thích Ca Mâu Ni không có kính viễn vọng, lại đã nói cho chúng ta về vô biên vô tế của Thái không, mà tinh cầu trong Thái không là không thể suy tính được. (Đức Phật dùng từ “Bất khả tư nghị” để hình dung: Ý nghĩa là không thể suy tính cho hết, hơn nữa quả thật là ngay cả tưởng tượng cũng không có cách để suy lường.)

            Nếu Đức Phật không phải một bậc tiên tri, tiên giác có đủ trí tuệ sâu sắc và vĩ đại thì Ngài miêu tả không ra hình dạng chân thật của vũ trụ vĩ đại, thần bí và bao la như thế này.

                        2/ Một bát nước trong, có 84.000 chúng sinh:

            Lúc Đức Phật nói pháp, Ngài đã thường nói với chúng ta một cách rõ ràng: Chúng sanh trong vũ trụ không thể đếm được, không thể tưởng tượng được, ngoài chúng sanh có trong địa cầu mà chúng ta đang ở thì trong vô số tinh cầu trong vũ trụ cũng có chúng sanh đang tồn tại; ngoài chúng sanh mà chúng ta có thể thấy được bằng mắt thịt, còn có nhiều chúng sanh mà chúng ta bằng mắt thịt không trông thấy. Ngài thường chỉ vào chén nước trên bàn và nói: trong một chén nước này có 84.000 chúng sanh tồn tại. (“84.000” đương nhiên được biểu thị ý nghĩa về số mục rất lớn trong kinh Phật.)

            Ngày nay theo sự tiến bộ của khoa học, nhà khoa học đã không dám phủ định trong tinh cầu khác của vũ trụ có thể có sinh vật tồn tại. Nhưng chúng ta tin tưởng thế nào cũng có một ngày các nhà khoa học có thể chứng minh một lần nữa giả thiết chính xác của Phật giáo.(Trong vũ trụ còn có vô số chúng sanh đang tồn tại.)

            Nhưng ngày nay, dưới kính hiển vi, vi sinh vật trong bát nước trong, vì sao đọng lại ngàn vạn? Trước đây hơn 2.500 năm, Đức Thích Ca Mâu Ni không quan sát bằng kính hiển vi mà có thể nói ra sự thật hợp với khoa học như thế này, có thể không khiến cho chúng ta kính phục và cảm phục chăng?

                        3/ Sắc tức là không, không tức là sắc:

            Dựa theo định luật cũ mà Vật lý học có, thì gồm hai loại trọng yếu: một cái là “Vật chất không diệt định luật”, một nữa là “Năng lực không diệt định luật”, cũng chính là nói trước đây, nhà vật lý học cho rằng vật chất và năng lực thì không tương quan nhau, không thể trao đổi lẫn nhau, hơn nữa hai loại đều là thường trụ bất diệt.

            Trong kinh Phật vật chất được gọi là “Sắc” (chú ý: không có giải thích là sắc của nữ sắc). Nhưng Phật giáo cho rằng “Sắc” tức là “Không”, điều này đã xung đột với khoa học lại còn được giải thích theo Phật pháp là tất cả sự vật trong vũ trụ đều là vô thường, mà bổn thể là rỗng không, không có một dạng nào là “Bất diệt”, điều này cũng không hợp với khoa học.

            Nhưng từ khi Albert Einstein nhà vật lý Hoa Kỳ, gốc Do Thái, người sáng lập học thuyết Tương đối (1879-1955) đã phát biểu “Sự đối đãi của chất thì có thể biến thiên công thức”, nói rõ là khi mỗi một bộ phận vật chất bị hủy diệt thì vật chất đó có thể biến thành năng lực rất lớn đáng sợ (E=mc2); hãy đợi đến việc thử lửa của bom nguyên tử thành công, vật chất mới được chứng minh là có thể biến thành năng lực. Vậy bổn thể “Sắc” của vật chất đó không phải là “Không” sao?

            Thế thì định luật cũ mà Vật lý học có đã bị phủ định, thì Phật học một lần nữa đứng sừng sững từ trong dày dạn thử thách của khoa học mà không dời đổi.

            Có những người có lẽ giải thích loại này thật khó hiểu, chúng ta hãy tường thuật lại một chút (các bạn học cũng có thể tham khảo ở nửa đoạn sau của điểm 6, chương thứ hai có nói rõ).

1) Sắc tức là Không: vật chất (sắc) là do nguyên tử hợp thành, mà trong nguyên tử có hạt nguyên tử và điện tử, trong hạt nguyên tử lại có chất Proton và Neutron, chất Proton và Neutron lại có thể bị phá vỡ và biến thành năng lực (không). (Nhà vật lý học trước đây cho rằng nguyên tử không thể phân tách nữa, đó là điều sai lầm.)

2) Không tức là sắc: năng lực (không) có thể biến thành vật chất (sắc), cũng đã được thừa nhận nhất trí của giới khoa học.

3) Sau cùng, tôi phải lại nêu lên một ví dụ trong “Tương đối luận” của Albert Einstein: Thời gian được chuyển hóa theo tốc độ, một người nếu ngồi vào một chiếc tên lửa có tốc độ bằng với vận tốc ánh sáng để đi đến một tinh cầu nào đó thì ăn bữa điểm tâm ở địa cầu, ăn bữa trưa ở trên tinh cầu đó, còn bữa ăn chiều, người đó chuẩn bị về đến địa cầu mới ăn. Nhưng người đó đợi sau khi trở về thì địa cầu đã được trải qua vài trăm năm, thân hữu của người đó đã chết sạch cả rồi.

            Các nhà khoa học bây giờ không có người nào dám phủ định tánh có được của ví dụ này, nhưng xin xem trong “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa” của Phật giáo có ghi chép về việc mọi người thỉnh Đức Phật giảng kinh thuyết pháp cho họ nghe: “Họ ở đây nghe Ta thuyết pháp giảng kinh, cảm thấy thời gian trải qua cũng không lâu, nhưng thế giới bên ngoài đã trải qua mấy ngàn ức năm rồi”. Về lý luận “Thời gian Tương đối”của Albert Einstein thì trước đây 2.500 năm, Đức Phật đã nói rồi.

            Do đó, Quốc phụ mới có thể nói: “Nghiên cứu Phật học có thể sửa được cái sai của khoa học”. Vì Phật học mãi là đi ở phía trước khoa học.

3.  Phật giáo là từ bi, không sát sanh:

            Thường ngày xem trên báo thấy: “Sinh nhật của Bồ tát: thiện nam, tín nữ đã giết hơn 100 con heo đực cúng tế để bày tỏ sự thành tâm của họ”. Tôi chợt lắc đầu than thở.

            Có lúc trên đường phố thấy trước mặt Bồ tát Quan Thế Âm có dâng cúng một con heo đực lớn, há mồm, lồi răng, bụng nhổ sạch lông, tôi đành phải cười gượng.

            Ai cũng biết “Không sát sanh” là giới cấm căn bản của Phật giáo. Phật giáo chủ trương chúng sanh bình đẳng, việc bố thí, cứu giúp và phóng sanh đối với động vật bé yếu còn không hết, sao có thể tàn sát thêm nữa?

            Phật giáo chủ trương học thuyết Luân hồi, phàm chúng sanh không có được sự “Giác ngộ”, họ đều phải luân hồi trong biển khổ sanh tử không ngớt. Do đó, ngoại trừ đời nay, con người trong đời quá khứ vẫn còn ngàn ngàn vạn vạn, nghĩa là trong đời quá khứ có ngàn ngàn vạn vạn cha mẹ; anh em; chị em; xóm giềng; bạn bè; Sư trưởng mà chúng ta thường đã tầng sống qua. Nhưng do vì chúng ta vẫn chưa được giác ngộ chân chính, chưa tìm hiểu về trí tuệ, cho nên không rõ ràng. Nếu như ngày nay, chúng ta tùy tiện sát hại động vật là có thể sát hại đến bạn bè và người thân như cha mẹ; anh em; chị em v.v… đời trước của chúng ta. Cho nên Phật giáo không sát sanh (đây cũng chính là một trong những lý do mà Phật giáo ăn chay).

            Đương nhiên có những người muốn hỏi lại tôi: “Anh vì sao mà biết? Như thế nào để chứng minh?”

            Vấn đề hỏi đáp này, đầu tiên tôi phải xin các vị xem một đoạn đối thoại bên dưới:

            Giáp : “Xin hỏi có gió không?”

            Ất     : “Đương nhiên có”.

            Giáp : “Thế thì, xin hãy chỉ ra ngọn gió này bằng màu sắc, hình dáng cho tôi thắy được không?”

            Ất     : “Đó là vỉệc không thể”.

            Giáp : “Anh đã không thể chỉ ra ngọn gió này cho tôi thấy, thế thì nghĩa là hướng đông; tây như thế mà nói là không có gió?”

            Ất   : “Không, gió tuy nắm bắt bằng tay không được, sờ không được, nhưng gió vẫn có, chỉ là tôi không thể chỉ gió ra cho anh thấy thôi!”

            Trong vũ trụ có nhiều sự thực, tuy nhiên chúng ta không thể đưa ra chứng cứ trực tiếp mạnh mẽ để chứng minh, nhưng chúng ta cũng không thể phủ định sự tồn tại của nó. Hơn nữa, thành tựu bản thân của khoa học ngày nay bị giới hạn, hiện tượng vũ trụ còn không thể giải đáp, càng tính không ra đáp số. Nhưng sâm la vạn tượng, đời người trong vũ trụ ràng rịt xen lẫn nhau, lẽ nào một số người lại có thể dễ hiểu sao?

            Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sớm thấy rõ một tầng lớp để hiểu  đạo lý này, cho nên Ngài nói với chúng Đệ tử rằng: “Ta là Người có lời chân thật, Người có lời chân thật là Người không nói dối”. Đức Phật hy vọng bộ phận nghiên cứu và tìm hiểu của chúng đệ tử sẽ hết sức tra cứu để hiểu rõ được và giải thích được giáo lý của Ngài; bộ phận chúng đệ tử còn lại đối với việc hiểu rõ lời Phật thì chỉ có tin tưởng tạm thời. Vì có những đạo lý không phải có thể giải thích rõ ràng bằng ngôn ngữ, văn tự. Cho nên trong kinh điển Phật mới có câu “Như nước người uống, lạnh nóng tự biết”. Thì tình hình đời quá khứ đủ có thể hiểu rõ một cách chính xác và rõ ràng, trong Phật pháp gọi đó là “Túc mạng thông”, loại năng lực này (thần thông), là loại mà phải trải qua sự  nỗ lực tu hành mới có thể được.

            Nói với một người mù quáng rằng, thế giới này là biết bao đào thắm liễu xanh thì họ hiểu được không? Đối với một người nào đó mắc chứng bệnh ngu đần mà nói rằng, người con của anh em cha của anh ___cũng chính là anh em họ của anh thì người đó có thể hiểu rõ không?

Đã là Phật giáo thì phải chủ trương ăn chay và cấm sát sanh,  cho nên phàm người mà luôn sát sanh để cúng bái bằng heo, gà, vịt, thì các bạn học hãy nhớ kỹ! Người đó tuyệt đối không thể là Phật giáo.      

4.  Phật giáo là tích cực lạc quan:

Một loạt người phê bình Phật giáo, cứ nói là: Phật giáo quá bi quan, quá tiêu cực.

Vì sao một số người này có thể có sự hiểu lầm như thế? Tôi nghĩ đây là vì:

* Phật giáo nêu rõ đời người có sự đau khổ về sanh; lão; bệnh; tử v.v….; lại nói “Đời người vô thường” và cho rằng vạn sự vạn vật trên thế giới đều là nhân duyên tạm có, đều là vô cùng biến đổi trong nháy mắt, mà những thứ được gọi là danh lợi; tài sắc; đều là ảo ảnh. Vì đó mà Phật giáo khuyên người ta không nên “Chấp trước” một cách thái quá __ tức là không xả bỏ luyến ái.

* Phật giáo cũng cho rằng “Đa dục là khổ”, vì dục vọng quá nhiều thì thường là căn bản của khổ đau và phiền não. Vì vậy, người ta nên ít muốn, biết đủ. Mỗi một người đều phải xung lượng tài sức của mình để quyết định ít nhiều của dục vọng; tài sức của mình không đủ mà lại suốt ngày suy nghĩ mênh mang, há không phải tự gây phiền não chăng?

Nhưng xin nhớ kỹ, Phật giáo cũng không muốn chúng ta “Tuyệt dục” mà chỉ nói “Ít muốn biết đủ”, nếu tiết kiệm quá đáng để dẫn đến tổn hại thân thể của mình là điều mà Đức Phật phản đối.

Sau khi Ngài một mình xuất gia vào năm 29 tuổi, Ngài đã thường nương theo biện pháp khổ hạnh của ngoại đạo thời đó: tu luyện mù quáng, mỗi ngày ăn một hạt gạo, một hạt mè, tu đến nỗi bộ xương khô gầy như củi, không có sức chống đỡ, kết quả cũng không đạt được giác ngộ mà Ngài mong mỏi.

Sau cùng, Đức Phật mới hiểu rõ là ngược đãi thân thể của mình, cũng không phải đạt được phương pháp của đạo giải thoát, thân thể dù không phải là chân thật, thế nào cũng có một ngày tử vong, nhưng tu hành lại nhờ vào thân thể, thân thể đã không mạnh khỏe, thì không thể suy nghĩ , suy lý, cũng không thể ngồi nhập định, thiền định.

“Ít muốn, biết đủ” chính là một loại “Đạo Trung dung”, trong kinh 42 chương, chương thứ 34 có một đoạn ghi chép như vầy:

Đức Phật hỏi một vị Hoà Thượng mà vị này trước kia khi chưa xuất gia thì yêu thích gãy đàn, rằng:

-  “Dây đàn nếu như quá lỏng, kéo ra tiếng không?”

            -   “Không thể”.

-   “Nếu như dây đàn được điều chỉnh quá căng?”

-   “Dây có thể đứt”.

-   “Nếu như dây được điều chỉnh vừa vặn?”

            -   “Thì có thể kéo ra các loại âm nhạc tươi đẹp.”

            Cho nên Phật giáo cũng không phải là đạo có chủ nghĩa buông thả dục vọng “Đời nay có rượu, đời nay say”, cũng không phải đạo có chủ nghĩa ngược đãi chính mình, cố ý chịu đói; chịu rét. “Ít muốn biết đủ” chính là đạt được chủ nghĩa “Trung dung” của nguồn an vui hạnh phúc  (nghĩa là trung độ, trung dung, không sửa sai quá trớn).

            Thôi, câu chuyện phím lại xé ra to, chúng ta hãy thảo luận đến vấn đề Phật giáo là không phải tiêu cực và bi quan nhé!

            Phật giáo khuyên người ta phải hiểu rõ đạo lý đời người là vô thường, mạng sống thì ngắn ngủi, bảo người ta không thể ngớ nga ngớ ngẩn, không phải đợi đầu xanh bị bạc trắng. Như thế chúng ta mới có thể quý trọng cuộc sống và nỗ lực làm một công việc tự lợi, lợi tha, có ích cho lòng người trong đời và đạo.

            Phật giáo cho rằng “Tứ đại đều rỗng không”. Tứ đại là đất, nước, gió, lửa, bốn loại này là tất cả thế giới và thân thể dựa vào nguyên tố để thành lập, cho nên gọi là Tứ đại.

            Nói tỉ mỉ thì đất là thể rắn của vật chất, nước là thể lỏng của vật chất, lửa là tánh ấm của vật chất, gió là tánh động của vật chất.

            Nói về thân thể người ta: da, thịt, gân, xương, thuộc về địa đại, tinh huyết chảy ra thuộc về thuỷ đại, nhiệt độ và khí nóng thuộc về hoả đại, vận động hô hấp thuộc về phong đại. Thân thể người ta chính là do nguyên tố của “Tứ đại” này tổ hợp mà thành và cũng sẽ bị tiêu diệt bởi sự phân ly của “Tứ đại”, người ta vốn không có một bổn thể chân lý tồn tại, cho nên nói “Tứ đại đều rỗng không”.

            Vì “Tứ đại đều rỗng không” cho nên nói “Vô ngã”. Có những độc giả lại bị lẩn thẩn? Tôi ở đây rõ ràng , sao nói “Vô ngã”. Thưa các vị, “Ngã” này, chẳng qua chỉ là cái thể tụ hợp tạm thời của bốn loại nguyên tố đất, nước, gió, lửa, đã nói ở phía trên. Nhưng tế bào của con người, mỗi một giây phút đều không ngừng thay cũ đổi mới, nghĩa là một người lúc nào cũng đang “Thoát thai đổi cốt”, thế thì một giây phút trước là “Mình” chăng? Hay là một giây phút sau là “Mình”? Thời gian giống như thác nước, không tìm ra một điểm “Hiện tại”.)

            “Mình” có lẽ chỉ là “Tư tưởng” thông thạo về cách nói mà người ta có, nhưng tư tưởng người ta thì sanh diệt sát na, không ngừng chuyển hoá, lại giống như sóng biển, sóng sau tiếp bước sóng trước, một niệm trước chưa dứt, một niệm sau lại đã sinh khởi, trong tâm niệm không dừng, cuối cùng một niệm trước là “Mình” chăng? Hay là một niệm sau là “Mình”? (cho nên quan niệm của người ta mãi đang thay đổi, tư tưởng mãi đang chuyển hoá, hôm qua cho rằng đúng, cho rằng tốt;  nhưng hôm nay bạn lại cho rằng xấu, cho rằng không tốt).

            Do đó, sự ảnh hưởng từ trong “Tư tưởng” và “Thân thể” vốn tìm không được “Mình”, cho nên nói “Vô ngã”.

            “Vô ngã” mà Phật giáo giảng, cũng không phải yêu cầu người ta tự huỷ hoại mình, không phải khiến người ta sai lầm cho rằng, dù sao cũng không có “Ngã”, làm càn làm bậy nào có quan hệ gì? “Ngã” dù thế nào cũng là giả, nổ lực lại có tác dụng gì?

Loại quan niệm này còn sót lại, thực ra hoàn toàn sai lầm, rất là sai lầm, đạo lý mà Phật giáo giảng về “Vô ngã” chính là hy vọng chúng ta hiểu rõ “Ngã” mà một loạt người thế tục cho là chân thật, thực ra là giả tướng tụ hợp tạm thời của Tứ đại, vẫn có một ngày có thể vì Tứ đại tan rã mà thân này già yếu và chết. Do đó, không cần phải miệt mài với sự tìm cầu danh lợi, không nên chi li tính toán với người ta, mà phải cư xử đối đãi người ta bằng sự khoan nhượng và tha thứ.

            Chỉ có sự nhận thức về “Vô ngã” mà mình có, mới có thể hy sinh tiểu ngã, hoàn thành đại ngã. Nhắm vào nguồn gốc của nghĩa “Vô ngã”, thì thân này mới có thể đi vào nước sôi lửa bỏng không hề tiếc.

            Một người có thể làm được “Vô ngã”, người này chính là không thể hại người lợi mình, không thể lấy danh nghĩa công để mưu lợi tư, mà có thể đầu rơi; máu chảy để làm sự nghiệp lớn cứu nước, cứu dân.

            Cho nên Phật giáo cho rằng: phương pháp để “Biết rõ tất cả” chính là “Vô ngã” là để đạt đến cho mình mục đích phục vụ xã hội và tạo phước cho nhân quần. Vì như thế, mình cũng lại không thể có sự trói buộc của ống khóa danh lợi, có thể được tự do tự tại thực sự, lại cũng không thể có phiền não so đo lợi hại.

5.  Phật giáo không phải là trốn tránh hiện thực:

            Có người thấy rất nhiều Hoà Thượng ẩn tu khổ luyện, giấu tên tuổi, sống trơ trọi nơi rừng núi, hình như không có cống hiến một chút nào cho xã hội, điều đó họ chỉ trích Phật giáo là trốn tránh hiện thực.

            Thực ra luận điệu này tưởng đúng mà lại sai.

            Phật giáo chủ trương “Bi trí song tu”, là chỉ có lòng “Bi” cứu người, cứu đời. Có “Trí tuệ” nhưng không có tài năng và học vấn thực sự, thì vẫn không có tác dụng. (Có lòng nhân cứu vớt đắm chìm, lại không biết bơi lội thì có tác dụng gì?)

            Người tu hành đại thừa chân chính (thừa là ý nghĩa của chiếc thuyền, sự lớn nhỏ của thuyền quyết định chở được bao nhiêu người. Mục tiêu của đại thừa là “Lo cho mình và cả thiên hạ”, mục tiêu của tiểu thừa là “Chỉ lo cho thân mình”), tu hành ẩn náu chỉ là chuẩn bị hoằng dương phật pháp, phổ độ chúng sanh cho tương lai. (Giống như các nhà khoa học, lánh mình cả ngày từ sáng đến chiều, vất vả miệt mài nghiên cứu trong phòng thí nghiệm.)

            Thực ra, người xuất gia không chỉ là như thế, mà các cư sĩ tu hành tại gia cũng phải dự định “Hạnh phúc” không chỉ phải cho tương lai của mình mà cũng phải “Phước huệ song tu”, cũng phải học tập “Trí tuệ” rèn luyện gian khổ để hoằng pháp cứu độ chúng sanh.

            Sau đây, tôi chỉ muốn nêu ra một chuyện kể về vị cao Tăng có sự thông giao giữa hai văn hoá Trung- Ấn, nhân vật chính của tiểu thuyết “Tây Du ký”__Huyền Trang để nói rõ Phật giáo cũng không phải trốn tránh hiện thực.

