Trang tiếng Anh

Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt   

   

...... ... ..  . ..  .  .
HƯƠNG HẢI THIỀN SƯ VÀ CHÙA NGUYỆT ĐƯỜNG
Lê Quang Chắn[*]

          Thiền sư Hương Hải (1628 - 1714) không chỉ là một trong những người đi đầu trong công cuộc phục hưng thiền phái Trúc Lâm, mà còn là người thiết kế và mở mang cho trang nghiêm, đồ sộ ngôi chùa Nguyệt Đường (ngày nay thuộc khuôn viên Văn miếu Xích Đằng, thị xã Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên).

1 - Hương Hải thiền sư: Tiểu sử và sự nghiệp

          Hương Hải thiền sư thuộc dòng dõi thế phiệt, sinh ra và lớn lên ở làng Bình An Thượng, phủ Thăng Bình, còn tổ tiên ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc (sau đổi thành Chân Lộc, rồi Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An). Ngay từ nhỏ, ông đã là người rất thông minh, 18 tuổi đỗ Hương tiến (cử nhân), được bổ làm văn chức trong phủ chúa, đời chúa Thượng - Nguyễn Phúc Lan (1635 - 1648). 25 tuổi (1652), ông được bổ làm Tri phủ phủ Triệu Phong (nay là Quảng Trị). Từ đây, Hương Hải càng hâm mộ Phật pháp hơn, nên tìm và học đạo với thiền sư Viên Cảnh ở Lục Hồ, được đặt pháp danh là Huyền Cơ Thiện Giác, pháp tự là Minh Châu Hương Hải. Về sau, Ngài tìm đến thiền sư Đại Thâm Viên Khoan để tham học.

          Làm quan được 3 năm, ông từ quan xuất gia. Hương Hải đã cùng một số đồ đệ dùng thuyền ra biển Nam Hải, trụ trên núi Tim Bát La, cất am (ba gian) tu hành. 8 tháng sau, ông lại chuyển sang cù lao Đại Lãnh, thuộc vùng biển Ngọc Long tu hành. Ở đây, sư đã đã chuyên tu thiền định, giới luật tinh thông, nhân dân cùng quan trưởng xa gần đều quý kính, tiếng tăm vang dội. Tiếng lành đồn xa, chúa Hiền - Nguyễn Phúc Tần (1648 - 1687) đã cho sứ ra đảo thỉnh sư về dinh phủ ở Phú Xuân. Chúa Hiền lập Thiền Tịnh viện ở núi Quy Kính, cho sư Hương Hải trụ trì. Được một thời gian, số người đến quy y cửa Phật rất đông, và Thiền Tịnh viện trở thành