            Huyền Trang, tục họ Trần, tên Y, người huyện Yển Sư, tỉnh Hà Nam, sinh vào thời vua Văn Đế, đời Tuỳ, niên hiệu  Khai Hoàng 19 năm. Gia đình ông là một môn đệ có truyền thống học hành, ông Nội là tiến sĩ quốc học của Bắc Tề, cha đã tầng làm trưởng huyện Giang Lăng.

            Sau khi Huyền Trang xuất gia, người ta tiến cử ông làm  trụ trì chùa Trang Nghiêm của một Tự Viện lớn ở Trường An, nhưng ông khéo léo từ chối.

            Lúc đó, ông thấy kinh Phật trong nước quá ít, vả lại nghĩa lý tối tăm, không thể khiến người ta cảm phục. Thế thì, ông phát lời thề và đề nghị: “ Quên mình đi Tây vực, cầu lấy Phật pháp, đến Trung Độ hoằng hoá, không chỉ phải dịch rất nhiều kinh, mà còn phải giải quyết si mê ràng buộc trong Phật pháp ngày nay, làm một công tác thần thánh vĩ đại cho văn hoá Trung Quốc”. Công việc thỉnh kinh đa dạng đa vẻ của ông đã được bắt đầu. Ông đã đi qua sa mạc nóng nực, trèo qua núi cao Tung Sơn, đã tầng thập tử nhứt sanh mới đến Ấn Độ.

            Huyền Trang đã khóc lớn cho sự suy vi của Phật giáo Ấn Độ dưới cây Bồ đề thành đạo của Đức Thích Ca, ông lập chí phải nỗ lực nghiên cứu thâm sâu Phật pháp, sau đó, trong đại hội ở thành Khúc Nữ, một buổi họp (thuộc về Chân Duy Thức Lượng Tụng) được ông tuyên bố làm chấn động giáo đồ Tiểu thừa toàn Ấn Độ, họ đành câm như hến.

            Huyền Trang nhận được sự thết đãi và tôn sùng lễ bái của quốc vương các nước, mọi người vì gây ra sự tranh luận nhau mà thỉnh ông giảng kinh, nhờ đó việc không đến nỗi xảy ra chiến tranh đáng tiếc.

            Trong lúc đạt được đỉnh cao nhất của “Công danh phú quý”, Huyền Trang lại quyết định phải trở về nước. Lời Huyền Trang kể cho Đại Sư Giới Hiền, Sư phụ của ông lúc đó, thì ngày nay sau hơn 2.500 năm, chúng ta nghe vẫn là cảm động không nguôi: “ Sư Phụ, mục đích cầu học của con, không phải  vì tài năng học vấn và hạnh phúc của cá nhân, nếu như chỉ vỏn vẹn những thứ này, thì con đã không thể bất chấp nguy hiểm của sinh mệnh. Bây giờ, con đã học được ở xứ người nhiều thứ, nên phải trở về nước để truyền đạo, giải thoát đồng bào trong khổ nạn, nếu như con ở lâu không về, con chính là có lỗi với đồng bào khổ nạn”.

            Đó là chí lớn biết bao! Hoài bão biết bao! Đó mới là đàn ông hiên ngang cứng cõi! Đó mới là người Trung Quốc oai vệ, lẫm liệt! Loại tinh thần vĩ đại này, đáng được các bạn học noi theo!

            Trong sách “Ngạn ngữ lịch sử Triết học Trung Quốc” của ông Trương Khởi Quân hợp tác với Ngô Di, có một đoạn bình luận như thế này về Huyền Trang:

            “Cả đời này của Cao Tăng, một nửa đời để thỉnh kinh, một nửa đời để dịch kinh, ông có cuộc sống đa dạng của nhà du lịch, có tinh thần bỏ thân vì đạo của nhà tông giáo, có sự nhiệt tình cứu đời của nhà Tư tưởng. Ông vì Phật giáo, vì văn hoá Trung Quốc, vì nhân loại thế giới, mà cống hiến trọn đời của ông, bây giờ ông đã thật là yên vui xa lìa đời người. Cây bút trong tay ông đã rơi mất, quả tim của ông đã ngừng đập, nhưng dấu chân của ông dưới sa mạc Trung Ấn, lại vĩnh viễn lưu lại trong ký ức của nhân loại, kinh thư ngàn quyển một tay ông phiên dịch, cũng mãi lưu lại trong kho tàng văn hoá Trung Quốc.”

            Ai nói Phật giáo là trốn tránh hiện thực? Ai nói Phật giáo tiêu cực, bi quan, chán đời? (xin tham khảo mục 8, chương thứ hai “Phật giáo là nhập thế”.

6.  Phật giáo không chỉ nói suông nghĩa lý thâm diệu:

            Có người thở dài khi nghe được điều này: “Không phải tôi hoàn toàn không nghiên cứu lý thuyết của Phật, cũng không phải nói lý thuyết của Phật không tốt, mà lý thuyết của Phật chỉ là rất phức tạp, rất cao thâm.”

            Ý nghĩa trong lời nói này hình như trách móc kinh Phật thì quá nhiều và cũng quá cao thâm.

            Có một bạn đã thường nói với tôi: “Vì sao Phật giáo không bắt chước học theo Cơ Đốc giáo, là chỉ đưa ra một cuốn Thánh kinh ngắn gọn, rõ ràng?”

            Thực ra, vấn đề này hỏi đến nỗi quá ấu trĩ, cũng quá nông cạn, lúc ấy tôi hỏi vặn lại anh ta rằng: “Hiện tượng vũ trụ nhân sinh là giản đơn chăng? Hay là phức tạp chăng?”

            Tôi nói: “Phật pháp chính là tra cứu hiện tượng đời người trong vũ trụ, vì hiện tượng đời người trong vũ trụ quá phức tạp, cho nên không thể vài câu, ba điều mà giảng rõ được, cũng vì đạo lý của đời người trong vũ trụ không dễ gì hiểu rõ được, cho nên Phật pháp giải thích việc này thì tỏ ra cao thâm vậy”.

            Đồng thời, Phật pháp chính là giảng cho chúng sanh nghe, chúng sanh thì vô biên, căn khí trí tuệ của chúng sanh cũng khác nhau: có cao, có thấp, có giỏi, có dở, cho nên nói pháp cũng không thể chấp nhất mà không biến dạng, giống như một đạo lý có thể sẽ được giảng và giải thích rõ từ góc độ khác nhau.

            Phật giáo không chỉ là tông giáo nói suông nghĩa lý thâm diệu, Phật giáo có thể đi qua sự tu hành thực tế mà thân chứng, nên Phật giáo và lý luận được phối hợp nhau.

            Phương pháp tọa thiền thì rất nhiều, trong đây việc tọa thiền chỉ được nêu ra để làm ví dụ, chúng ta có thể dựa vào các loại tâm tánh như chuyên chú, quán niệm, thở điều hoà, tụng niệm, vận động v.v… mà tu hành. Dù cho bạn nương theo một phương pháp nào, cũng có thể đạt được cảnh giới giác ngộ “Minh tâm kiến tánh, chuyển mê thành trí”.

            Ví dụ Tổ Sư đời thứ sáu của Thiền Tông Trung Quốc ___Đại Sư Huệ Năng, ông là một Hòa Thượng không biết chữ, nhưng lại có thể vạch ra câu kệ mà Thần Tú một đại đệ tử trong môn hạ của Ngũ Tổ viết ra: “Thân là cây Bồ đề, tâm như đài gương sáng, ngày ngày năng lau chùi, chớ để dính bụi trần”. Hòa Thượng Thần Tú chưa đắc đạo mà phê bình Huệ Năng là chỉ mới bước vào cửa nên chưa nhập định; Huệ Năng nhờ người viết ra  (ông không biết chữ) câu kệ ngàn đời bất hủ kia:

            “Bồ đề vốn không cội,

            Gương sáng cũng không đài,

            Xưa nay không một vật,

            Chỗ nào dính bụi trần?”

            Ông đã giành được sự nể trọng của Ngũ Tổ Thiền Tông và được Ngũ Tổ truyền Y Bát tượng trưng kế thừa Thiền pháp cho ông.

            Chúng ta sau khi cần xem qua “Lục Tổ Đàn kinh” (trong buổi họp ở Đài Bắc, ông Tiền Mục soạn bài diễn giảng công khai về quyển sách này, ông cho rằng mỗi một người Trung Quốc đều phải nên xem nó) đều có thể khâm phục về những kiến giải chính xác và thấu triệt của Lục Tổ, đến nỗi mỗi người năm vóc gieo xuống đất, vì lời Phật thuyết và những đạo lý mà ông giảng ở đây, đó vậy mà bình đẳng nhất như, không sai khác chút nào.

            Sau đây là có một đoạn công án (chuyện kể) có liên quan đến Đại sư Huệ Năng:

            Có hai vị Hòa Thượng trông thấy tấm phướn dài bên ngoài giảng đường, bị gió thổi đến nỗi bay tới, bay lui. Thế rồi sự tranh cãi của họ bắt đầu:

-         “Là gió đang động”.

-         “Là phướn đang động”.

-         “Sao anh nói là gió đang động?

-         “Không có gió đang thổi, phướn sao lại có thể động?”

Lúc này, ngài Huệ Năng nghe được, ông nói với hai vị Hòa Thượng:

-               “Đã không phải gió động, cũng không phải phướn động, chính là tâm của các anh đang động!”(nguyên văn là “Tâm của hai người động.”)

Còn có một vị thi Tăng tám ngón đầu đà, người cuối đời nhà Thanh, có bài thơ Sinh Dân trong tập Đại Nhã __(Đầu đà là vị Tăng khổ hạnh, nghĩa là Hòa Thượng tu khổ hạnh), ông vốn là người có mười ngón tay. Để bày tỏ quyết tâm thành kính và cầu đạo đối với Phật, ông đốt đi hai ngón tay ở trước Phật.

Tám ngón Đầu đà vốn là không biết làm thơ, ngay cả chữ mà ông biết cũng có giới hạn, nhưng sau một ngày tĩnh tọa; thiền định, ông đã giác ngộ. Có một lần ông đi đến Động Đình Hồ để gặp gỡ bạn bè, lần thứ nhất đã đặt bút viết ra câu: “Sóng Động Đình tải đến một Tăng”, câu thơ làm bạn bè xung quanh kinh ngạc, từ đó ông làm thơ như có Thần trợ giúp, và ngón tay của ông cử động tùy tiện, không ảnh hưởng đến vết tích.

Các độc giả nhất định phải đi qua núi Dương Minh nhé! Nhìn về biên giới Đài-Nhật thì có khắc câu thơ của Tám Ngón Đầu Đà:

“Sao đầy Trời rơi trước chén rượu,

Sông núi vô biên đủ nguồn thơ.”

Đó là khí khái biết bao! Hào hùng biết bao! Há như là một Hòa Thượng biết chữ không nhiều đã viết ra? (chữ Tôn ở đây có ý nghĩa là chén rượu)

Còn có rất nhiều cao Tăng khác, cũng là thoạt đầu, ngay cả chữ cái cũng không biết, về sau có công phu thiền định nhiều thì một khi khai ngộ, họ đã rộng mở, giảng kinh thuyết pháp, điều  họ nghĩ tới là đạo, không cần tài nghệ thế gian, như nghệ thuật từ vận của thơ cũng được xuất trần ngoài cuộc và tự hình thành một phong cách. Vì khuôn khổ sách có giới hạn, nên tôi đã soạn giới thiệu một ít Cao Tăng.

Bài giới thiệu phía trên là sự tu hành “Thiền tông” có thể thực chứng thì người tu hành “Tịnh độ tông” chỉ niệm A Di Đà Phật cũng có thể được chính quả.( Phật giáo dựa vào phương pháp tu hành khác nhau và có bè cánh khác nhau thì gọi là Tông).

Như Đại sư Từ Hàng, qua đời trước đây hai mươi năm ở Đài Bắc, nắp hòm đã đóng 5 năm mà thể xác không hư hoại (tức là thi thể không mục nát), bây giờ được lấp vàng thành tượng Phật. Thân thủy triều đêm của ông kết thúc nhưng đã được an trí và phụng thờ ở Đài Bắc, chính là một ví dụ. (Đại sư Huệ Năng thể xác cũng không hư hoại, sau khi chết thi thể cũng không mục nát, lại còn sinh động như thực vậy, hiện còn ở Quảng Châu).

Lại như các vị Đại sư Ấn Quang, cho đến Đại sư Hoằng Nhất (cũng là nhà âm nhạc Lý Thúc), họ đều là trì danh niệm Phật, sau khi chết, xá lợi thiêu được tất cả có hai, ba ngàn viên.(Xá lợi còn được gọi là Kiên cố tử, người tu hành Phật giáo sau khi nỗ lực tu hành, di thể được hỏa hóa tức khắc không tiếc).Ở Đài Bắc tôi đã thấy xá lợi rực rỡ, lóng lánh trong suốt của Ni sư Viên Dung chùa Đông Sơn, huyện Bình Đông; Hòa Thượng Nhãn Tịnh chùa Từ Vân huyện Nam Tân cho đến Đại sư Chương Gia. Những điều này là sự nói rõ về việc tu hành có thể chứng quả.

7.  Phật giáo phủ định: “Thuyết Định Mệnh”:

“Thuyết Định Mệnh” là cái gì? Nói một cách đơn giản thì phước họa lành dữ của một đời người đều là mệnh nhất định của đời trước, không phải mệnh mà sức người có thể biến đổi. Nói gọn lại một chút, người tin tưởng “Thuyết Định Mệnh” nghĩa la “Người chịu theo số phận” cho rằng: tất cả các mệnh đều nhất định phải được bắn trúng.

Rất nhiều người có suy nghĩ như thế, rất nhiều tông giáo cũng có chủ trương như thế. Họ cho rằng: họ nhắm vào mệnh, thế nào cũng thi không đỗ Đại học, lại nỗ lực thêm cũng thi không đậu; họ nhắm vào mệnh nhất định không thể cùng cực thì dù cho kiêu xa hào nhoáng và tiêu phí cũng lại không thể cùng cực.

Phật giáo lại phản đối loại luận điệu này một cách triệt để và khẳng định có một phần khổ nhọc thì sẽ có một phần thu hoạch. Nếu như chúng ta rập theo khuôn thuyết nhà Phật thì “Không hề uổng công”__nghĩa là nói nỗ lực không thể hoài công. (Có thể đọc xem quyển sách có tên “Liễu phàm tứ huấn”.)

Phật giáo cho rằng tiền đồ chưa đến của một người, đều là một con số chưa biết, việc tốt xấu của mình là do hành vi hiện tại của mình mà quyết định. Tiền đồ của mình được nắm bắt trong tay của mình, không có việc  nói là nhắm vào mệnh nhất định thi không đậu Đại học, nếu bạn chịu nỗ lực thì cửa vào Đại học vĩnh viễn được mở rộng cho bạn, cũng không có việc nhắm vào mệnh nhất định phải phú quý, rồi xa xỉ, lãng phí, không biết giữ gìn bảo tồn, không biết tăng thu giảm chi, sau cùng nhất định bạn sẽ rơi vào kết cục bần tiện. Cho nên Phật giáo không phải là “Thuyết Định Mệnh”.

Việc thảo luận muốn nói rõ thêm ở trong đây chính là Phật giáo đối với việc “Nhân quả báo ứng”:

Tuy cách nói “Trồng dưa được dưa” mà chúng ta đã thường nghe đến, nhưng thuyết nhân quả của Phật giáo phải nói tỉ mỉ thêm một chút là: “Nhân duyên và quả báo”. Thế thì, ở giữa nhân và quả mà Phật giáo thuỵết thì rất xem nặng chữ “Duyên”. Cái gì được gọi là “Duyên?”. “Duyên” có tác dụng gì? Nói ví dụ, chúng ta gieo xuống dưới đất một hạt dưa (nhân), nhưng nếu như không có ánh sáng Mặt Trời, thủy phần cùng  phân bón hoặc sự chăm sóc vất vả của công nhân (duyên) thì nó có thể ảnh hưởng đến sự nảy mầm, lớn mạnh và kết quả khai hoa của hạt giống.

Do đó, giả như một người đời trước tuy đã trồng nhân thiện, nhưng đời nay người đó nếu không tiếp tục tu trì, hành thiện để làm trợ duyên, thì sẽ ảnh hưởng đến sự trưởng thành của quả thiện và cũng không thấy được sự thu hoạch có thể có. (Riêng nhân thiện đã làm hoàn toàn không bị tiêu diệt).

Khổng Tử đã tầng nói: “Cây lúa mọc lên mà không ra hoa, có vậy sao! Cây ra hoa mà không có trái, có vậy sao!” Chính là nói sự nở hoa kết trái của một cây lúa là phải xem việc vun trồng của ngày kia mà quy định.

Cũng vậy, giả như một người đời trước làm việc xấu, nếu như ngày nay người đó làm lại cuộc đời, bỏ ác làm thiện thì không thể nhận chịu quả ác.

Các bạn xem trong ví dụ này, nhất định sẽ có phát sinh hoài nghi. Thế thì, một người làm việc xấu, nếu như có thể bỏ ác làm thiện, thì “có thể” không nhận chịu quả báo. Nhưng tôi có thể bị vặn hỏi rằng: “Đó không có nghĩa là, người kia vẫn “Có thể” bị quả ác dẫn đến chăng?”

Trong đây tôi phải đưa ra một ví dụ để giải thích:

Nếu như một người đã uống thuốc độc, được đưa đến nơi có Bác sĩ chữa trị, kết cục của người này cũng có hai loại: một loại là biến nguy thành yên, một loại khác là tử vong.

Vì sao người này uống thuốc độc (nhân ác, ví như làm việc ác), đưa đến nơi Bác sĩ  chữa trị (hành thiện, ví như làm việc tốt), lại cũng “có thể” chết chăng?

Vấn đề hỏi đáp này không phải vấn đề có thể giải thích vài ba lời mà thông được, việc này tối thiểu liên quan đến ba khía cạnh:

1/ Độ sâu trúng độc của anh ta. (Gây ra bao nhiêu việc xấu, tội mắc phải là một loại kia v.v…)

2/ Anh ta được đưa đến Bác sĩ, mau hay chậm (sớm muộn ăn năn tỉnh ngộ).

3/ Việc chữa trị đúng hay không đúng cách ư! (làm bao nhiêu việc thiện, sự quan hệ giữa giống loại làm thiện và nhân ác đã gây tạo trước đây).

Ba điểm trên đây đều có thể quyết định cá nhân này có thể chiêu lấy “Quả ác”. Ở đây chẳng qua là tôi phải xin các bạn học nhất định không nên hiểu lầm. Ví dụ này tôi mãi nói mục đích giúp đỡ mọi người hiểu rõ nghĩa chân thật về nhân quả mà thôi, nên các vị nhất định không thể lao vào chỗ bế tắc. Bởi vì, cái được gọi là “ví dụ” thì cũng không “bằng với” sự thật, nó chỉ có thể nói là “tương tự” mà thôi.

Về thuyết nhân quả của Phật giáo thì đời người trong vũ trụ vô cùng ngang dọc, bao gồm thời gian và không gian vô tận, ràng rịt xen lẫn nhau. Trong đó ngàn vạn đầu mối, ngoại trừ người giác ngộ như Phật, Bồ tát v.v… có đủ trí tuệ chân thật (Phật giáo gọi là “Bát Nhã), người bình thường như chúng ta vẫn không ngầm xem xét được cái sâu xa huyền diệu của nó.

Giống như chúng ta tháo một máy Truyền hình ra, tuyến đường bên trong ngàn vạn nẻo, ngoại trừ nhân viên kỹ thuật chuyên môn ra, ai có thể thấy rõ? Còn có ai có thể hiểu rõ? Do đó quan hệ nhân quả trong ví dụ này của tôi không thể bao trùm ngàn vạn giống như một dòng thác lớn trên cao rơi xuống (Phật giáo gọi điều này là “Dòng nhân quả luôn luôn tương tục” thì làm sao lại có thể cắt ra một  đoạn từ trong đó để quan sát, để  chứng minh?

Đúng rồi, sau đây điều mà chúng ta muốn thuyết minh chính là loại vấn đề này “Đời trước làm việc xấu, ngày nay tuy nỗ lực hành thiện nhưng cũng có thể chiêu lấy báo ứng”, Phật giáo bảo trì điều này bằng loại thái độ nào?

Thái độ mà Phật giáo bảo trì về điều này là:

1* Càng tiếp tục hành thiện một cách tích cực. Vì làm những việc thiện này mà vẫn có thể có thu hoạch mỹ mãn ở những ngày tới, chúng ta nhất định không thể chán nản.

2* Không thể đổi thay đối với loại “Quả ác” này (Phật giáo gọi loại này là “Định nghiệp”, Phật giáo an ủi chúng ta phải can đảm chịu đựng, vì Quân tử dám làm dám chịu, đã làm sai việc, giống như phạm pháp luật thì phải tiếp nhận xử phạt một cách an lòng và nhẫn nại. Oán Trời trách đất rắp tâm trốn tránh, đều là sự biểu hiện của người mềm yếu, cũng là một loại hành vi không dám tự mình gánh chịu. (Một điểm này thường bị người đời hiểu lầm là số sao chịu vậy, thật ra là sự sai lầm rất lớn.)

3*  Chúng ta phải từ trong những báo ứng đau khổ này mà phản tỉnh một cách thiết thực, từ đó càng thêm cẩn thận để ý. Biết nhân quả báo ứng không kém một chút nào, thì nên “Chớ vì thiện nhỏ mà không làm, chớ vì ác nhỏ mà làm” (một câu nói này là của Lưu Bị, trước khi sắp chết nói vơí con của ông ta), cách nói theo Phật giáo chính là “ Các việc ác chớ làm, vâng làm các việc thiện”.

Do đó, nhân sinh quan của Phật giáo là tích cực hướng về phía trước, phải dám nhận lỗi và an lòng nhẫn nại đối với sai lầm đã gây ra trong dĩ vãng mà lấy đó để rèn luyện nhân cách và tiết tháo. Đồng thời, vì niềm vui và hạnh phúc của những ngày tới, chúng ta chỉ có nỗ lực phấn khởi, nhất định không thể tiêu cực, nản chí hoặc tự  huỷ  hoại mình.

Sau cùng,vấn đề muốn nói là: Vì sao đời nay có người làm thiện, trái lại thất vọng hết sức? Hoặc phải đi vào chỗ bất hạnh? Nhưng một số người xấu suốt đời làm ác, ngược lại tiêu diêu tự tại, phú quý, trường mệnh.

Nhà Phật nói: “Thiện có thiện báo, ác có ác báo, nếu như không báo ứng là thời giờ chưa đến”. Câu nói này đã được nói rất rõ cho chúng ta “Nếu như không báo ứng”, đó chỉ là “thời giờ chưa đến” mà thôi.

Hành thiện mà gặp ác báo, làm ác trái lại gặp thiện báo, cũng không phải đã trật đường rầy mất đi sự thật, mà là người hành thiện trước đây có thể đã làm việc xấu, đến một đời này trước tiên bị hưởng quả ác, nhưng việc hành thiện của người đó lại trong tương lai mới có thể có thiện báo. Cũng vậy, người hành ác mà có báo ứng thiện cũng như thế.

Phật giáo lại cho rằng, nhân quả báo ứng, có cái là đời nay làm thì đời nay có báo ứng liền, có cái lại phải trải qua một đời hoặc nhiều đời mới có thể báo ứng. Đó là vì sao?

Xin xem ví dụ được nêu rõ:

1) Đời nay làm, đời nay báo ứng___  như trồng cà chua, một tháng thì có thể thu hoạch.

2) Đời nay làm, về sau trải qua mấy đời mới báo ứng___ như trồng cây táo, cây nho, phải trải qua mấy năm sau đó mới có thể có thu hoạch.

Người xưa nói: “Thiện ác rồi có báo, đạo Trời vốn luân hồi, không tin ngẩng đầu xem, Trời xanh đã dung ai?”

Hỡi các bạn, hãy nhớ câu: “Lưới pháp lồng lộng, thưa mà không sót”? Tất cả việc ác, chính là việc xấu, nhỏ như hạt mè cũng không thể đi làm. Vì một tế bào ung thư tí ti, có thể sẽ cướp đi sinh mệnh quý báu của bạn, mang lại đau khổ cực đoan cho bạn!

8.  Phật giáo không sùng bái tượng gỗ:

Chúng ta thường thấy hoặc nghe được giáo đồ khác công kích Phật giáo ở một điểm kịch liệt nhất chính là: “Sùng bái tượng gỗ”

Xét cho cùng, Phật giáo sùng bái hay không sùng bái tượng gỗ? Đáp án của tôi hoàn toàn phủ định, hơn nữa tôi phải giảng một cách công bằng một câu rằng: Trên thế giới không coi Phật giáo như là sùng bái tượng gỗ.

Trước khi các bạn hoài nghi, xin hãy nghe giải thích của tôi:

Trong quyển sách tôi đã nhiều lần cường điệu, Phật giáo chủ trương “Tứ đại đều rỗng không”, “Sắc tức là rỗng không, rỗng không tức là sắc”. Nhiều lần tôi thuyết minh về vạn sự vạn vật trong vũ trụ đều là nhân duyên tụ hợp tạm thời mà thành, không có một bổn thể thực tại bất biến, giống như nước đá là nước tăng độ lạnh, ngưng đọng mà thành, nước là hydro và oxy hóa hợp thành, mà nguyên tố của hydro và oxy v.v…lại là do hạt nguyên tử và điện tử v.v… tập hợp thành, trong đó có thực thể bất biến chăng?

Do đó, Phật giáo chủ trương “Phá tướng”. Vì sao gọi là phá tướng? Chính là muốn đả phá nhân loại, vì không hiểu chân lý cho rằng “Sự vật là do nhân duyên sanh”, là quan niệm mãi tồn tại bất biến.

Thế thì “Tượng gỗ” có phải là quan niệm “Tướng” mà Phật giáo đang muốn phá trừ không? Đáp án của chúng ta là khẳng định, vì tượng gỗ chỉ là do gỗ, đá, đất sét và chạm vàng mà thành, cũng là một loại thể của nhân duyên giả hợp, đương nhiên bổn thể là rỗng không. Đã là tượng gỗ thì là do “Nhân duyên sanh”, cho nên Phật giáo không thể thừa nhận nó là mãi tồn tại bất biến. Cho nên cũng phải phá “Tướng” của nó___phá trừ quan niệm của tượng gỗ.

Bạn bè có người không chấp nhận phải hỏi vặn tôi một câu: “Đã là tượng gỗ, là sự giả hợp tạm thời của nhân duyên, Phật giáo phá trừ không kịp; vì sao trong tự viện còn biết bao là tượng Phật?”

Để trả lời vấn đề này, một mặt tôi phải quan tâm đến triết lý cao thâm của Phật giáo, mặt khác cũng không thể xoá nhòa tác dụng mà Phật giáo dùng phương tiện để làm pháp môn cứu độ chúng sanh.

1/ Về mặt triết lý:

Phật giáo cho rằng “Tượng Phật” là do chất liệu gỗ; đá; đất sét v.v… (nhân), do công nhân (duyên) chạm trổ mà thành, phá dỡ ra tức là không, không có chủ thể bất biến, cho nên bổn thể là “Rỗng không”, mà công nhân chạm trổ trước đây, nếu như tạc thành tượng Quan Âm là Phật Quan Âm; tạc thành tượng Phật A Di Đà thì thành Phật A Di Đà; nếu như tạc thành mẹ Maria cũng sẽ thành Maria, tạc thành chúa Giêsu đương nhiên cũng thành Giêsu. Hãy xem xét từ trong một điểm này, chúng ta gọi điểm này là bức “Tượng Phật”. Tiếng xưng hô và hình trạng của nó là “Tượng giả”, tượng Phật Nhất Tôn đứng trên đài sen, bạn có thể gọi tượng là A Di Đà Phật, cũng có thể gọi tượng là Phật Thích Ca, cũng gọi là Phật Ca Diếp, hay Phật Nhật Nguyệt Đăng……….còn ngại gì nữa? (như cái chén, chén uống trà thì gọi là chén trà; chén uống rượu thì gọi là chén rượu).

Việc phân tích về sự vật ở phía trên, sự vật ở vào thời kỳ tiền Phật giáo thì được gọi là “Rỗng không quán”, thời kỳ hậu Phật giáo thì gọi là “Giả quán”. Nhưng tuy bổn thể của tượng Phật là (sự phá dỡ tức không) của “Rỗng không” thì hình trạng và tiếng xưng hô là “Tượng giả”(có thể tạo dựng, xưng hô tuỳ ý), nhưng cũng không bày tỏ được sự tồn tại của tượng Phật mà Phật giáo phủ định. Phật giáo ở vào thời kỳ sau dạy người ta “Rỗng không quán” và “Giả quán”, nếu chúng ta dùng “Trung quán” để nhận thức giá trị và tác dụng của tượng Phật, đó chính là tượng Phật có thể khiến cho tâm người ta trỗi dậy  “Thấy bậc Hiền, muốn bằng Hiền”, khiến người ta phát sinh việc suy nghĩ ngưỡng mộ và học tập!

2/ Về mặt tế độ chúng sanh bằng phương tiện:

Người trên đời, nếu như đều có đủ trí tuệ để hiểu rõ “Tượng Phật  chỉ là khiến  người ta ngưỡng mộ và học tập, khiến người ta thấy bậc Hiền muốn bằng Hiền”. Thế thì không cần tới tượng Phật. Vì lúc này Phật ở trong tâm mỗi người, ở trong sáng sủa thanh tịnh, ở trong bóng nước ánh núi, nhưng mỗi một tảng đá, mỗi một cọng cỏ thậm chí mỗi một áng mây, mỗi một bóng chiều tà, mỗi việc gì, vật nào cũng không thể làm nên tượng Phật để tưởng tượng, để xem xét?

Nhưng người trên đời, cũng không thấy được mọi người đều là Đại trí Thánh Hiền, chúng ta không hiểu loại tư tưởng viên dung vĩ đại này của Phật giáo, không có được cái tâm thấy họ được, bắt chước họ được, họ thì không chịu nói nên mình không sanh ra ngưỡng mộ và học tập. Không tin thì bạn hãy gọi một bà cụ già đang lễ bái tượng Phật giữa một tảng đá, bà đến chết cũng không để ý.

Chao ôi! Chúng sanh nườm nượp lại có mấy người hiểu được triết lý cao thâm “Bồ đề vốn không cội, gương sáng cũng không đài”!

Do đó, Phật giáo bái hay không bái tượng gỗ thì các bạn thông minh đã có sự liễu ngộ rồi. Vì Phật giáo cứu chúng sanh rộng lớn, cho nên không thể căn cứ vào Phật pháp cao thâm vĩ đại để khai ngộ cho người thông minh trí sáng. Đối với chúng sanh căn cơ nông cạn, ngu độn, hôn mê thì phải dùng đạo lý thế tục đơn giản để làm nhịp cầu dẫn đạo, nếu không như thế thì Phật giáo không thể gọi là bình đẳng viên dung mà vĩ đại. Cho nên ý nghĩa của việc sùng bái tượng gỗ là ở chỗ tượng gỗ là đạo lý tượng trưng, nhưng chúng ta cũng không phải là sung bái ở bản thân tượng gỗ!

Thử hỏi trên thế giới có một quốc gia nào mà không thành lập quốc kỳ để được phát ra lòng yêu nước của quốc dân? Treo chân dung khai quốc công thần để gợi mở tâm tình ngưỡng mộ của quốc dân? Và tận trung với sự chân thành của lãnh tụ? Nếu như có người nói hướng về quốc kỳ và chân dung của Nguyên thủ mà lễ kính là bái tượng gỗ, thế thì loại người này đúng là loài sâu bọ ấu trĩ, nông cạn, ngu xuẩn nhất, đáng xót thương! (trước đây giáo đồ của tông giáo khác cũng đã tầng xảy ra sóng gió một cách vô tri).

IV  CHƯƠNG THỨ BỐN:

Vài đạo lý Phật giáo sơ lược:

Tác giả tài hèn học cạn, không đủ đảm đang giới thiệu trách nhiệm  nặng nề lý thuyết của Phật, cũng không phải tôi cố ý làm ra vẻ khiêm tốn. Trong Phật pháp bao la, người xưa sớm có sự thở dài thườn thược: “Phật pháp vô biên”, không có một người nào dám nói họ hoàn toàn hiểu rõ một cách thấu triệt (thậm chí hiểu rõ cũng vẫn không đủ, vì mục đích của Phật pháp không hoàn toàn phải được hiểu rõ, mà là yêu cầu người ta nương vào để tu hành, để thân chứng). Nhưng tôi không cất giữ sự nông cạn của tôi, mà ở chỗ này, tôi phải “giới thiệu sơ lý thuyết của Phật”, tôi đành tuyên bố một câu: “sau khi các vị đã xem, nếu có điều nghi vấn, trước tiên không nên vội đưa ra kết luận: {“Chuyện tào lao” hoặc “Chẳng qua là như thế mà thôi”}. Xin các vị cứ thỉnh giáo sư trưởng và bạn bè cao minh hơn, hoặc trực tiếp viết thơ thảo luận với tác giả”; còn về việc giới thiệu những lý thuyết đó của Đức Phật? Các vị hãy gạn lọc sự giới thiệu đó với tiêu chuẩn như thế này:

1- Tác giả tin chắc bản thân hiểu rõ việc giới thiệu, vả lại có thể soạn bài thuyết minh có ý tứ sâu sắc, lời lẽ dễ hiểu.

2- Lời lẽ khiến cho một bạn thanh niên không có cơ sở Phật học cũng có thể hiểu được.

3- Trước mắt là lời lẽ gần gụi, có liên quan với tư tưởng và sinh hoạt của các bạn thanh niên hơn.

Đương nhiên, tác giả phải làm được ba điểm bên trên, cũng không phải là một việc dễ, chỉ có thể giải thích cho các bạn nỗ lực để làm mà thôi.

Tục ngữ có câu: “Con đường lớn, tầng lớp thông tới La Mã”. Giữa đạo lý và đạo lý cũng là điểm dung hợp và quán thông. Điều giới thiệu dưới đây, khó tránh khỏi chỗ có lập lại với chương trước đã nói, chúng tôi đúng lúc có thể lợi dụng cơ hội này làm cho sự nhận thức của các bạn được sâu sắc thêm về lý thuyết của Phật.

Phật học bao la vạn tượng, sách vỡ bộn bề, những phần được giới thiệu dưới đây chỉ là một hạt muối trong biển xanh mà thôi.

1/ Thập thiện:

Trong chương V của quyển sách “Khắp nơi tín ngưỡng Phật giáo”,  tôi sẽ giới thiệu tóm tắt đơn giản “Ngũ giới”. Bây giờ, trước tiên ở đây tôi phải kể lại một chút về “Thập thiện”, chính là nói với các bạn thanh niên trong hành vi thường ngày. Mười dạng đó coi như là hành thiện. Có khả năng làm được yêu cầu của “Thập thiện” này, bạn sẽ gặp niềm vui và sự an nhàn, thoải mái được gia tăng hơn trong đời sống trước mắt.

Phật giáo cho rằng hành vi tạo tác của một người đều là do ba mặt, nó được biểu hiện ra:

1)   Thân__do việc xấu mà thân thể chúng ta tạo tác. Có ba dạng, tức là: sát sinh, trộm cắp, tà dâm.

2)  Khẩu__do việc xấu mà miệng chúng ta tạo tác. Có bốn dạng, tức là: vọng ngữ, ỷ ngữ, ác khẩu, lưỡng khẩu.

3)   Ý__ý nghĩ xấu mà tâm chúng ta tồn trữ. Có ba dạng, tức là: tham dục, sân khuể, tà kiến.

Cho nên thân, khẩu, ý này được gọi là “Ba nghiệp”__tức là ba loại tạo tác của hành vi. Tổng hợp việc xấu của ba nghiệp tạo tác này thì gọi là thập ác. Nếu như chúng ta có thể không vi phạm, thế thì gọi là “Thập thiện”.

Giờ đây thập thiện sẽ được thuyết minh đơn giản như sau:

1* Không sát sanh__không làm tổn hại động vật có sinh mệnh.

2* Không trộm cắp__không phải đồ của mình thì không nên chiếm làm của riêng.

3* Không tà dâm__không trái với đạo đức, pháp luật mà ham thích nữ sắc.

4* Không vọng ngữ__không nói dối, không làm chứng giả.

5* Không ác khẩu__không dùng lời độc ác, ô uế nhục mạ người.

6* Không lưỡng thiệt __không khiêu khích ly gián, không xúi giục phá hoại cảm tình giữa người với người.

7* Không ỷ ngữ__ không nói lời dâm đãng thoải mái, ô uế bất chánh (bao gồm lời lẽ rợn người, lẳng lơ khiến người ta suy nghĩ vớ vẩn lung tung).

8* Không tham dục__không phải phần mà tham lấy, tham cầu không chán, nên ít muốn biết đủ.

9* Không sân khuể__bình tĩnh bình thản, không bực tức, không giận dữ. Phàm làm việc gì cũng phải suy nghĩ cho kỹ.

10*Không tà kiến__không thể mơ hồ ở sự và lý mà không biết đúng sai. Phàm việc gì cũng nên dùng trí tuệ để quan sát, nương vào lý trí mà suy nghĩ, không thể có cách nhìn sai lệch và hiểu lầm dẫn đến tự sát.

Bốn điều đầu tiên của thập thiện thêm vào giới không uống rượu thì thành ngũ giới, các bạn học có thể đọc xem điểm 3, chương thứ V “Phật giáo có thể tịnh hóa lòng người trong xã hội”. Còn (từ điểm  4 – 7) của thập thiện thì có liên quan về mặt khẩu nghiệp. Bây giờ “Chánh ngữ” trong “Bát chánh đạo” được giới thiệu sau đây, có thể thuyết minh tỉ mỉ thêm, các bạn học cũng có thể lưu ý đến điểm này.

2/ Tứ đế:

Tứ đế là nguyên tắc chung, cũng là tư tưởng trung tâm của Phật pháp. Sau khi Đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo, Ngài nói thời pháp lần thứ nhất ở vườn Lộc Dã (hiện nay là Tát Nhĩ  Na Đa cách thành phố Câu Na Lặc Tư khoảng 5,6 km), bài giảng chính là đạo lý “Tứ đế”.

“Đế” là ý nghĩa “Chân lý”, có nghĩa bao hàm “Chân thực, sự thực, thực tướng”. Tứ đế là chỉ cho bốn loại nào? Chính là bốn loại đạo lý “Khổ, tập, diệt, đạo”. Hiện nói rõ như sau:

 

          

Nói bằng lời đơn giản là như thế này:

Tất cả nạn “Khổ” của đời người là do nghiệp mà chính mình khởi lên hoặc tạo ra (không biết đúng sai, làm điều xằng bậy), tự dẫn dắt chiêu tập mà đến. Nếu như muốn “Diệt” sạch những khổ nạn này, phải nên tu hành chánh “Đạo” mới kích thích được khổ nạn.

Những khổ nạn nào mà đời người có? Gồm có ít nhất vài loại: khổ não của việc sinh ra đời (sinh khổ), khổ não của già yếu (lão khổ), khổ não của bệnh đau (bệnh khổ), khổ não của tử vong (tử khổ), khổ não của việc gặp người đáng ghét (oán tắng hội khổ), khổ não việc biệt ly với người thương (ái biệt ly khổ), khổ não về vật chất mình mong muốn mà không thể có trong tay (cầu bất đắc khổ)v.v…

Nói tóm lại, phàm yếu tố sở hữu vật chất và sở hữu tinh thần mà nhân loại tồn tại cấu thành đều là khổ não (tác giả giải thích: đạo lý này đáng lẽ phải tường thuật  ngũ uẩn “Sắc, thọ, tưởng, hành, thức”, nhưng do vì không dễ nói rõ nên quyển sách này tạm không thảo luận).

Nhưng Phật giáo vạch ra những khổ não này, cũng không phải là di truyền của “Tội nguồn”, cũng không phải ai buông xuống cho chúng ta mà chính là mình không biết đúng sai, nên chiêu tập quả khổ đến bởi mình tham luyến tìm cầu một cách mù quáng.

Người ta ai cũng đều hy vọng có thể khắc phục tiêu trừ những khổ não này để được niềm vui vĩnh hằng chân chánh. Thế thì chúng ta nên tìm phương pháp giải thoát như thế nào?

Giải đáp của Phật giáo là thực hành chánh đạo. Chánh đạo có mấy loại? Chánh đạo tổng cộng có 8 loại, cho nên gọi là “Bát chánh đạo”, hiện được kể rõ như sau:

a)      Chánh kiến__kiến giải chánh đáng.

b)      Chánh tư duy__tư duy chánh đáng.

c)      Chánh ngữ__lời nói chánh đáng.

d)      Chánh nghiệp__hành vi chánh đáng.

e)      Chánh mệnh__sinh kế chánh đáng.

f)        Chánh tinh tấn__nổ lực chánh đáng.

g)      Chánh niệm__nhớ nghĩ chánh đáng.

h)      Chánh định __thiền định chánh đáng.

Người ta nếu như có thể dựa vào con đường của 8 loại chánh đạo này để đi thì có thể dần dần thoát ly khổ não mà được niềm vui chân thực. Dưới đây xin các vị hãy xem lại việc giải thích tỉ mỉ hơn:

1/* Chánh kiến:

Hiểu rõ sự vật một cách chân chánh thì được gọi là chánh kiến. Một loạt người trong chúng ta không triệt để quan sát về sự vật, chỉ hiểu qua loa phiến diện hoặc hiểu về một bộ phận  giống như chân thực. Ví dụ người mù sờ voi, mỗi người chỉ đã tiếp xúc một bộ phận của voi thì cho rằng mình đã hiểu rõ toàn thể con voi, quả là đã nông cạn mà còn đáng cười.

Do đó, chánh kiến chính là yêu cầu người ta phân tích xác thực sự, hiểu rõ như thật, không thể lớt phớt rồi thôi, đã hơi hơi hiểu một số thì tự cho rằng biết rất nhiều rồi, điều này dễ tạo nên thành kiến và sự hiểu lầm.

Nhưng Tứ đế đúng là giải thích rõ tất cả chân tướng của sự vật, cho nên hiểu được đạo lý Tứ đế chính là có thể coi như hiểu được một loại chánh kiến. Vì chánh kiến có thể mang sự giải thoát và niềm vui chân chánh cho chúng ta.

Do đó, chánh kiến trong tiếng Anh dịch là “Right Understanding”, chính là “Hiểu rõ một cách chính xác”, cũng có người dịch là “Right Knowledge”, chính là “Tri thức chính xác”.

2/* Chánh tư duy:

Chánh tư duy chính là dùng lý trí để quyết định mục tiêu mà chúng ta tìm cầu. Mục tiêu chính xác hay không chính xác? Nếu như không chính xác, chúng ta phải cương quyết xả bỏ. Nếu như chính xác, thế thì chúng ta phải dũng cảm tiến lên, đến chết không thay đổi.

Mục tiêu mà chúng ta quyết định chính xác hay không chính xác thì việc mà lý trí phải suy nghĩ là: mục tiêu chính xác là cần phải nên yêu quý tất cả chúng sanh, quên mình vì người, không dùng bạo lực. Nếu như mục tiêu mà chúng ta nỗ lực chỉ là một con đường đầy dục vọng của chính mình, nhưng vì để đạt mục đích riêng mình lại không yêu quý hy sinh cho người khác, bức hại người khác, thế thì một mục tiêu này cần phải nên xả bỏ.

Do đó, chánh tư duy trong tiếng Anh dịch là “Right Aim”, chính là “Mục tiêu chánh đáng”, cũng có người dịch là “Right Aspiration”, chính là “Có chí lớn chính đáng”.

3/* Chánh ngữ:

Chánh ngữ chính là nói lời thành khẩn, có nền nếp. Bao gồm:

(1)                     Không nói lời dối trá.

(2)                     Không bịa đặt tin nhảm gây điều rắc rối, không khiêu khích ly gián.

(3)                     Không dùng ngôn từ chua chát nghiệt ngã, thô lỗ vô lễ mà phê bình chưởi bới người.

(4)                 Không nói những lời vô ích, vô ý nghĩa, bất lợi (lúc không có lời gì đáng nói, không bằng giữ nguyên “Im lặng là cao quý”.

 Chánh ngữ trong tiếng Anh dịch là “Right Speech”, chính là lời phát biểu nên cẩn thận chính đáng.

4/* Chánh nghiệp:

Chánh nghiệp chính là hành vi hòa bình, vinh dự và hợp với đạo nghĩa.

Ngũ giới của Phật giáo chính là muốn làm cho người ta có thể đạt đến mục tiêu này (ngũ giới là:1) không sát sanh. 2) không trộm cướp. 3) không vọng ngữ. 4) không tà dâm. 5) không uống rượu).

Chánh nghiệp trong tiếng Anh dịch là “Right Behavior”, “Right Action”, chính là “Hành vi đoan chánh”.

5/* Chánh mạng:

Chánh mạng chính là dùng nghề nghiệp chánh đáng để sinh hoạt. Nghĩa là nghề nghiệp mà chính mình giải quyết không thể mâu thuẫn nhau với đạo đức và pháp luật, không thể vì tư lợi của bản thân cá nhân mà hy sinh hoặc làm tổn thất niềm vui và hạnh phúc của nhiều người. Ví dụ: Tiệm đổi tiền ngầm và nhà đầu độc uống rượu v.v…

Chánh mạng trong tiếng Anh dịch là “Right Livelihood”, chính là “Sinh kế chính đáng”.

6/* Chánh tinh tấn:

Chánh tinh tấn chính là dùng sự nỗ lực và ý chí kiên định, cố gắng không mỏi mệt, không đạt được thành công thì không ngừng.

Đức Phật dùng con bò để làm ví dụ rằng: “Bò gánh vác nặng nề, tiến lên trong ao bùn sâu, nó tuy mỏi mệt nhưng ánh mắt lại nhìn về phía trước một cách kiên định. Nó mãi không lười biếng, nó đi tận ra ao bùn”.

Chánh tinh tấn trong tiếng Anh dịch là “Right Effort”, chính là “Cố gắng đúng lúc”. Vì sao gọi là cố gắng đúng lúc? Chính là để đạt được mục đích tu hành, nên phải tiến dần theo từng bước, tiến lên cẩn thận chắc chắn, không thể quá vội vàng, vì “Muốn mau thì không đạt”. Đức Phật tin tưởng: “Bước đi ổn định lại đáng tin cậy hơn bươc đi như bay và liều mạng”.

Cho nên chánh tinh tấn cho chúng ta biết: làm việc nếu muốn thành công, ngoài việc nỗ lực bền chí, còn phải nỗ lực thỏa đáng, đã không giải đãi cũng không quá hấp tấp. Thử nghĩ “một nóng mười lạnh” có thể thành công không? (chánh tinh tấn chính là phải tu “Tứ chánh cần”,  chỗ này tạm không bàn đến).

7/* Chánh niệm:

Chánh niệm chính là phải bảo trì sự hiểu biết sáng suốt trong tỉnh ngộ vắng lặng, hiểu rõ xác thực tất cả việc làm của mình cùng với sự việc mà mình gặp.

Đức Phật nói cho chúng ta biết rằng: “Tất cả chúng ta được tạo thành là do tâm niệm của mình” (câu thứ nhất mở đầu kinh Pháp Cú). Cho nên người ta cần phải có tâm niệm chính xác. Phải làm sao mới có thể đạt được tâm niệm chính xác? Chính là đối với tất cả sự vật, phải giữ nguyên sự quan sát trong cảnh giác và thâm nhập không gián đoạn để mong hoạch được nhận thức chân thực. Đức Phật đặt ra “Tứ niệm xứ” làm phương pháp cho chúng ta tu hành:

(1)         Quán thân bất tịnh__thân thể chúng ta tràn đầy phẫn, nước tiểu, mồ hôi lu bù ô uế không thể chịu đựng được, đẹp đẽ trong sạch chỉ là tạm thời, tuổi đã già hoặc một cơn bệnh tới thì không đẹp nữa, ba ngày không tắm hoặc xong một cuộc vận động thì không trong sạch nữa. Do đó không cần phải bị mê hoặc bởi sự tươi đẹp và trong sạch ở bề ngoài, phải nỗ lực tu dưỡng tâm tánh của mình, chỉ có “Phật tánh” của chúng ta mới là ra khỏi từ bùn dơ mà không bị nhiễm (chữ “Quán” có ý nghĩa quán sát và hiểu rõ).

(2)         Quán thọ là khổ__ Thọ chính là cảm giác khổ và vui. Niềm vui của thế gian đều là niềm vui tạm thời, khổ và vui là anh em sinh đôi, như bóng theo hình. Một cặp cô dâu chú rể dắt tay nhau bước vào lễ đường kết hôn, trước tiếng nhạc trổi lên trang nghiêm xúc động, tiếng vỗ tay như sấm và vạn người chúc phước. Nhưng gặp nhau ngày nay thế nào cũng đã biệt ly ngày mai (chính là ái biệt ly khổ), bóng râm của tử vong đã được sắp sẵn trong lưới Trời vây kín, vĩnh viễn họ không có cách nào trốn thoát. Yêu đương lại càng sâu, đau khổ cũng càng nhiều, hẹn non thề biển ngày nay chính là ruột gan đứt đoạn ngày mai, đâu có cuộc hẹn nào có một chút chân thực?

Niềm vui trên đời là niềm vui do nhân duyên sinh, gọi là “niềm vui của gia đình”. Phải nên xây dựng lành mạnh và hợp tác của mỗi phần tử trong gia đình, nếu như có người tử vong bất ngờ hoặc có người đức hạnh chẳng ra gì, thế thì một gia đình này đã bị phá tổn và niềm vui cũng mất đi đến nỗi không còn một tia sáng, đau khổ tiếp liền nhau mà đến.

Lại có niềm vui được gọi là “niềm vui làm quan” cũng là không thực tế, có một ngày không được làm quan thì buồn bực và đau khổ cũng đến. Do đó, chúng ta không cần nóng vội ở sự tìm cầu danh dự hư giả, nên tu dưỡng thêm phẩm đức tịnh hóa tâm linh. Chỉ có “Niết Bàn”__vượt qua giải thoát của khổ và vui thì mới là hạnh phúc vĩnh hằng (vì khổ và vui là tướng đối đãi, cho nên cần vượt qua khổ và vui).

(3)         Quán tâm vô thường__tâm chúng ta thường xuyên đều bị dẫn dụ bởi ngoại cảnh, tìm cầu mọi thứ đẹp đẽ, thích âm nhạc êm dịu, tham muốn thức ăn mỹ vị, bị mê hoặc bởi cảm thọ an nhàn thoải mái v.v….Hơn nữa thường “thấy khác lạ thì lung lay” không thể khống chế. Cho nên nói: “Tâm như ngựa chạy trên bình nguyên, dễ phóng khó ghìm”. Tâm có thể chuốc họa một cách mù quáng và làm điều xằng bậy mà không chú ý một chút nào hết, nó mang đến cho mình phiền não khổ sở lớn lao, vì vậy phải cẩn thận.

Cho nên con người phải “sáng tâm”, “tu tâm”, cần có thể điều khiển được tâm, tiết chế tâm; không nên để tâm dắt chúng ta liều lĩnh mù quáng, dẫn dụ chúng ta để làm việc xấu, đó chính là “Quán tâm vô thường” (“Vô thường” chính là ý nghĩa không thể trông cậy vào, là có sự chuyển dời, biến dị tùy lúc).

(4)         Quán pháp vô ngã__vạn sự vạn vật trong vũ trụ (tức gọi là “pháp”) đều là theo nhân duyên mà sinh diệt. Nhân duyên hợp thì sanh (hóa hợp của khí oxy và hydro thành nước), nhân duyên phân tán thì diệt (nước có thể điện giải thành khí hydro và oxy). Do đó bản thân của sự vật cũng không có một “Bổn thể” tồn tại lâu dài mãi không biến đổi(cũng tức là không có tánh tự chủ, tự tại).

Dùng con người làm ví dụ: con người là Tứ đại giả hợp (bốn loại nguyên tố đất, nước, gió, lửa), Tứ đại không điều hòa thì sanh bệnh, Tứ đại ly tán thì chết (như đại “Phong” ly tán, người ta không có hô hấp thì chết; còn đại “Hỏa” ly tán, thân thể người ta lạnh ngắt làm sao lại có thể sinh tồn?). Người ta không thể khiến cho mình không bị bệnh, cũng không có cách nào khiến cho mình không chết, người ta không có quyền “tự chủ” đối với mình, đó chính là đạo lý “Quán pháp vô ngã”!

Chánh niệm trong tiếng Anh dịch là “Right Mindfulness” chính là “ý thức chính xác”, cũng có người dịch là “Right Concentration” chính là “nhớ nghĩ chính đáng”.

8/* Chánh định:

Chánh định chính là đi qua thiền định chánh đáng mà đạt được cảnh ngộ giải thoát thân và tâm.

Tâm thức loài người thông thường giống như một cái máy chụp hình không có điều chỉnh tốt tiêu cự thì hình ảnh không cách nào có rõ ràng xác định đối với hiện thực hoặc chân lý. Nhưng chánh định chính là để giúp đỡ chúng ta “điều chỉnh” điểm chủ chốt, khiến chúng ta có thể nhận thức và thể hội rõ ràng thế giới này.

Trước đây 2.500 năm, Đức Thích Ca Mâu Ni đi qua “Chánh định” dưới cây Bồ đề mà giác ngộ, từ đó Ngài tuy sinh hoạt giống với người phàm ở thế giới này, nhưng Ngài đã bước vào trong cảnh giới hài hòa, yên lặng, bình đẳng và thăng bằng. Cảnh giới này không có cách nào hình dung bằng ngôn ngữ, văn tự, ngoại trừ chúng ta đích thân chứng ngộ và thể hội, còn tất cả giải thích đều là quá thừa (vì giống như người uống nước lạnh nóng tự biết).

Chánh định trong tiếng Anh dịch là “Right Absorption” hoặc “Right Meditation” đều là ý nghĩa “thiền định chánh đáng”, nó có khác với loại tông giáo khác gọi là nhập định, xuất thiền, xuất du.

Điều giải thích ở phía trên chính là đạo lý của Bát chánh đạo. Tất cả nhân loại cho đến tất cả chúng sanh nếu muốn đạt được niềm vui vĩnh hằng, chân thật, cần phải dựa vào 8 loại phương pháp này để làm thì mới có hy vọng thành tựu.

3/  Thập nhị nhân duyên:

“Mười hai nhân duyên” là đạo lý dùng để giải thích cho người ta vì sao có thể lẩn quẩn luân hồi trong biển khổ sanh tử.

Mười hai loại này gồm:

Giải thích bằng bạch thoại thiển cận thì như thế này: một người do vì vô tri, ngu xuẩn trong đời quá khứ, không biết thiện ác đúng sai (vô minh); kết quả họ đã làm rất nhiều việc xấu (hành); đã có nhân ác một đời này thì đầu thai thọ sanh (thức); thân tâm trong thai trưởng thành chậm chạp (danh sắc); đến lúc thai mẹ ra mau: mắt, tai, mũi, v.v… lục căn đã đầy đủ (lục nhập); sau khi ra đời thì những căn tiếp xúc với cảnh giới bên ngoài: mắt có thể thấy, tai có thể nghe, mũi có thể ngửi v.v…(xúc); đến 6,7 tuổi thì các căn có thể có cảm thọ với khổ vui của cảnh giới bên ngoài (thọ); đến 14,15 tuổi thì đã khởi lên tâm tham ái đối vơí tất cả sự vật tốt xấu (ái); đã có tâm tham ái thì muốn đi tìm cầu (thủ); tìm cầu mù quáng thì lại gieo xuống nhân ác đời sau cho mình (hữu); sau khi đã có nhân ác lại phải đầu thai ở đời sau mà thọ sanh (sanh); đã có sanh sẽ lại có hiện tượng già yếu và chết (lão tử).

Mười hai nhân duyên xem ra là từ vô minh → lão tử, chúng ta lần lượt loại suy nhưng nó cũng không phải là một đường thẳng mà là một dây xiềng xích hình tròn.

Sinh mệnh chính là bắt đầu như thế này mà chấm dứt, chấm dứt rồi lại bắt đầu, lưu chuyển luân hồi không ngừng. Giống như:…gà…trứng…gà…trứng…gà…trứng….

Thế thì, đạo lý mười hai nhân duyên vạch rõ cho chúng ta cái lẽ nào?

Sự già yếu và tử vong của chúng ta chính là vì chúng ta có “sanh”, có sanh mới có thể có tử. Nhưng chúng ta sở dĩ có thể đầu thai đến nhân gian, đó là vì chúng ta gây ra việc làm ác lung tung, vô tri và ngu xuẩn, không biết đúng sai ở dĩ vãng. Do đó một đời này của chúng ta phải nỗ lực hành thiện, đoạn tuyệt tất cả nhân ác và sau khi tránh được còn phải chịu quả báo khổ của luân hồi.

            Mười hai nhân duyên nói cho chúng ta biết nguyên nhân sanh tử, nhắc nhở chúng ta phải bước lên một bước để nghiên cứu như thế nào thoát khỏi uy hiếp của sanh tử. Nếu không như thế thì chúng ta sống vật vờ và khổ nạn vĩnh viễn không có ngày ngừng.

Mười hai nhân duyên từ xưa đến nay được giảng từ trong triết học chính là có hệ thống lý luận của nó, tức là: do “Vô minh” và “Hành” nó có hình dáng để đi đến trường phát triển ra “Thức” và “Danh sắc” được gọi là luận thức, và nó được phát triển lên thêm vì thế giới hiện thực kinh nghiệm (“Xúc” đến “Lão tử”) là chỉ cho sau khi ra khỏi thai. Nhưng các bạn học cũng không hiểu triết học lắm, cho nên chúng tôi không thể soạn tỉ mỉ bài thảo luận về một phương diện này.

4/  Lục độ:

Vì sao gọi là lục độ? “độ” chính là “Ba la mật đa”, tiếng Phạn của Ấn Độ, ý nghĩa là “đến bờ kia”.

Cũng tức là có thể vượt qua biển khổ sanh tử đến bờ kia của niềm vui. Cho nên lục độ chính là sáu loại phương pháp khiến người ta vượt qua biển khổ sanh tử. Sáu loại phương pháp đó chính là: 1. Bố thí. 2. Trì giới. 3. Nhẫn nhục. 4. Tinh tấn. 5. Thiền định. 6. Trí tuệ.

      1) Bố thí: Bố thí chính là dùng ân huệ phước lợi bố thí cho người khác. Trong kinh Vô Lượng Thọ nói: “Ban bố ân huệ” gọi là bố thí.

Bố thí có thể chia làm ba loại:

a)      Tài vật thí: chính là bố thí của cải và tiền bạc cho người khác. Ví như chúng ta nhường cơm sẻ áo, mở rộng túi hoặc cứu trợ người nghèo, hoặc cấp phát cho người cần có nhu cầu đều gọi là tài vật thí.

b)         Pháp thí: là chúng ta vạch ra cho người khác sự gợi ý trong nhân cách chỉ đạo về học vấn, có thể nói đạo lý cho người khác nghe, giải thích cho người khác hiểu rõ và khiến người ta có thể đạt được phương pháp chính xác để làm người xử thế đều gọi là pháp thí.

c)         Vô úy thí: chúng ta bày ra sự cứu nguy ách nạn của người khác, khiến người ta trừ bỏ được sợ hải và bất an. Người khác gặp điều không may, chúng ta mềm mỏng an ủi họ; trên đường họ gặp chuyện bất bình chúng ta hết sức tương trợ; người khác có việc buồn khổ ủ ê, chúng ta khuyến khích để họ có dũng khí và lòng tin, đó đều là vô úy thí.

               Trong một số người bố thí, họ thường có sự phân biệt chủ động và bị động, cũng tức là có sự đối lập của người bố thí và người nhận bố thí, do đó họ thường khinh suất vì mình là người bố thí mà sinh ra cảm nghĩ hơn người. Chủ trương nhà Phật cần đả phá loại quan niệm này, trong kinh Kim Cang nói: “Làm việc bố thí, tâm không nên có chỗ trụ”, chính là nói không nên vì hy vọng người khác báo đáp, hoặc có cảm nghĩ mình phú quý đầy đủ hơn người hoặc vì mục đích khác mà làm bố thí.

               Các bạn còn nhớ một câu chuyện không? Có một năm nước Tề mất mùa đói kém, rất nhiều gia đình có tiền đã chuẩn bị nhiều món ăn thoải mái, họ gặp có người trên đường đi ngang qua thì kêu to: “Ê, hãy đến ăn đi!” do thái độ không đủ chân thành và ngữ khí của họ tràn đầy cảm nghĩ hơn người quá nhiều, do đó những người có chí khí, có tâm tự trọng rất mạnh, tuy đói đến nỗi bụng cồn cào, đi bộ tập tễnh, nhưng thà chịu bị chết đói, họ vẫn không muốn tiếp nhận thức ăn bố thí.

                                    2) Trì giới: trì giới chính là phải tuân thủ giới luật, khiến cho hành vi không vượt quá quy chế.

Phàm người ta cũng không phải Thánh hiền và luôn có rất nhiều nhược điểm, lại có thêm rất nhiều dẫn dụ bởi ngoại cảnh nên rất dễ gây ra nhiều việc xấu: việc nhỏ thì thân bại danh liệt, việc lớn thì tổn hại nhân quần. Do đó, Phật giáo chế định rất nhiều giới luật giúp đỡ chúng ta chế phục xung động và ham muốn riêng tư của mình mà rửa sạch vết dơ trong nhân cách.

Trong quyển sách tôi đã nhắc tới: giới chỉ là một loại đề phòng tai nạn tiêu cực nhưng tinh thần của nó lại là tích cực.

Nêu ra giới không sát sanh để làm ví dụ: không những mình không sát sanh mà còn phải cứu chúng sanh, thấy chết không cứu là phạm giới. Do đó, chúng ta trì giới có thể giữ gìn phong tục lương thiện, duy trì luân lý đạo đức, khuyến khích mọi người hành thiện và đạt được lý tưởng thiên hạ một nhà.

Có người hiểu lầm rằng: “Không theo Phật giáo thì rất tự do, đã theo Phật giáo thì không thể làm được cái gì”. Thực ra, điều này là kết quả không chịu dùng tâm để suy nghĩ: chưa theo Phật giáo mà làm việc xấu vẫn phải bị nhân quả báo ứng, giống như không hiểu pháp luật mà phạm pháp vẫn phải ngồi tù. Tục ngữ có câu: “Không biết thì không có tội” chỉ là một loại dạy nhầm.

Thử hỏi có thể vì bạn không theo sức hút của lòng đất thì bạn không tồn tại phải không?

Cho nên trì giới là điều rất trọng yếu; chúng ta làm một quốc dân tốt cũng phải tuân thủ rất nhiều pháp luật, huống gì mong muốn tu hành thành Phật, thoát ly biển khổ sanh tử.

Giới gồm có 5 giới, 8 giới, 10 giới. Giới đầy đủ có bốn cấp, danh mục của nó nhiều lắm, cướng lĩnh cũng nhiều, không thể nói tỉ mỉ. Trong đó ngũ giới ở chương trước đã bàn đến, chính là: 1. không sát sanh. 2. không trộm cắp. 3. không tà dâm. 4. không nói dối. 5. không uống rượu.

Thông thường một vị xuất gia làm  Hòa thượng  phải giữ 250 giới, Ni cô phải giữ 500 giới, có thể thấy rằng xuất gia cũng không phải là một việc dễ!

            3) Nhẫn nhục: Người bị làm nhục, bị bắt nạt bởi người khác mà không sanh tâm sân hận thì gọi là nhẫn nhục.

Việc tu dưỡng nhẫn nhục đối với một người là việc rất quan trọng, có thể hóa chiến tranh thành ngọc và lụa, hóa tàn ác hung bạo thành hiền hòa, còn có thể được tăng thêm hạnh phúc và trí tuệ, cũng là để đạt được lý tưởng hy sinh tiểu ngã, hoàn thành đại ngã, cũng là để hoàn thành chí nguyện phổ độ chúng sanh của mình nhưng nó hoàn toàn biểu hiện  một loại tinh thần bất khuất .

Người học Phật vì sao nhất định phải nhẫn nhục? (người lập chí học tập theo Đức Thích Ca Mâu Ni thì mong muốn tuân theo đạo lý mà Ngài nói để làm). Vì con đường tu hành hết sức gian nan gập ghềnh, nếu như không công phu nhẫn nhục thì không dễ quán triệt, giữa đường rất dễ nảy sinh tâm sân hận. Đồng thời lúc tu hành thường có thể có người cố ý chê cười hủy báng bạn. Tướng lai khi bạn muốn phổ độ chúng sanh (tức là giảng đạo lý Phật giáo cho người khác nghe khiến người ta có thể được soi sáng mà lập chí cầu đạo). Cũng có thể có người không nhận tình cảm của bạn, cố ý chế giễu châm biếm bạn. Nhưng bạn nhất định không thể bực tức càng không thể báo thù. Muốn làm được sự bình thản chỉ có nhờ vào công phu nhẫn nhục.

4) Tinh tấn: tinh tấn chính là ý nghĩa nỗ lực hướng thượng không giãi đãi.

Làm một việc gì muốn có thể thành công, tâm chúng ta nhất định phải thường xuyên nỗ lực mới có thể đạt thành mục đích.

Ngày nay các vị cầu học ở trường, nếu muốn tương lai có thể được thành tựu nhất định phải nỗ lực không giãi đãi, mới có thể học được tri thức và kỷ năng cao thâm; huống gì con đường thành Phật đã xa xăm mà lại rắc rối. Công việc cứu độ chúng sanh đã nặng nề mà lại khó khăn, nếu không nỗ lực tinh tấn thì không có cách nào hoàn thành nhiệm vụ “Gánh nặng đường xa”.

            5) Thiền định: Thiền định chính là ý nghĩa “Lặng yên”, chính là “Bất động tâm”, đó là lời của Mạnh Tử , chính là ý nghĩa chuyên tâm nhất chí, tinh thần không tán loạn.

Vì sao Phật giáo, người tu hành phải chú trọng thiền định? Vì một người nếu như chuyên tâm nhất chí, tinh thần không tán loạn mà không có khả năng trải qua sự lặng yên, thế thì họ chính là không thể có ý chí và trí tuệ kiên quyết để khắc phục dẫn dụ và phá hoại của ngoại cảnh, gặp gian nan nguy hiểm thì hoang mang rối trí, không thể giữ vững bình tĩnh, không thể gan dạ ứng phó. Cho nên thiền định do có sự trọng yếu đó nên nó được coi như là một vết vằn.

Nhưng các bạn nếu như có chí tập thiền, nhất định phải tìm được minh sư chỉ đạo, nếu không như thế thì tu luyện mù quáng, chưa thấy lợi mà đã nhận tai hại trước rồi, không thể không thận trọng.

6) Bát nhã: Bát nhã là tiếng Phạn của Ấn Độ. Tiếng Trung Quốc đọc là /buō rè/ chúng ta có thể phiên dịch một cách miễn cưỡng là Trí tuệ.

Bát nhã có khác gì với Trí tuệ? Trí tuệ mà chúng ta thường nói thì cách dùng của nó hoàn toàn không thể thấu triệt để hiểu rõ sự và lý. Hơn nữa nó luôn dễ hình thành “Thiên kiến” và “Vọng kiến” (kiến giải sai lầm). Nhưng Bát nhã lại có thể được hiểu rõ thấu triệt sự và lý, hơn nữa nó  không thể phát sinh sai lệch.

Lấy “Ánh sáng” làm ví dụ: trí tuệ giống như ánh sáng phổ thông, gặp bức tường thì bị trở ngại. Nhưng Bát nhã giống như X quang, nó có thể xuyên qua những ngăn cản này (sự và lý được vạch ra để nói rõ). Ví dụ như trí tuệ loài người của chúng ta thì không thể hiểu rõ chân tướng của vũ trụ nhân sinh. Cho nên người ta chính là có sự sản sinh quan niệm Thượng Đế tạo người và tạo vật. Thế thì “Sở tri chướng” mà trí tuệ nhân loại sản sinh thì hữu hạn (vì sự hiểu lầm vể sở tri sản sinh là hữu hạn). Người Trung Quốc ai cũng nói “Bàn Cổ là người khai thiên lập địa” phải không? Hồi giáo nói: “A La tạo người, lại nói A La tạo địa cầu”, những thần thoại khác thì mỗi cách có cùng hiệu quả này, đúng là nó không đủ quán triệt, tinh thâm nói rõ trí tuệ của nhân loại. Nhưng Bát nhã mà bậc Phật Đẳng giác ngộ thì có đủ, còn có thể phân tích và giải thích chính xác như thực về chân tướng của vũ trụ nhân sinh.

Trong Tâm kinh nói: “Ba đời chư Phật vì nương Bát nhã Ba la mật đa mà được A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề”. Ý nghĩa là nói Phật giáo mà chúng ta giác ngộ, hết thảy đều là nhờ vào loại “Bát nhã” này mà triệt ngộ chân lý và được quả Phật (“A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề” là tiếng Phạn của Ấn Độ, dịch ra Trung Văn là “Vô thượng chánh đẳng chánh giác”). Ý nghĩa là nói: “Giác ngộ chân thực và thấu triệt nhất”(chứng tỏ Phật đạo và Phật quả).

Từ câu kinh văn này chúng ta có thể hiểu, Phật giáo cũng không phải nương vào tín ngưỡng mà có thể “Được cứu”, Phật giáo không cho rằng tội ác và khổ nạn của mình có thể được thế chuộc từ người khác. Cho nên chúng ta cũng không ỷ lại bất kỳ người nào đến cứu. Tội ác và khổ nạn của nhân loại chỉ có bản thân nhân loại mới có thể rửa sạch và giải thoát. Cũng chính là mỗi người phải tự cứu mình. Không cứu mình thì còn đợi ai đến cứu? Nhưng phương pháp tự cứu chính là phải dựa vào “Trí tuệ”(Bát nhã) của mình để suy nghĩ thận trọng, rõ ràng. Trước tiên, chúng ta phải hiểu rõ nguyên nhân của khổ nạn rồi tiến tới phương pháp tìm cầu giải thoát (tức là đạo lý của Tứ đế).

Cho nên Phật giáo chủ trương mỗi người cần phải nỗ lực “Tu huệ”, cho rằng trí tuệ (Bát nhã) không phải “Đọc”, “Thuộc” mà là từ sau khi quán sát sự và lý thì thâm nhập nghiên cứu và “Tu”. Thiếu trí tuệ (Bát nhã) thì không thể giác ngộ và cũng chính là không thể ngộ đạo.

Những điều giới thiệu sơ ở bên trên chính là sáu loại phương pháp thoát ly biển khổ sanh tử; chúng ta cần phải học tập sáu loại đó cùng một lúc, không thể thiên lệch.

Kể theo một loạt thì lục độ có đủ sáu loại tác dụng:

(1)         Bố thí có thể trị tâm tham của chúng ta.

(2)               Trì giới khiến chúng ta được theo mực thước có sẵn, không khiến cho vượt quy chế, cũng chính là “Dẹp mình để đáp lễ” như Khổng Tử đã nói.

(3)               Nhẫn nhục có thể bồi dưỡng cho chúng ta đức tính tốt khiêm nhường và quảng đại, cũng chính là đức hạnh mà trong sách “Luận ngữ” có nói: “Ôn hòa, lương thiện, cung kính, cần kiệm và nhúng nhường”.

(4)               Tinh tấn có thể ngăn chặn sự làm biếng và giãi đãi của chúng ta (vốn có tinh tấn thường xuyên thì trở nên thành công).

(5)               Thiền định có thể làm trong suốt bộ não chúng ta, khiến tinh thần được tập trung.

(6)               Bát nhã khiến người ta thông minh và có trí tuệ, không thể a dua mê tín, vả lại có sức phán đoán nhạy bén và chuẩn xác.

Các bạn học ngày thường đọc sách và làm người nên dựa theo đạo lý của “Lục độ” này để làm, đó chính là học sinh tốt, quốc dân tốt.

V  CHƯƠNG THỨ NĂM:

               Khắp nơi tín ngưỡng Phật giáo:

Tông giáo là việc trọng yếu đối với đời người, trong đó, đạo lý thì rõ ràng dễ hiểu. Tông giáo là một khâu rất quan trọng trong sinh hoạt tinh thần của nhân loại. Nó thật có tác dụng vô cùng đối với sự khuyến khích và phấn chấn của đời người; đồng thời tông giáo có thể an định xã hội và tịnh hóa nhân tâm, khiến con người có đủ lòng tin và hy vọng đối với tương lai, khiến người ta có thể trải qua một loại sinh hoạt tương đối hợp lý và cao thượng.

Nói chung thì tông giáo có đủ tác dụng an ủi ủy lạo đối với người bi quan, nó càng có đủ hiệu lực ngăn trở, hù dọa, cảnh giác đối với người tác oai, tác quái, cũng như nó có thể có khen thưởng và khuyến khích đối với người lương thiện trong sạch. Khắp nơi tín ngưỡng Phật giáo là việc mà chương này phải thảo luận. Điều đầu tiên chúng ta phải tuyên bố là đúng. Vì điều này nó cũng không có nghĩa là tông giáo khác được tín ngưỡng nhưng chính là không thể được khắp nơi tín ngưỡng. Thật là như lời của Tiến sĩ Trương Trừng Cơ nói trong một quyển sách “Cái gì là Phật pháp”: “Phật giáo hoàn toàn không nói xấu tông giáo khác. Vì căn khí chúng sanh khác nhau nên Phật pháp tùy theo cách mà giáo dục, cho nên Phật pháp không thể tự hỗn tạp”. Do đó “Các tông giáo và triết học đều có giá trị và công dụng của nó. Tất cả các tông giáo đều có thể phát sinh tác dụng giáo hóa và lợi ích đối với một loại chúng sanh nào đó trong một thời gian và không gian nào đó”.

Nhưng giữa tông giáo, do khác nhau về trí tuệ và hoài bão của giáo chủ, khác nhau về sâu cạn của người nói giáo lý, khác nhau về tinh thần và phương thức giáo dục nên mỗi một tông giáo dù khác nhau bao nhiêu cũng có thể mang đến rất nhiều nơi cho mọi người tín ngưỡng. Nhưng tông giáo xét đến cùng thì thật là giống nhau. Một trường tiểu học và một trường đại học, tuy cũng là trường học thì cũng có thể giáo dục cho học sinh đạo lý có liên quan đến việc làm người, làm việc và tương lai học sinh đặt chân vào kỹ năng của xã hội. Nhưng khi chúng ta bước vào một trường tiểu học và bước vào một trường đại học thì sở học và sở đắc sao lại có thể giống nhau.

Dưới đây, những điều chúng ta phải nói rõ chính là khắp nơi tín ngưỡng Phật giáo. Có những nơi người ta tuy tín ngưỡng tông giáo khác nhưng Phật giáo họ cũng có thể tiếp nhận được; xét cho cùng Phật giáo phải cao siêu và thù thắng hơn.

1. Phật giáo có thể khiến con người hoạch được nhân sinh quan chính xác:

Phật giáo phân tích vấn đề vũ trụ nhân sinh một cách tường tận, mục đích ở chỗ khiến cho con người hoạch được nhận thức chính xác về đời người.

Cách nhìn của một số người về đời người không ngoài hai loại bi quan và lạc  quan.

(1)               Bi quan: cho rằng đời người ngắn ngủi, sinh mệnh trống rỗng, người ta sống chính là chờ đợi cái chết, vì vậy cả ngày vẻ mặt của họ cứ rầu rĩ, ủ rủ.

(2)               Lạc quan: Một loại người này cũng không phải “Trải qua đời sống vui vẻ” thật sự, vì sinh hoạt của họ không có mục đích ý nghĩa. Họ chỉ ôm ấp quan niệm “Hành lạc kịp thời” để làm mê mẩn cơ quan cảm giác và tâm linh bằng nỗi vui tung trời, bạt mạng và náo nhiệt. Mục đích ý nghĩa và đời sống của cuộc đời là cái gì? Họ không buồn để ý và họ cũng không biết. Nhưng nhân sinh quan của Phật giáo nói một cách nghiêm khắc thì đã không thuộc về bi quan cũng không thuộc về lạc quan, chúng ta có thể miễn cưỡng gọi nó là “Trung quán”.

Vì sao gọi là “Trung quán”? Trung quán chính là như chúng ta đã không thở dài não ruột, như là khóc sướt mướt cho đời người; chúng ta cũng không ngớ nga, ngớ ngẩn phó mặc cho sinh mệnh, nhưng Trung quán có thể giúp chúng ta sử dụng nhãn quan của trí tuệ. Trung quán dẹp trừ tất cả nghi ngờ sợ hải, buồn khổ và hiểu lầm của đời người. Nó nhận thức chính xác như thật của đời người và nắm vững phương hướng cho đời người.

Có người hoài nghi Phật giáo là bi quan, vì Phật giáo đề xướng “Khổ, rỗng không, vô ngã” cho rằng đời người tràn ngập rất nhiều khổ não, cho rằng thế giới trước mắt đều là nhân duyên tạm thời tụ hợp mà thành nên không có một dạng nào vĩnh hằng và chân thật.

Thật ra, Phật giáo chỉ là không “che đậy điều sai” mà thôi, cũng không phải bi quan chân chánh, bạn thấy đời người không phải tràn ngập rất nhiều khổ não sao? Bạn hãy nhìn xem thế giới này một dạng nào là chân thật? Là vĩnh hằng? (không phải sao? Ngay cả Khổng Tử cũng có lời than vãn: “Người đời xưa cũng như người đời nay vậy, ngày đêm không nhà”.

Phật giáo cũng không phải là một loại tông giáo không có trách nhiệm, nó trước tiên muốn chúng ta nhận thức đời người này là đời người khổ não, rồi sau đó phân tích từng bước một những khổ não của đời người này đều là vô tri, tham dục mà chính mình chiêu đến, do đó mỗi người đều có thể khắc phục những khổ não này. Sau cùng, nó vạch ra con đường hạnh phúc của đời người và hy vọng chúng ta phải tiết chế dục vọng của mình mà phục vụ cho người khác nhiều hơn. Phật giáo rất tin: mình muốn vui, nhất định không thể xây dựng niềm vui trên sự đau khổ của người khác. Chỉ có toàn thể chúng sanh đều có được niềm vui hạnh phúc thì cá nhân mới có thể có niềm vui hạnh phúc chân chánh.

Phật giáo cho rằng công danh lợi lộc đều là áng mây khói đi qua mắt. Nghĩa là sinh ra không mang đến và chết không đem theo, vì vậy Phật giáo khuyên người không nên tham luyến quá, tham cầu quá. Trái lại khuyên người phải bố thí, tu phước huệ, phải có khả năng biết rõ, phải có khả năng vùng lên để thoát khỏi những ống khóa danh lợi này.

Một người với “ý chí trong sáng, thanh đạm, lắng dịu thật sâu” thì bao nhiêu của cải cũng không thể thay thế tinh thần dồi dào được ư! Chỉ có tu dưỡng phẩm đức, tịnh hóa tâm linh thì đời người mới có thể hoàn toàn yên lòng vui chơi.

2. Phật giáo có thể khiến cho con người tích cực hăng hái hướng thượng:

Sau chỗ “Phủ định” mọi thứ của đời người, Phật giáo khiến cho con người không tham luyến tìm cầu mù quáng nữa. Như thế mới có thể phục vụ cho nhân quần một cách “Tích cực” và “Khẳng định” một lần nữa ý nghĩa giá trị và sinh mệnh của đời người.

Phật giáo nói thân thể người ta là “Rỗng không”, “Giả tạm” cho nên mục đích của Phật giáo là ở chỗ khuyên người ta không nên “Khắp nơi vì mình” mà nên “Mình vì mọi người”, vì “Mình” đã là “Rỗng không”, “Giả tạm” thế thì công danh lợi lộc sẽ để làm gì?

Phật giáo còn cho rằng chúng sanh là một thể của Phật giáo, sướng khổ cùng chung, tiểu ngã sống trong đại ngã. Vì thế, chúng ta phải hy sinh tiểu ngã, hoàn thành đại ngã; không những không thể tự tư tự lợi mà còn phải có tinh thần từ bi giúp người.

Phật giáo phản đối việc điều khiển vận mệnh bởi trong tay thần linh hoặc người khác; việc mình làm mình đáp ứng, vì thế mọi người phải khắc khổ chịu khó, nổ lực phấn đấu. Chúng ta vì ngày mai nên hôm nay cần phải bày tỏ ra: không có sự chăm bón vất vả cần cù thì đâu có thể có sự thu hoạch to lớn?

Phật giáo khuyên người ta phải “Thiểu dục tri túc”, cũng không muốn người ta trốn tránh trách nhiệm. Phật giáo muốn người ta “Gánh vác đạo nghĩa như sắt”. Không thể làm “Người Hán riêng thôi” chỉ lo cho thân mình, nghĩa là “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”, “Ta không vào địa ngục  thì ai vào địa ngục?” chính là sự thuyết minh tốt nhất.

Giới luật của Phật giáo cũng không phải là sự gò bó cứng nhắc đối với hành vi của người, mà là sự khuyến khích sống động. Nó có thể ngăn chặn tội ác ở phương diện tiêu cực, có thể khuyến khích cứu người giúp đời ở phương diện tích cực. Chúng ta nêu lên việc “không sát sanh” làm ví dụ: mục đích và tinh thần chân chánh của nó không ở chỗ bản thân mình không giết, mà là phải khuyên người ta tránh sát sanh. Một người lập chí học đạo Bồ tát mà chính mình sát sanh đương nhiên là phá giới. Chính mình thấy chết không cứu cũng là phạm giới. Các giới luật khác cũng không có giới nào mà không như thế. Không những mình không thể “trộm cắp”, “nói dối” mà càng phải khuyên người không nên trộm cắp, nói dối và thành tâm khuyên bảo một cách không chán chường  để khuyên người cải tà quy chánh.

Như thế, “tâm lý riêng tư”sẽ không tồn tại nữa, “mỗi người tự quét tuyết trước cửa”, mọi người sốt sắng việc công, chăm lo việc nghĩa, đạo cũ lòng thành “coi thiên hạ của chung là làm đạo lớn vậy”. Đó chính là một nhân gian tràn đầy yêu thương và đồng tình, công lý và chánh nghĩa.

            3. Phật giáo có thể tịnh hóa nhân tâm và xã hội:

Chúng ta mỗi ngày mở tờ báo vừa mới nhìn, tin tức xã hội nguyên trang đều là “Sát, đạo, dâm, vọng” khiến người ta nhìn thấy xúc động và ai cũng thở dài cho lòng người không tốt?

Nhưng một tín đồ Phật giáo tối thiểu phải giữ nghiêm năm loại giới luật cơ bản dưới đây:

(1)         Không sát sanh__không tàn hại sinh linh.

(2)         Không trộm cắp__không lấy trộm, không cướp đoạt tài vật của người khác.

(3)         Không tà dâm__quan hệ nam nữ chánh đáng. Không nhón hoa động cỏ, không để hạnh đỏ mọc bờ tường.

(4)         Không vọng ngữ__lời nói chân thật, không giả dối, không bịa chuyện.

(5)         Không uống rượu__rượu có thể làm loạn tính, khiến người mất đi lý trí, vì vậy cần tránh tuyệt.(Trong Luận Ngữ, Khổng Tử cũng có một câu “Không bị rượu làm khổ”. Chẳng qua lúc dùng rượu để làm thuốc chữa bệnh, tạm có thể thông cảm).

Các bạn thử nghĩ xem, năm giới này không phải là Nhân (không sát sanh), Nghĩa (không trộm cắp), Lễ (không tà dâm), Tín (không vọng ngữ) mà nhà Nho đề xướng, không tính mà lại rất phù hợp sao?

Giữ nghiêm năm giới là căn bản làm người, vi phạm năm giới thì không thể đặt chân vào xã hội. Đồng thời bị pháp luật nhà nước không khoan dung, sau cùng chỉ có thân bị giam trong tù nếm đủ mùi vị song sắt. Nhưng Phật giáo lại cho rằng muốn làm “Người” thì không thể không giữ năm giới, trái với năm giới thì qua đời không thể được trở lại làm người mà sẽ đọa vào ba đường ác: địa ngục, súc sanh và ngạ quỷ (ba loại báo ứng này của chúng sanh đều là đau khổ không thể chịu đựng được, do đó gọi là ác đạo).

Hơn nữa chúng ta dù cho tạ thế như thế nào thì hãy xem trước mắt là đủ hiểu. Người ta có thể không sát sinh thì trong xã hội không có án mạng giết người; có thể không trộm cắp thì không có kẻ cắp kẻ cướp; có thể không tà dâm thì không thể có nam nữ lén lút phá hoại việc luân lý của gia đình; có thể không vọng ngữ cũng chính là không thể có các việc nói dối, gian trá, lừa gạt v.v…; có thể không uống rượu thì thân tâm vui vẻ, đầu óc rõ ràng, không thể vì hồ đồ trong chốc lát mà chuốc họa.(Rượu có thể hại thân thể, đã từ lâu y học nhiều lần chứng minh.)

Như thế, xã hội này không phải là xã hội yên tĩnh và an lạc sao? Vì thế tôi nói Phật giáo có hiệu quả trong việc tịnh hóa nhân tâm và xã hội.

4. Phật giáo có thể khiến cho con người được niềm vui chân chánh:

Người ta muốn niềm vui chân chánh đại khái cần phải đầy đủ mấy mục yêu cầu dưới đây:

(1)      Tâm bình tĩnh, không sinh phiền não.

(2)         Đối với khổ nạn trước mắt thì gặp sao cũng được, không oán Trời trách người.

(3)         Đối với vấn đề chồng chất của đời người trong vũ trụ thì có thể được giải đáp hợp lý.

(4)         Đối với vị lai (kết cục của đời sau hoặc sau khi người chết) có thể có đáp án thỏa mãn.

(5)         Tiền đồ, vận mệnh, kết cục thành bại và khổ vui của mình không bị điều khiển bởi trong tay người khác.

Tôi nghĩ bất kỳ tông giáo nào trên thế giới, ngoài Phật giáo ra không có một tông giáo nào có thể đầy đủ những yêu cầu này của nhân loại một cách hoàn toàn (có những tông giáo chỉ có thể đầy đủ một hai điểm trong đó), đó là:

1) Phật giáo khuyên người biết đủ thường lạc, phải học tập thiền định, lạc quan tiến thủ, tâm tình tự nhiên bĩnh tĩnh, không sanh phiền não.(Nêu ví dụ để nói rõ: một số người giống như đứa bé ba tuổi, mất một viên kẹo thì sốt ruột, khóc lóc. Nhưng tín đồ Phật giáo giống như người lớn hiểu việc, không thể vì điều này mà phiền não. Đó là khác nhau về quan niệm, trí tuệ và cảnh giới.)

2) Phật giáo cho rằng việc trước mắt không như ý, nó đều là do quả kết lại bởi nhân trước đây mình tạo. Cho nên phải dũng cảm chịu đựng, dám làm dám chịu, không thể oán Trời trách người.

3) Kinh điển mà Phật giáo có, không phải ở chỗ Đức Phật bày tỏ quyền uy và tài cán mà vấn đề cơ bản là giải thích vũ trụ nhân sinh một cách triệt để và hoàn toàn, có thể khiến người ta được giải đáp hợp lý. Cho nên nhà triết học Anh Quốc mới vừa qua đời không bao lâu Bertrand Russell nói: “Các tông giáo trên thế giới, tông giáo mà tôi tán thành nhất là Phật giáo”. Quốc phụ nói: “ Phật học là mẹ của triết học, nghiên cứu Phật học có thể sửa được cái sai của khoa học”. Khang Hữu Vi nói: “Phật giáo rộng mà tinh vi… tuy có thánh triết nhưng không có chỗ ứng phó. Lời lẽ của nó bao hàm rất là sâu xa”. Chương Thái Đàm nói: “Lý luận của Phật giáo khiến bậc Thượng trí không thể không tin”. Lương Khải Siêu nói: “Tín ngưỡng Phật giáo chính là trí tín, không phải mê tín”.

4) Trong kinh Phật nói: “Phật vì một nhân duyên lớn mà xuất hiện ra đời”. Một “Nhân duyên” lớn này (tức là mục đích của thế gian sau này) là cái gì? Chính là vì khiến cho chúng sanh chuyển mê thành ngộ, giải thoát từ trong khổ nạn và vĩnh viễn hưởng thụ tự do và niềm vui.

5) Phật giáo cho rằng người ta chính là con người hiên ngang cứng cõi, bên trên con người không có một thần linh nào có thể điều khiển sống chết; thành bại; phước họa của chúng ta. Con người là chủ nhân của chính mình, chúa tể của chính mình. Chỉ cần mình phấn khởi nỗ lực nhất định thì có ngày mai rực rỡ quang minh.

Do đó, tôi nói tín ngưỡng Phật giáo có thể có được niềm vui chân chính.

5.  Có thể biết Phật là đạo sư hiền từ nhất của nhân loại:

Đức Thích Ca Mâu Ni giáng sinh vào nhân gian, Ngài là Thái tử ném bỏ công danh phú quý, lẽ nào Ngài là đồ ngốc chăng? Không phải Ngài thực tế là một người có đủ tâm từ bi và trí tuệ rộng lớn chăng? Ngài “Lo cho cái lo trước thiên hạ”__Vì sanh, lão, bệnh, tử của nhân loại không thể được giải thoát nên Ngài ăn không ngon, ngủ không yên giấc, cho nên Ngài bèn xuất gia tìm đạo. Ngài đúng là “Vui sau cái vui của thiên hạ”__Ngài thuyết pháp 49 năm. Đêm khuya không mỏi mệt, Ngài thấp thỏm vội vã để lại bao nhiêu lời dạy bảo và chân lý quý báu. Ngài là một ngọn néon soi sáng không bao giờ tắt cho đời người đen tối, là một con thuyền hiền từ không chìm đắm trong biển khổ tuôn trào. Có ai giống như Đức Phật có bi tâm như thế: lập ra lời thệ nguyện “Ta không vào địa ngục thì ai vào địa ngục?”.Trước đây Ngài đã độ tận chúng sanh và không bao giờ ngừng nghỉ?

Đức Phật từ xưa đến nay không bực tức hoặc xử phạt đệ tử. Trong kinh điển Phật giáo tuyệt đối tìm không thấy Đức Phật nổi giận mà xử phạt nhân loại bằng lũ lụt, dịch bệnh.

Đức Phật mãi giáo huấn chúng đệ tử một cách tha thiết với nét mặt hài hòa. Ngài thật là “giáo hóa không phân biệt”__bất luận già, trẻ, nghèo, giàu, sang, hèn , lúc nào Ngài cũng nhìn bao quát một loại chúng sanh bên trong không gian vũ trụ.

Đức Phật vô cùng hiểu cách giáo dục theo đối tượng, có thể nắm vững thời cơ khác nhau để nói đạo lý thích hợp nhất cho chúng sanh có tư chất khác nhau.

Bình thường, khi Đức Phật giáo hóa chúng sanh, lúc trả lời nghi vấn của đệ tử, Ngài cho rằng phải áp dụng bốn loại phương pháp sau đây:

(1)         Những vấn đề nào đó cần phải phúc đáp giản đơn thẳng thắn.

(2)         Những vấn đề nào đó phải dùng phương pháp giải đáp phân tích.

(3)         Riêng có một số vấn đề phải dùng hỏi vặn để phúc đáp.

(4)         Sau cùng có một loại vấn đề cần phải để cho sắp xếp lại. (Tức là tạm thời không cấp cho giải đáp, vì đối phương ở trước mắt còn không thể hiểu rõ loại đạo lý này. Nếu nói ra, ngược lại làm tăng thêm sự mê mẩn, hoang mang cho họ. Như học sinh tiểu học hỏi về Vi tích phân, ngay cả toán thuật, học sinh này cũng không biết thì Thầy giáo làm sao có thể giải đáp?)

Phương thức giải đáp loại vấn đề này chính là thuyết pháp theo thời cơ, cũng chính là ý nghĩa giản đơn thẳng thắn.

Đức Phật luôn dùng lòng yêu thương và nhẫn nại để giáo dục đệ tử. Ngài không cho rằng con người ngu đần đến nỗi không thể giáo dục được và người hung ác đến nỗi không thể ăn năn tỉnh ngộ được.

Đức Phật cả đời dâng hiến trí tuệ và lòng từ ái của Ngài. Ngài đã nói tường tận vô số chân lý vĩ đại, đã giáo dục chúng sanh không ngừng, nhưng Ngài vĩnh viễn không tự coi là “Giáo chủ” hoặc “Chúa tể”. Ngài cho rằng, Ngài đến nhân gian chỉ là dốc hết trách nhiệm tiếp nối đời trước của Ngài__phát huy vô số chân lý mà chư Phật đời quá khứ phát hiện và gợi ra cho người giác sau, biết sau.

Bản thân Ngài là Phật, nhưng Đức Phật tin chắc tất cả chúng sanh trong vũ trụ, qua sự nổ lực và rèn luyện của bản thân mình, họ sẽ đạt được cảnh giác vĩ đại, sáng suốt và sâu xa giống với chính Ngài.

Ngày nay các vị còn đang đọc sách và tìm tòi học hỏi, vì vậy các vị được coi như là học sinh, là chúng sanh giác sau, biết sau. Nhưng chỉ cần nổ lực thì có một ngày các vị cũng có thể học được các loại tri thức và kỹ năng, có thể làm gương cho mọi người. Giống như các Thầy giáo của các bạn bây giờ, hết sức hiến thân giáo dục cho cả đời sau được tiếp nối học tập.

Phật bình đẳng với chúng sanh, mỗi một chúng sanh đều là vị Phật tương lai. Giữa Đức Phật và họ cũng không phải là quan hệ “Chủ nhân hay người đày tớ”, cũng không phải là quan hệ “Chủ nhân hay nô lệ” mà chỉ là một loại quan hệ “Thầy trò” tạm thời.

Hỡi các bạn thanh niên! Lúc mê là chúng sanh, trong một khi khai ngộ thì có đủ những kiến giải chính xác và thấu triệt của Đức Phật rồi.

Đừng nhục chí, đừng nản lòng. Cái mê của các bạn chính là gian phòng tối đen đó, nó đã tù mù mười năm rồi, chỉ cần thắp lên một ngọn đèn thì có thể xua tan bóng tối của mười năm để mang ánh sáng đến khắp phòng! (nhà Phật gọi là “phòng tối mười năm, một ngọn đèn có thể chiếu sáng”.)

Các bạn thanh niên! Mau thắp lên ngọn đèn bất diệt đó trong tâm của các bạn, ánh sáng thì đang ở xung quanh bạn, hạnh phúc thì đang ở bên cạnh bạn.

Những đạo lý này chính là đạo lý mà Phật Đà vĩ đại nói với chúng ta. Ngài không phải là đạo sư hiền từ nhất sao?

6. Phật giáo có thể bồi dưỡng nhân cách tự tôn, tự tin và độc lập tự chủ:

Đức Phật cho Ngài chính là “Đạo sĩ  không nương tựa”, vì từ khi tu hành đến chứng quả không có người khác có thể thay thế Ngài được, mọi việc đều phải nhờ vào sự nỗ lực của chính mình.

Phật giáo khẳng định mỗi người đều là chủ nhân của chính mình, không phải nô bộc của người khác, không cần dựa dẫm vào thần linh hoặc Đức Phật, chỉ cần nỗ lực thì vẫn có thể thành Phật. Do đó, Phật giáo có thể khuyến khích lòng tự tin và tự tôn của chúng ta.

Theo cách nói của tông giáo khác, con người do Thần sáng tạo ra, con người dù nỗ lực thế nào cũng đều không có cách tự cứu tự tồn tại mình mà cần phải nhờ vào sự cứu giúp thế chuộc của chúa Giêsu mới có thể hoạch được sự sống mãi, vì chúa Giêsu là “con đường và chân lý” duy nhất, nên đồng thời người ta đến chỗ đó của Thần mà cũng vĩnh viễn không thể bình đẳng với Thần; Thần là chủ, họ là nô bộc, người ta vĩnh viễn là đối lập giai cấp lẫn nhau với Thần. Đó là khiến người ta nhục chí biết bao!

Nhưng Phật giáo cho rằng mọi người đều đủ bổn tánh thành Phật “Trên Trời dưới đất chỉ có Ta được Tôn thôi”. Không có ai mà có thể điều khiển nhân loại và có thể làm nô bộc nhân loại, việc thành bại phước họa của con người hoàn toàn ở chính mình. Nhưng tu hành chứng quả thì tự mình hoàn thành nhân cách vĩ đại__Thành Phật. Đó là sự nỗ lực của chính nhân loại, không phải sự ban ân của Thần cũng không phải sự cứu bạt của Đức Phật (chính là chúng sanh tự cứu).

Theo chủ trương của tông giáo khác, con người sống là sống cho “Thần”, thành quả nỗ lực của tất cả nhân loại đều là dùng để vẻ vang cho Thần (việc tốt là công lao của thần, việc xấu thì không phải của thần mà con người phải tự gánh vác). Vì con người là do thượng đế sáng tạo, trí huệ và năng lực của con người là do Thượng đế ban cho, cho nên việc thành tựu nên quy về công lao của Thần (tốt nhất là việc sai lầm đã thất bại thì không phải Thượng đế).

Phật giáo thì không chủ trương như thế, nhưng cho rằng con người là sống cho “Mình”, sống cho “Tất cả chúng sanh” (vì để khiến cho chúng sanh trong vũ trụ đều được hạnh phúc và niềm vui). Đồng thời tất cả thành quả cuả nỗ lực là chính mình phấn đấu và quang vinh quy về chính nhân loại. Nếu như đã thất bại đó là mình thiếu nổ lực, vẫn càng phải phấn đấu thêm không lười biếng và tiến bước về mục tiêu.

Loại tư tưởng này của Phật giáo khiến người ta được phóng thích từ trong bó buộc của Thượng đế, được tự do từ trong uy quyền của Thần. Tư tưởng này đã làm thức tỉnh nhân loại phải tự mình gánh vác đối với hành vi của mình mà không thể quy tội ở Trời hoặc trách móc người khác.

Con người đã không phải do Thượng đế sáng tạo, không phải nô bộc của Thượng đế thế thì con người mới có quyền lợi quyết định tiền đồ và vận mệnh của mình, con người mới có nhân cách độc lập tự chủ (đúng là không phải nô lệ bởi Thần và chịu sự khống chế và điều khiển của Thần). Con người đã có nhân cách độc lập tự chủ thì mới có thể nói đến tự tôn và tự tin.

Đó chính là tuyên ngôn vĩ đại tự do, bình đẳng, bác ái của Phật đối với nhân loại. Tuyên ngôn này ngang với khẩu hiệu mà Đại cách mạng Pháp quốc đề ra từ lâu hơn 2.400 năm, ngang với “Chủ nghĩa nhân văn” sản sinh lúc văn nghệ Âu châu phục hưng (Humanism) cũng từ lâu gần 2.000 năm (nội dung của “Chủ nghĩa nhân văn” xin xem lịch sử Cao Trung trang 107-108 quyển thứ 3).

Các bạn, hãy gắng sức suy nghĩ! Bạn phải làm nô bộc người khác, làm con cừu non bị người khác chăn đuổi? Hay là làm người hiên ngang cứng cõi, làm chủ nhân của chính mình?

VI  CHƯƠNG THỨ SÁU:

               Mấy điểm thuyết minh được bổ sung:

1. Phật giáo và văn học Trung Quốc:

Phật giáo là một trong ba tông giáo lớn trên thế giới, có lịch sử dài lâu nhất. Đến nay ngày 8.4.1971 Tây lịch, chúng ta mới vừa sinh nhật 2515 năm của Đức Thích Ca Mâu Ni.

Sau khi Phật giáo từ Đông Hán truyền vào Trung Quốc, hơn 1.000 năm nay, mãi là tín ngưỡng chủ yếu của nhân dân Trung Quốc. Trong thời gian đó, Phật giáo trải qua lịch đại hoằng dương đề xướng của Cao Tăng Đại Đức, rất nhiều đế vương, khanh tướng, nhà Nho uyên bác và học rộng cũng đều gia nhập hàng ngũ này, cuối cùng vẫn khiến cho Phật giáo thâm nhập các giai tầng của xã hội. Việc tín ngưỡng Phật giáo đã thâm nhập dân gian “Nhà nhà đều A Di Đà, nhà nào cũng Quan Thế Am”, đúng là sự miêu tả trung thực. Nhưng bộ phận triết học thì kết hợp nhau, dung hợp nhau, dập dềnh nhau với các nhà Nho và đạo Lão, sau đó họ đã được tập hợp vào trong biển lớn nguồn xa, dòng chảy dài của văn hóa Trung Hoa đã hình thành một trong những dòng chính của văn hóa Trung Hoa mà phóng xạ ra tia sáng rực rỡ, chói lọi cho văn hóa Trung Hoa.

Nội dung của văn hóa Trung Quốc thì rộng rãi cực kỳ mà hạng mục cũng rất nhiều. Phàm tất cả thành tích chung của nhân loại từ dã man tiến hóa đến văn minh đều có thể gọi là văn hóa. Do đó, trong đây tôi chỉ muốn nêu ra một mục “Văn học” trong văn hóa để thuyết minh sự du nhập của Phật giáo bằng những lời mà trước đây nhóm ông Lương Khải Siêu, Hồ Thích v.v… có ảnh hưởng và cống hiến cho văn học Trung Quốc.

                        1/ Lương Khải Siêu cho rằng Phật giáo có 5 mục ảnh hưởng đến văn học Trung Quốc:

1)                        Việc mở rộng về thực chất của quốc ngữ: Vì việc phiên dịch của kinh điển Phật, nên ngữ vựng của nước tôi đã được tăng thêm hơn 35.000 chữ.

2)                        Việc thay đổi ngữ pháp và thể văn: Bộ môn chú sớ của phân khoa kinh điển Phật, làm xuất hiện thể văn phân tích của tổ chức lần đầu tại Trung Quốc. Nhưng lời mà Thiền tông trích ra đúng là một cuộc cách mạng lớn của văn học Trung Quốc.

3)                        Sự phát triển thú vị của văn học: Văn học cận đại mà chúng ta thành thạo như tiểu thuyết và ca khúc v.v… đều có liên quan mật thiết với sự phiên dịch của kinh điển Phật. Việc sản sinh ra thơ Tự sự: “Khổng Tước bay về đông nam, Mộc Lan thôi đợi Trường thiên”. Đại khái chính là văn học chịu ảnh hưởng “Phật sở hành tán” của Mã Minh do Đàm Vô Sấm đời Đông Tấn dịch ra. Hơn nữa, kinh điển đại thừa đều dùng làn sóng văn học rất rộng lớn diễn dịch giáo lý thật vi diệu và đã tăng thêm sức tưởng tượng của người Trung Quốc, nó đã đổi mới cách viết chú giải của người Trung Quốc, về sau Tiểu thuyết chương, hồi đời Tống và Nguyên chịu ảnh hưởng của nó không ít.

4)                        Việc truyền nhập ca- vũ- kịch: Người truyền ca-vũ-kịch vào ban đầu của nước tôi__Bạt Đầu (cũng gọi là Bát Đầu), căn cứ vào sự khảo chứng của người ngày nay thì ông Bạt Đầu từ nước Bạt Đậu gần Nam Thiên Trúc truyền đến.

5)                        Việc bắt chước chữ cái: Phật giáo du nhập thì tiếng Phạn cũng cùng vào, Cao Tăng nước tôi bắt chước chữ cái để ứng dụng, mới có sự chế tạo 36 chữ cái của Thủ Ôn đời Đường “Kiến khê quần nghi” v.v…

2/  Hồ Thích thì cho rằng: sự du nhập của Phật giáo có ba ảnh hưởng lớn đối với Trung Quốc:

1)                        Các Đại sư dịch kinh của Phật giáo phiên dịch kinh Phật bằng thể văn bạch thoại giản dị dễ hiểu, nhưng muốn dễ hiều thì không trau chuốt để tạo thành một loại thể văn bạch thoại. Thiền môn chùa Phật đã trở thành nơi trọng yếu phát nguồn văn bạch thoại và thơ bạch thoại.

2)                        Văn học Phật giáo có sức tưởng tượng phong phú nhất, nó có đủ tác dụng giải phóng rất lớn đối với văn học Trung Quốc, vì văn học Trung Quốc thiếu nhiều về sức tưởng tượng. Tác phẩm chủ nghĩa lãng mạn của Trung Quốc giống như các loại Tiểu thuyết “Tây Du ký”v.v… là sản phẩm dưới sự ảnh hưởng của văn học Ấn Độ.

3)                        Văn học Ấn Độ rất chú trọng bố cục và kết cấu của hình thức, như “Kinh Phổ Diệu”, “Phật sở hành tán”, “Phật Bổn hành kinh” v.v… đều là chuyện kể trường thiên vĩ đại; một loại “Kinh Tu Lại” là tác phẩm của thể Tiểu thuyết; “Kinh Duy Ma Cật”, “Tư Ích Phạm Thiên sở vấn kinh” v.v… là tác phẩm bán Tiểu thuyết, bán kịch bản. Việc du nhập của những kinh Phật này đều có sự cống hiến gián tiếp hoặc trực tiếp đối với sự phát triển của đời sau như hát nói trên sân khấu miền nam Trung Quốc, kể chuyện văn nghệ dân gian Trung Quốc, Tiểu thuyết và kịch bản. Hơn nữa, văn tán của kinh Phật cũng dùng lẫn lộn với thể kệ cũng có ảnh hưởng và quan hệ đối với thể tài của văn học về sau của Trung Quốc.

Đúng vậy, chỉ nói một mục “văn học” đã đủ cho chúng ta chép đi chép lại rồi. Tôi sở dĩ  không sợ nảy sinh văn tự dài dòng rườm rà để dẫn thuật văn học, chính là vì mong muốn chúng ta đề xướng và cảnh giác; đồng thời hướng về sự chăm sóc và chú ý Phật giáo càng nhiều. Nhất là sự cống hiến của Phật giáo càng có kết quả đối với văn học Trung Quốc.


2.  Giải thích giản lược về ý nghĩa của Phật:

1/ Phật là gì?

Phật là cách gọi tắt của “Phật Đà”. Nhưng Phật Đà là dịch âm Buddha của tiếng Phạn. Giống như Châu Ca của Mỹ Quốc là gọi tắt của “Châu California”, nhưng California là dịch âm California của tiếng Anh.

2/ Định nghĩa của Phật:

Muốn làm một định nghĩa sau chữ Phật, thật sự không phải là một chuyện dễ.

Nói đơn giản thì Phật chính là “Bậc giác ngộ”, “Một Đấng giác ngộ”.

Có lẽ chúng ta phải hiểu rõ thêm một chút, nên nói Phật là một bậc giác ngộ thấu triệt có đạo lý căn bản về vũ trụ nhân sinh. Còn có một định nghĩa ngắn gọn, vắn tắt được tiếp nhận phổ biến bởi một số người, đó là nói Phật là một bậc tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn. Nghĩa là Phật chính là một bậc chính mình đã giác ngộ rồi, hơn nữa tiến một bước để giúp đỡ người khác cũng được giác ngộ. Nhưng loại nhiệm vụ (giác) của tự giác và (hạnh) của giác tha này đã đồng thời đạt đến cảnh giới viên mãn nhất.

Trong một quyển sách “Đại giác” có một đoạn văn nói ngay tôn chỉ mục đích, nó cũng đúng lúc có thể đưa ra một định nghĩa để nói rõ điều này.

Trong sách Đại học nói: đạo của đại học là ở chỗ làm sáng cái đức sáng, là ở chỗ gần gụi dân, ở chỗ đến với bậc chí thiện.

Ý nghĩa “làm sáng cái đức sáng” chính là “tự giác”, “gần gụi dân” chính là “làm mới người dân”, cũng chính là “Giác tha”, “Đến với bậc chí thiện” chính là “Giác hạnh viên mãn”.

3/ Phật là ai?

Muốn trả lời vấn đề này, chúng ta nên theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp mà đưa vào sự phán đoán.

1) Trước tiên nói theo nghĩa hẹp:

Phật chính là nói về Đức Thích Ca Mâu Ni đản sinh ở Ấn Độ trước đây hơn 2.000 năm (có liên quan sự tích về cuộc đời của Đức Thích Ca Mâu Ni, xin xem “Truyện Phật Thích Ca Mâu Ni” của Pháp sư Tinh Vân viết hoặc “Truyện Thích Ca” của Tiến Sĩ Cao Lạc Tư, Mỹ quốc biên soạn và cư sĩ Trình Huệ Dư dịch thuật).

2)  Kế đến nói theo nghĩa rộng:

Nhà Phật chủ trương tất cả chúng sanh đều có đủ bổn tánh thành Phật, vậy chúng sanh đều có hy vọng tu hành thành Phật (giống như mỏ sắt có thể được nung luyện nhiều thì thành thép). Cho nên Đức Phật không phải là cách gọi được chỉ định riêng của Thích Ca Mâu Ni mà là cách gọi chung của tất cả chúng sanh giữa vũ trụ.

Cũng giống như một từ “Thầy giáo” cũng không hạn định là một người chí thánh tiên sư Khổng Tử, mà nó chỉ ra một cách rộng rãi là tất cả mọi người có thể “truyền đạo, dạy nghề, hóa giải cảm xúc”.

Sau khi đã hiểu rõ định nghĩa của “Phật”, chúng ta có thể hiểu rõ Phật giáo chính là tông giáo nương theo sự giáo hóa hành vi và ngôn ngữ được sáng lập chủ yếu bởi Đức Thích Ca Mâu Ni.

Nói đơn giản: “sự giáo dục của Đức Phật, sự soi sáng của Đức Phật” chính là Phật giáo.

Tất cả đạo lý mà Phật giáo giảng, bình thường chúng ta gọi nó là “Phật học”. Phật học bao gồm 3 tạng, 12 bộ kinh và 84.000 loại phương pháp tu hành. Nó là một môn học vấn vĩ đại, phong phú và tinh thâm.

3)  Phật giáo và Phật học:

Phật học và Phật giáo trên thực tế là hai mặt của một thể, hai mặt này phối hợp bổ sung cho nhau. Phật giáo cần lấy Phật học làm nội dung. Nếu như không có sự ủng hộ và bổ sung của Phật học thì Phật giáo chỉ nặng về hình thức và nghi thức, và nó hoàn toàn giống với một loại tông giáo. Ngược lại, Phật học cần có sự tuyên dương và thực tiễn của Phật giáo. Nếu không như thế thì Phật học sẽ dùng để làm gì? Không chỉ vô ích đối với đời sống nhân loại mà còn không giúp đỡ cho xã hội và nhân quần.

Đức Thích Ca Mâu Ni có thể đưa ví dụ: “Ám chỉ thức ăn không thỏa mãn” và “Như nước mà người uống, lạnh nóng tự biết”. Nghĩa là người đời trước lên án việc vô ích của lời nói suông, còn người đời sau chỉ ra ý nghĩa chân thật và thực chứng “Người biết điều đó, không bằng người vui điều đó”.

Thông thường Phật giáo dùng “Tín, giải, hành, chứng” để làm bốn bước của việc tu hành. (“Giải” chính là phải nghiên cứu Phật học, “Hành” chính là nổ lực thực hành.) Chủ trương hành và giải cũng quan trọng, cũng chính là ý nghĩa hợp nhất của biết và hành.

Về sự quan hệ hữu quan giữa “Phật học và Phật giáo”, xin các bạn hãy xem một bài diễn giảng mà tôi làm thời còn ở đại học___ “Lý luận và thực tiễn của Phật học”, ít nhiều có thể giúp đỡ bạn học hiểu  rõ sự quan trọng của “Tri hành hợp nhất”:

“LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA PHẬT HỌC”

Các Thầy giáo bình phán và các vị bạn học!

Hôm nay tôi rất vinh dự có thể đại biểu cho nhà nghiên cứu văn hóa Đông Phương-Đại học Chính Trị tham gia cuộc thi đua diễn giảng Phật học một lần này “Nhà đuốc huệ”, nó được cử hành bởi các nhà chuyên môn lớn của Bắc bộ. Tôi muốn mượn cơ hội này để nói sơ với các vị bạn học về vấn đề “Lý luận và thực tiễn của Phật học”, tôi rất hoan nghênh sự dạy bảo của quý vị Đại Đức tham dự.

Đầu tiên, chúng tôi bàn về luận lý Phật học. Phàm là người có chút ít nghiên cứu về Phật học đều có thể thừa nhận Phật học có hệ thống tư tưởng chặt chẽ, có phương pháp suy lý tỉ mỉ chu đáo. Quốc Phụ Tôn Trung Sơn đã nói: “Phật học là mẹ của triết học, nghiên cứu Phật học có thể sửa được cái sai của khoa học”. Điều này, cơ bản lý luận của Phật học đã được nói rõ đầy đủ, nó được xây dựng trên nguyên lý khoa học. Ông Lương Khải Siêu cũng cho rằng: “Phật học chính là trí tín, không phải mê tín”. Kiến giải này thật sự giống với lời của Quốc Phụ.

Chúng ta đều biết kinh điển của Phật học có 3 tạng; 12 bộ và cả 84.000 pháp môn, lời nói dẫn đầu trong sách đây có lời viễn vông, có lời nói rõ, có lời nói mí, nói suông, nói thiền, nhưng không ngoài chân đế và tục đế. Đó cũng chính là hai bộ môn lớn: thế gian pháp và xuất thế gian pháp. Từ chỗ thành, trụ, hoại, diệt của giới tự nhiên cho đến việc sanh, lão, bệnh, tử thì hai bộ môn này nói lên hiện tượng cuộc đời cuả nhân loại. Nói ra từ pháp tiểu thừa “Chỉ lo cho thân mình” cho đến pháp đại thừa “Lo cho mình và lo cả thiên hạ”, từ chỗ muôn màu muôn vẻ của thế giới khách quan cho đến vô minh vọng niệm của tâm linh nội tại của chúng ta.

Loại hệ thống lý luận hoàn mỹ này, là loại mà giới tư tưởng xưa nay trong ngoài đều có thể cho là độc nhất vô nhị. Do đó, có kẻ sĩ biết điều này đều nhất trí ca ngợi và hết sức tán thán. Nhưng công việc hoằng pháp lợi đời cũng không buông lơi. Người ta có thể hoằng đạo mà không phải đạo hoằng người; đến như gia nghiệp cũng không phải có thể gánh vác bởi một số người; ngũ giới, thập thiện ở cõi Trời và Người vốn không giữ tốt thì lục độ vạn hạnh của Bồ tát thừa càng không dễ tu. Người ta không phải một bước có thể lên Trời, trong nháy mắt có thể công hiệu mà phải trải qua sự tu trì của ba đại A tăng kỳ kiếp mới có thể viên chứng Phật quả. Có những người nghiên cứu Phật học dừng lại ở giai đoạn nghiên cứu mà không chịu đi thực tiễn, thực chứng; cái sai lệch này là phải sửa chữa cho đúng.

Người ta xem trọng lý luận nhưng không xem nặng thực tiễn thì kết quả đã sản sinh nhiều tệ nạn. Thầy Khâu Nam dạy đại học Chính Trị, trong một quyển sách “Ngôn Hi Ngũ Luận” của ông  đã nói lên được: “Bi kịch của tri thức vỏn vẹn đưa ra một khía cạnh về Bác học nhưng nó bất chấp công phu tiến hành và dốc lòng bố trí, như thế tri thức học Đông – Tây sẽ là một tảng băng lạnh giá thiếu ánh sáng và nhiệt độ”. Chúng ta biết Bác học chính là sự nghiên cứu lý luận nhưng dốc lòng tiến hành chính là công phu thực tiễn. Nếu như về Phật học chúng ta vỏn vẹn chỉ nghiên cứu lý luận phương diện Bác học mà bất chấp công phu thực tiễn và dốc lòng bố trí, thế thì Phật học đã mất đi tinh thần và ý nghĩa của nó, nó sẽ biến thành một tảng tri thức băng giá.

Các vị bạn học, sở dĩ Phật giáo Trung Quốc cận đại suy vi không phấn khởi, đó là do một trong những nguyên nhân chủ yếu xem nặng lý luận mà không xem nặng thực tiễn. Nếu như Phật giáo đã biến thành huyền học trống rỗng có lý luận sâu xa mà không thể ứng dụng đến sự đi lên của cuộc sống nhân loại thì há không phải là lầu các lơ lửng trong không gian, nó khiến người ta không tài nào đoán trước được. Như thế làm sao chúng ta có thể phát sinh tác dụng giáo dục nhân sinh? Lại nữa, chúng ta còn tôn quý gì có được Phật pháp? Đó không phải nỗi bất hạnh của Phật giáo sao?

Các vị đều hiểu được Phật giáo là một loại tông giáo thực chứng, chú trọng công phu thể nghiệm tự ngã, nghĩa là “Như nước người uống, lạnh nóng tự biết” chính là ý nghĩa này. Đồng thời tất cả lý luận đều là sự cần thiết để sản sinh nguồn gốc cho việc học Phật. Nếu không như thế thì việc Đức Phật “Ám chỉ thức ăn không thỏa mãn”, nó không có tác dụng một tí nào. Chúng ta có thể đặt một ví dụ để nói rõ: giả sử bây giờ chúng ta muốn đi đến Cao Hùng, thì lý luận Phật học giống như một tấm bản đồ, nó chỉ cho chúng ta biết phương pháp đến Cao Hùng có thể bằng xe hơi, xe lửa, máy bay, cũng có thể đi bộ hoặc đi xe đạp. Tuy rất nhiều phương tiện và tất cả đầy đủ cả rồi, nhưng có một điểm sự thực là chúng ta không thể được phủ nhận: nếu như chúng ta không di chuyển bước chân tiến lên phương hướng về Cao Hùng thì chúng ta vĩnh viễn sẽ dừng lại ở chỗ cũ, suốt đời cũng không đến được Cao Hùng.

Nói đi nói lại thì Phật giáo là lý luận hợp nhất với thực tiễn và hai thứ này phối hợp bổ sung cho nhau. Nếu như không có lý luận làm cơ sở thì không thể hoạch được tín ngưỡng của quảng đại quần chúng. Cũng vậy, Phật học nếu như không xuyên qua công phu thực tiễn sẽ vĩnh viễn không phát huy được tác dụng và hiệu quả cứu đời, cứu dân; và nó cũng không đạt được mục đích tu hành chứng quả. Vì thế ngày nay chúng ta phải đưa ra khẩu hiệu “Dùng thực tiễn để ấn chứng lý luận, dùng lý luận để giáo dục thực tiễn”: dung hợp lý luận và thực tiễn thành một thể, hai việc không thiên lệch. Chúng ta đã biết phiền não của thế tục là vô tận thì chúng ta phải ra sức hạ quyết tâm diệt trừ nó. Đã biết chúng sanh trong biển khổ là vô biên, biết bao người rên rỉ trong nước sôi lửa bỏng, biết bao người khóc than thảm thiết dưới cơn đói rét đọa đày, thế thì chúng ta phải bắt chước quay con thuyền từ bi trở lại để tìm tinh thần lợi tha của Bồ tát Quan Thế Âm trong tiếng kêu cứu khổ vốn cảm thụ đại tâm đại nguyện thay thế chúng sanh chịu tất cả khổ “Độ hết chúng sanh mới chứng Bồ đề, địa ngục không trống thề không thành Phật”, dầu cho thịt nát xương tan vào nơi nước sôi lửa bỏng cũng không hề tiếc. Chúng ta đã biết Phật là bậc Đại trí, Đại giác; là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì chúng ta không thể sợ khó khăn mà không tiến lên và nhất định phải dũng mãnh tinh tấn hướng về đỉnh núi cao của chân lý mà tiến bước.

Các bạn học, chúng ta biết Phật pháp đại thừa từ trong sự nghiên cứu lý luận Phật học, đó mới là chủ ý của Đức Như Lai. Mục tiêu thực tiễn của chúng ta cũng nên lấy sự tinh tấn của đại thừa làm chỗ nương về. Chúng ta không nên lấy làm thỏa mãn làm một người Hán chính là hiểu rõ tiểu thừa, chúng ta không những phải lo cho thân mình mà còn phải lo cả thiên hạ. Chúng ta hãy đem nghị lực ra quán triệt quyết tâm nỗ lực làm người bậc nhất trong Trời đất, làm việc hạng nhất trong vũ trụ__cũng chính là công việc Thần Thánh của tự lợi lợi tha, tự độ độ người và hoằng pháp lợi sanh.

Sau cùng, tôi đem trách nhiệm “Hoằng dương Phật pháp đại thừa, phục hưng Phật giáo Trung Quốc” khuyến khích chung cho các bạn học và các vị Sư trưởng tham dự!

Muốn hiểu rõ thêm một bước về Phật giáo và Phật học thì xin các bạn học hãy đọc xem một cách chậm rãi, hãy tìm hiểu tỉ mỉ trong các bài tường thuật từ chương thứ hai “Đặc sắc của Phật giáo” và chương thứ ba “Xóa bỏ mấy loại hiểu lầm không cần thiết” cho đến chương thứ tư “Mấy loại đạo lý Phật giáo sơ lược” và chương thứ năm“Khắp nơi tín ngưỡng Phật giáo”.

4) Thần linh được sản sinh như thế nào?

Câu chuyện nói đến thật thú vị, nó được ghi chép trong việc sáng lập thế kỷ theo hạn chế cũ kỹ: Thượng đế sáng tạo nhân loại. Nhưng các nhà Tâm lý học và Học giả của các tông giáo cận đại sau khi nghiên cứu sâu sắc lại nói cho chúng ta biết một đáp án tương phản: Thần là do người sáng tạo ra.

Con người vì sao phải sáng tạo ra Thần? Phân tích một cách vắn tắt thì có thể được đáp án:

Khoa học đời xưa không tiến bộ nên chúng ta không hiểu rõ lắm về thiên nhiên và cảm thấy sợ hãi về thiên tai địa biến của thiên nhiên mà không thể kháng cự. Cho rằng nhất định có một “Thứ” tác quái đang ngấm ngầm, chúng ta gọi đó là “Thần”.

Chúng ta thấy sấm nổ có lằn chớp thường làm tổn thương người và vật, nó gây ra hỏa tai thì cho rằng có “Thần sấm” và “Bà chớp”; Thấy nước lũ tràn ngập với khí thế rào rạt thì cho rẳng có Thần sông (chuyện kể “Hà Bá cưới vợ” chính là loại bi kịch mê tín này).

Căn cứ vào việc khảo chứng của các học giả chuyên gia thì Thần là chuyện bịa đặt vô lý được nhân loại sùng bái rất nhiều, lại có đến ba ức ba ngàn vạn vị Thần, bạn nói gạt người ta chăng?

Nhưng “Thần” nhiều vị này__đại biểu cho sự vô tri và sợ hải của nhân loại đối với thiên nhiên. Lại theo việc mỗi ngày một đổi mới của khoa học, khắp tất cả vị Thần đã hiện ra hình dưới kính chiếu yêu của khoa học, cho nên tất cả vị Thần lại bị nhân loại hoàn toàn hủy bỏ.

Sau khi biết chân tướng của sấm nổ chớp nhoáng thì ai lại có thể tin tưởng Thần sấm? Sau khi hiểu rõ việc nạo vét sông ngòi có thể phòng chống lũ lụt thì Thần sông tự nhiên cũng tiêu vong.

Sự tử vong của các vị Thần này đại biểu cái gì? Đại biểu cho sự tỉnh giác về lý trí của nhân loại. Sau khi nhân loại hiểu được lý trí mà mình vận dụng thì có thể chống lại thiên nhiên và quan niệm “Sức người thắng thiên nhiên” sẽ thâm nhập trong tâm của chúng ta. Hơn nữa, con người cũng không cần van vái phủ phục Thần một cách đáng thương thay và cũng không cần dua nịnh ca ngợi Thần.

Nhưng hôm nay trong chúng ta có một số người vì sao vẫn nhận định một cách cố chấp là có một Chúa tể tạo vật toàn tri toàn năng? Giải đáp của vấn đề này rất dễ hiểu. Vì nhân loại không hiểu rõ sự bí hiểm  của đời người và vũ trụ - con người đến từ chỗ nào? Đi về chỗ nào? Thế giới được sinh thành như thế nào? Do sở tri có giới hạn nên chưa có thể hiểu nó, cho nên con người sáng tạo ra một vị “Thần” vô căn cứ và đã giải đáp những nghi vấn này một cách không phí sức chút nào.

Người mà tin tưởng Thần sáng tạo vạn vật lại không thử nghĩ xem Thượng đế từ đâu mà đến? Nếu như Thượng đế có thể chính mình tồn tại, thế thì nhân loại sao lại mời Thần ra giải đáp khởi nguồn của vũ trụ? Nghĩa là nói: Thần có thể tự mình tồn tại và vạn vật cũng có thể tự mình tồn tại.

Thần là nhân loại vì không hiểu rõ cứu cánh của vũ trụ nhân sinh nên cái ảo tưởng mà Thần sản sinh thì có một ngày khoa học của nhân loại  tiến bộ hơn và lý trí của nhân loại càng rõ ràng thì chúng ta sẽ vứt bỏ Thần một cách không mảy may lưu luyến__giống như trước đây nhân loại đã vứt bỏ Thần sông, Thần sấm, Thần cây, Thần Táo, Thần đá, Thần đũa, Thần chén. . . .

Bạn biết không? Thần là cái trừu tượng, Thần không thể đoán trước được. Thần trên thực thể vốn là cầu không được, vì nhân loại trong lúc dùng hình tướng của mình mà tạo Thần thì Thần mà nhân loại tạo cũng không phải Thần thực thể (cũng không có cách để tạo). Thần mà chúng ta tạo là Thần trong tâm, Thần quán niệm mà thôi.

Nói ra cũng rất đáng thương, lúc nhân loại một mặt ca ngợi, lễ vái Thần từ bi, một mặt khác trong tâm lại vẫn mang nỗi sợ hãi và trống rỗng vô hạn.

Chú thích: xin tham khảo một bài văn thứ 8 “Lý tín và mê tín” trang 11 của “Thái Nguyên Bồi toàn tập”.

VII  CHƯƠNG THỨ BẢY:

               Như thế nào để làm một đệ tử Phật giáo:

 Đọc xong quyển sách này, có lẽ có những bạn học đã sản sinh thiện cảm đối với Phật giáo và hy vọng có thể làm một đệ tử Phật giáo. Nhưng trong lòng khó tránh điểm nghi hoặc có thể có: Làm sao mới được coi là đệ tử Phật giáo?

Làm đệ tử Phật giáo phải như thế nào? Tôi nghĩ việc giải đáp của vấn đề này không cần nói vòng vo, có thể tóm tắt phân thành ba điểm để bàn bạc:

1.  Phải hiểu rõ Phật giáo và nghiên cứu Phật học:

Chúng ta nếu làm một việc gì, không làm thì thôi, nếu làm thì phải làm cho viên mãn thành công.

Việc mong muốn tín ngưỡng tông giáo cũng vậy. Trước tiên phải hiểu rõ giáo lý của tông giáo này. Phải chăng việc yêu cầu của nhân loại có thể được thỏa mãn thì sự giải thích của yêu cầu đó đối với vấn đề vũ trụ nhân sinh mới là triệt để? Có thể khiến cho lòng người được vui vẻ và kính phục? Hay là không thể? Cho nên muốn làm đệ tử Phật giáo, nhất định trước tiên phải hiểu rõ Phật giáo và nghiên cứu Phật học. Như thế mới có thể căn cứ theo tín ngưỡng của lý trí, mới không khiến cho việc giải thích đó biến thành sự tín ngưỡng mù quáng, như người ta nói sao thì lặp lại như vậy và tự lừa dối người.

Ví như nói đã hiểu rõ Phật giáo là không sát sinh, thế thì giết lợn giết vịt để cúng bái thì đã chống lại tinh thần của Phật giáo. Hơn nữa một loạt Thần được gọi là “Thần minh”__như Mã Tổ, Thành Hoàng, ông Thổ Địa, vua Thiên Tuế, Nương Nương chú sanh v. v. . . .Nhìn theo nhãn quang của Phật giáo thì họ cũng vẫn chưa có được giác ngộ và giải thoát chân chính triệt để. Cho nên, Phật giáo không bái những Thần minh này (nhưng cũng không hủy báng, xem nhẹ họ). Mục đích lễ bái của Phật và Bồ tát của Phật giáo chính là muốn đem Phật và Bồ tát làm gương mẫu và khuyến khích tự mình phải làm được bước đường giác ngộ chân chính giống như Phật và Bồ tát.

Việc Phật giáo tôn kính và sùng bái, không phải vì danh khí của “Thần” nào có tiếng tăm mới bái mà là được chọn lọc bằng tiêu chuẩn triệt để giác ngộ hay không triệt để.

Nói ví dụ: lúc chúng ta đọc sách nếu có nghi vấn thì nhất định phải tìm một Thầy giáo có học vấn tốt để hỏi, dứt khoát không thể tùy tiện mơ hồ tìm một người hiểu biết lưng chừng ở giữa đường mà giải đáp. Vì một người mà biết lưng chừng thì không thể cho bạn sự phúc đáp chính xác.

2.  Phải có bi tâm thệ nguyện rộng lớn:

Làm một đệ tử của Phật giáo, ngoài việc cần có đủ phẩm đức cao thượng, học thức phong phú, thân thể khỏe mạnh, còn phải có thêm “Bi tâm thệ nguyện rộng lớn”.

Tăng Tử nói: “Kẻ sĩ  không thể không dứt khoát cang cường, gánh nặng đường xa. Người ta cho rằng mình gánh, không phải là nặng sao? Không đạt tới mà ở sau mình, không phải là xa sao?”

Nhưng làm công việc của một đệ tử Phật giáo “Tự giác giác tha”, “Tự lợi lợi tha” (cũng chính là nhiệm vụ phổ độ chúng sanh) là trách nhiệm của mình. Đức Phật không thể xa lìa nhân gian, địa ngục mà hưởng phước. Ngài là một thể với chúng sanh mà không thể phân biệt. Ngài là “Lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ” và lấy “Thiên hạ làm trách nhiệm của mình”.

Câu nói của người xưa: “Người đói mình đói”, “Người yếu mình yếu” chính là sự miêu tả từ bi của đệ tử Phật giáo. Vì thế làm đệ tử Phật giáo trước tiên phải ôm ấp bi tâm phục vụ xã hội, cứu người, cứu đời; chúng ta vì để đạt được mục đích hoằng dương Phật pháp, phổ độ chúng sanh mà đi vào nước sôi lửa bỏng và hy sinh mạng sống không hề tiếc.

Nhưng làm một đệ tử Phật giáo cần phải lập ra bốn thệ nguyện:

1)                        Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ (địa ngục không trống thề không thành Phật).

2)                        Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn (dùng kiếm trí tuệ chặt đứt rễ phiền não).

3)                        Pháp môn vô lượng thệ nguyện học (học tập tri thức và kỹ năng cứu người cứu đời).

4)                        Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành (nhắm về nhân cách học tập mà tiến bước một cách hoàn toàn tốt đẹp và vĩ  đại nhất).

Người có thể đạt được bốn mục tiêu này thì không chỉ có thể lo cho thân mình mà còn có thể lo cả cho thiên hạ. Đó chính là hoàn cảnh lý tưởng của đệ tử Phật giáo.

3.  Thọ Tam quy y:

Vì sao gọi là Tam quy y? Chính là dùng “Phật, Pháp, Tăng” làm quy tắc lập thân xử thế cho chúng ta.

“Phật” là bậc có đủ những kiến giải chính xác và thấu triệt đại giác đại ngộ. Ngài là đạo sư vĩ đại, từ bi nhất của nhân loại chúng ta. Cho nên chúng ta phải học tập theo Ngài.

“Pháp” là đạo lý mà Phật giác ngộ, là một ngọn đèn pha soi đường chỉ lối bất diệt, nó có thể dẫn dắt bước đi của chúng ta hướng về niềm vui và hạnh phúc. Cho nên chúng ta phải nghiên cứu sâu sắc đạo lý.

“Tăng” là người xuất gia có giới luật nghiêm thủ. Họ vứt bỏ phú quý của nhân gian, hoằng dương Phật pháp, phổ độ chúng sanh; là Thầy giáo chăm sóc thân cận nhất trong sinh hoạt của chúng ta. Chúng ta phải xin họ chỉ bảo.

“Tam quy y” có hai loại hình thức:

1)                  Tham gia các nghi thức tông giáo của chùa Phật và giảng đường, quyết định dùng “Phật, Pháp, Tăng” chính thức ở trước Phật để làm quy tắc lập thân xử thế. Như thế chính là một đệ tử Phật giáo (giống như “Lễ rửa tội” của Thiên chúa giáo).

2)                  Tự mình lặng lẽ dùng “Phật, Pháp, Tăng” làm quy tắc lập thân xử thế cho mình. Loại người này tuy không có tham gia nghi thức tông giáo của “Quy y”, nhưng họ đương nhiên cũng là đệ tử Phật giáo.

Đã làm đệ tử Phật giáo thì không nhất định phải trải qua nghi thức tông giáo “Tam quy y”. Vì sao đệ tử Phật giáo bây giờ vẫn phải hành lễ “Tam quy y”? Mọi người đều biết đạo lý “Đoàn kết chính là lực lượng”? Mục đích chủ yếu của Tam quy y chính là phải đoàn kết các đệ tử Phật giáo, khiến mọi người cùng phục vụ cho xã hội, tạo phước cho nhân quần dưới sự tín ngưỡng đồng nhất. Đồng thời cũng có ý nghĩa ở bên trong tự gắng sức “Lập chí”, khiến mình cảnh giác mình: từ nay về sau mình đã là đệ tử Phật giáo “Các loại cảm giác từ trước như bị mất đi, các loại cuộc sống về sau như được sinh trưởng”. Chúng ta nhất định phải làm mới tập quán xấu, hành vi xấu của chính mình ngày xưa, đem hết thảy lời dạy bảo của Đức Phật làm chỗ nương về: thương quốc gia, thương dân tộc, thương xã hội, thương họ hàng, thương bạn bè, thương cha mẹ, thương con cái, thương chồng, thương vợ mà nỗ lực thực tiễn lời giáo huấn của Đức Phật và tự mình hoàn thành nhân cách vĩ đại cao thượng__việc hoàn thành nhân cách chính là Phật rồi.

Nói tổng hợp phần trên: chúng ta muốn làm đệ tử Phật giáo, muốn nỗ lực thực tiễn lời giáo huấn của Đức Phật và để đạt được mục tiêu thành Phật thì con đường tu hành là như thế này:

 

 

           

Nói bằng lời vắn tắt như đây:

Tôi đã là đệ tử Phật giáo, sau khi đã tín ngưỡng Phật giáo (tín) thì phải nỗ lực học hỏi Phật học và hiểu rõ giáo lý của Đức Phật (giải), sau khi biết chân lý của Đức Phật, vẫn phải đi vào thực tiễn bằng cách bước lên một bước tu hành theo lời dạy bảo của Đức Phật (hành), tinh tấn không giải đãi như thế mới quán triệt đầu đuôi, sau cùng nhất định có thể có được niềm vui Niết Bàn (Niết Bàn chính là không có nghi hoặc, phiền não và vượt qua được ý nghĩa của sanh tử) đích thân tự chứng minh tất cả đạo lý mà Đức Phật nói__chúng sanh đều là Phật vị lai, cuối cùng có một ngày chúng sanh cũng sẽ thành Phật (chứng).
 

Lời cuối sách

Đặc sắc và tinh thần của Phật giáo” lại có thể xuất bản thuận lợi, ngay cả chính tôi cũng khó tránh việc cảm thấy kinh ngạc.
Do vì bận rộn công việc dạy học khiến tôi rất ít có thời gian đặt bút sáng tác, vì thế tôi thường ngưng viết. Có lúc tôi viết một đoạn ở trường, về đến nhà lại viết mấy hàng nên quyển sách này không thể trôi chảy liên tục, thiếu tổ chức và mạch lạc, nguyên nhân chính là ở đây.
Chẳng nói giấu gì các vị, nhiều lần tôi quả thực muốn gác bút bãi bỏ, nguyên nhân mà tôi do dự là có năm điều:

(1)  Phật học rộng lớn vô hạn, nghĩa lý thâm sâu, những điều mình biết mình học thì có giới hạn, làm sao có thể đảm đang mục tiêu trọng trách này__Giới thiệu Phật giáo cho các bạn thanh niên? Tôi sợ vai trò đóng vai của tôi không thể thoái mái như ý muốn.

(2) Quyển sách đã là mục tiêu cho các bạn thanh niên, thế thì nội dung cần có ý tứ sâu sắc, lời lẽ dễ hiểu, việc dùng tự vựng thuật ngữ không thể vượt ra ngoài lý giải của bạn học.

Một điểm này khiến tôi bỏ nhiều công sức, nêu ví dụ để nói vậy: nói đến “Niết Bàn”, “Phật tánh”, tôi hết sức dùng riêng một chữ để thay thế, hoặc thêm vào một đoạn văn tự để giải thích. Tôi biết rõ đây chỉ là nói vòng quanh thì các vị cũng không có thâm nhập sự chuyên chú thâm thúy vào trong tâm. Nhưng tôi nghĩ, các vị sẽ mù tịt không biết gì với sự chuyển nhượng của đoạn văn và không có hứng thú xem nữa, nên không bằng tạm thời tôi khiến cho các bạn học có khái niệm giản đơn, xây dựng được cơ sở cho bạn học để tương lai nghiên cứu học hỏi sâu sắc. Điều này mãi là điều tốt.

Những việc của thiên ha có lợi thì cũng có hại, tôi sợ vì thế làm mất đi tinh thần của Phật pháp, mất đi ý nghĩa hoàn hảo và chân thật của nó. Giống như tôi chìa ngón tay trỏ ra và chỉ mặt trăng nói: “Mọi người nhìn xem”! thế thì bạn học thông minh và có trí tuệ hiểu được cái mà tôi muốn họ xem là mặt trăng. Nhưng số ít bạn học thiếu tánh ngộ và huệ căn, họ lại dừng ánh mắt ở trên ngón tay trỏ. Điều này không phải “Sai một ly, đi một dặm”sao?

(3) Việc chọn lọc nội dung thiếu tiêu chuẩn khách quan:

Điều nói đến là “Thuốc, không có sang hèn, hiệu nghiệm là thuốc tốt. Pháp, không có cao thấp, đáp ứng cơ duyên thì pháp thích nghi”. Một loại đạo lý của Phật pháp đó, mới là loại mà các bạn học cần nhất? Loại này rất khó vội vàng quyết định.

Phật pháp là một môn học vấn có hệ thống rõ ràng và được tổ chức nghiêm mật, thật là một con đường dẫm từng bước tiến dần theo trình tự, chúng ta có thể tu hành chứng quả. Cái gọi là “Rút dây động rừng” vì sự quan hệ qua lại với nhau của Phật pháp rất chặt chẽ: nói Tứ đế thì không thể không nói 12 nhân duyên, nói 12 nhân duyên thì không thể không nói Lục độ vạn hạnh, lại nói về vũ trụ quan của Phật giáo thì không thể không nói nhân sinh quan. Như thế đến nay, môn học Phật pháp chính là được sáng tác 100 năm và 36.000 ngày mà cũng không có cách nào trình bày rõ ràng cho quý vị.

Do đó, quyển sách này đã bị bỏ sót rất nhiều  điều trọng yếu về giáo lý của Đức Phật, mà chỉ nói ít ỏi về các loại ngũ giới, thập thiện, Tứ đế, 12 nhân duyên, lục độ, vạn hạnh (tức là bốn loại thệ nguyện của đệ tử Phật) đó không thể nói là một nuối tiếc lớn. Nhưng tôi đã nói qua: quyển sách đây chỉ là khiến cho các bạn học nỗ lực nghiên cứu để tiến một bước cho Phật giáo bằng cách nương vào chính mình, thậm chí đi sâu vào biển lớn của Phật pháp, chìm ngấm trong pháp lạc của trí tuệ vì “Người biết không bằng người giỏi, người giỏi không bằng người vui”.

 Hy vọng về sau có cơ hội, tôi có thể sẽ sáng tác ra một quyển sách hoàn toàn thấu triệt hơn, phong phú dồi dào hơn những gì mà quyển sách bị bỏ sót không nói đến, hoặc những gì không đủ sâu sắc tỉ mỉ để phục vụ bạn học có nhiệt tâm nghiên cứu Phật học, có thành ý hiểu rõ Phật giáo.

(4) Phí tổn xuất bản không phải là một gạch con số lẻ. Nói về một Thầy giáo có giai cấp tiền lương thì họ luôn có cảm giác không chịu đựng nỗi. Huống gì đây là một quyển sách “Nghiêm túc” từ lâu trong hệ dự bị thường khiến người ta thấy nguy mà vội lùi vì không thể được hoan nghinh giống như văn nghệ ái tình, trinh thám võ hiệp thế kia.

(5) Nói về đặc sắc và tinh thần của Phật giáo thì phải có chỗ so sánh với tông giáo khác. Một con hạc chân dài không ở trong đàn gà, làm sao hiện ra tinh thần độc lập tuyệt vời của “Hạc đứng trong đàn gà”? Nhưng một học sinh có thành tích thi 80 điểm, nếu như không hơn nhau về thành tích “Màu đỏ nổi bật” với cả lớp thì làm sao sự hoan nghinh được hiện rõ rằng: làm được việc khó của người đó thật là đáng quý?

Nhưng tôi sợ giáo nghĩa của tông giáo khác vô tình dẫn thuật sẽ sinh ra hiểu lầm không cần thiết mang đến cho mình sự tranh luận và công kích không cần thiết. Đó là đã mất đi tinh thần bình đẳng, thật thà mộc mạc và bao dung của Phật pháp.

Vì thế tác giả chỉ nhắm vào đệ tử của tông giáo khác thành kính trong đây mà chân thành xin lỗi. Việc dẫn thuật của tôi hoàn toàn không ác ý và cố tình xuyên tạc. Đứng dưới tiền đề tham khảo chân lý, khiến tôi trước tiên phải lôi ra cho được chỗ “giả thiết” từ trong “Thánh kinh” và “Thần linh” và điều loại bỏ đầu tiên là “Thần quyền”, “Thần thoại” rồi sau đó tôi mới có thể nghiên cứu tham khảo bổn lai diện mục của vũ trụ nhân sinh một cách khách quan. Không phải chăng? Nicolas Copernicus (1473-1543) nếu như đã tin tưởng hoàn toàn Thánh kinh, không hoài nghi về lời của Thần thì “Thiên thể vận hành luận” bất hủ đó của ông có thể sản sinh không? Tuy làm thế này khiến ông bị giáo hội nghiến răng tức giận lúc đó, nhưng vì việc phát hiện của ông đã đi ngược lại Thần thoại sáng tạo thế giới của Thượng đế nên luận của ông đã phá hoại chủ trương “Địa cầu là trung tâm của vũ trụ và Thái dương đi xung quanh Địa cầu”. (Hãy xem quyển thứ tư sách học Quốc văn Trung Quốc, chú giải trang 70) cũng giống như “Luận tiến hóa” của Đạt Nhĩ Văn: coi Hạ Giai và Á Đang trong Thánh kinh là Thần thoại về thủy Tổ của nhân loại và đã bị lật đổ hoàn toàn. Vì vậy nghiên cứu chân lý nhất định phải xem “Phật”, “Thần” và “Nhà khoa học” như là người bình thường. Xem “Kinh Phật”, “Thánh kinh”, “Định lý, định luật” như là giả thiết mãi hoài nghi thì sau đó mới có thể tìm ra sự thật chân chính khách quan vậy.

“Định luật vật chất bất diệt” và “Định luật năng lực bất diệt” của Albert Einstein không phải đã bị lật đổ sao? (chính là “luật vật chất có thể biến hóa nhau”,ông nổi tiếng đã phá tan luật cũ có quan niệm “không gian ba chiều”? (ông đề xuất không gian: ngoài chiều dài, chiều rộng, chiều cao còn có thêm thời gian). Ông lại còn sửa đổi định luật vận động của Newton nhà khoa học, là nhà mà Thần Thánh tuyệt đối không thể xâm phạm được (giống như Thần linh thì không dễ bị hoài nghi, bị nghiên cứu). Thế thì khoa học chỉ là dễ đình trệ bất động, vĩnh viễn cũng không thể tiến bộ nữa.

Đúng rồi, điều này đã được nói rất nhiều mà có người vẫn không thông cảm tôi. Họ còn nói: “Phật giáo của các bạn không phải nói về sự bao dung, nhẫn nại sao? Việc gì phải áy náy băn khoăn với tông giáo khác?” Đúng rồi, Phật giáo ngoại trừ một sự việc ra, Phật giáo chính là bao dung nhẫn nại. Việc gì nào? Đó chính là không cẩu thả, không phóng túng, không nhượng bộ về chân lý.

Chính Đức Phật đích thân nói cho chúng ta biết: không thể vì hình như có một sự vật nào đó mà có thể tin cho rằng thật, không thể cho rằng kinh điển của tông giáo là chân lý tuyệt đối, càng không thể vì đối phương là Thầy của mình mà bạn hoàn toàn tin sâu lời của Thầy giảng. Đức Phật khuyến khích các đệ tử phải ấp ủ thái độ tìm hiểu hoài nghi. Vì tất cả giác ngộ và nhận thức đúng đắn, chính là phải xuyên qua sự hoài nghi để nổ lực tìm cầu, thì giác ngộ và nhận thức đúng đắn mới có thể có được. Chứng cứ “tin tưởng”, “tín ngưỡng” chỉ có thể khiến người ta lừa dối mình “tự cho rằng mình được rồi”, “hình như rất hiểu rồi”, “tin” mà không đi nghiên cứu, thực hành thì không thể hoạch được hiểu biết chính xác. Nhưng Đức Phật khuyên phạm vi và đối tượng mà con người hoài nghi thì bao gồm hết thảy kinh điển Đức Phật giảng và bản thân của chính Ngài.

Phật giáo chính là tông giáo tự do, dân chủ, khoa học. Cho nên tôi đã quen đi về cách nhìn dưới ánh mắt “hoàn toàn tin tưởng” ở đệ tử của tông giáo lạ nào đó đối với việc dẫn thuật, so sánh giáo nghĩa của tông giáo khác thì có thể không dễ tiếp nhận lắm. Cho nên tôi soạn sách đây để một phen dãy thích.

Tôi phải hết sức cám ơn hai vị giáo viên Quách Cang và Thái Lễ Thông, họ có vấn đề liên quan về sinh vật, hóa học, vật lý của quyển sách, đã đem lại cho tôi sự chỉ đạo có tình cảm nồng nàn. Tôi lại phải cảm ơn hai vị Sư Phụ Nguyệt Cơ và Khai Chứng, họ đã cung cấp rất nhiều ý kiến quý báu cho quyển sách và đã bổ sung nội dung của quyển sách. Còn có cư sĩ  Khương Hoành Hiệu, cữu phụ Trần Nhân Hòa và Thầy giáo Bào Quốc Đống cũng là dốc lòng, dốc sức cho việc xuất bản quyển sách, tôi cũng phải cảm ơn họ.

Việc tôi phải vừa mới đề bạt ở đây là: Rất nhiều giáo viên trong trường học, họ có người còn chưa may mắn nhận thức về Phật pháp. Có người thậm chí tín ngưỡng tông giáo khác, nhưng nghe được quyển sách liền đem xuất bản và cũng hân hoan xuất tiền hỗ trợ ấn tống. Việc hành thiện quý báu của họ được nói lên bằng cách chúng ta dẫn lời trong kinh Phật, họ đúng là: “Nên biết có người gieo trồng thiện căn không chỉ ở một Đức Phật, hai Đức Phật, ba Đức Phật, bốn, năm Đức Phật mà đã gieo các thiện căn ở vô lượng ngàn vạn Đức Phật. Cho nên họ được vô lượng công đức như thế”. Hạt Bồ đề mà ngày nay họ gieo xuống thì nụ hoa Bát nhã (trí tuệ) có một ngày rồi sẽ nứt ra kết thành quả Bát nhã.

Sau cùng, tôi cũng muốn cầu chúc cho các bạn, mỗi người đã đọc quyển sách, hy vọng quyển sách có thể phá mở được sự mù mịt về nhân sinh, có thể chỉ dẫn cho bạn về sự dùng dằng của sinh mệnh, giải đáp cho bạn về vấn đề chân tướng của vũ trụ. Nhưng tôi cầu nguyện cho mỗi người đều có thể thắp lên ngọn đèn tâm của tự giác để hưởng thụ đời sống có hạnh phục và niềm vui. Đồng thời một ngọn đèn sẽ thắp sáng thêm một ngọn đèn mà còn chỉ dẫn thêm cho bạn học ngập ngừng lạc lối, làm vỡ vạc nghi hoặc của họ, khiến cho ánh đuốc trí tuệ đem sự sáng sủa vĩnh hằng của nó đến cho vũ trụ tối tăm.

                                                         TỪ TIỆP chắp tay

 Ngày 25 tháng 5 Phật lịch 2515.

  http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/dacsac_phatgiao.htm

 


Vào mạng: 8-7-2008

Trở về mục "Đức Phật và Phật pháp"

Đầu trang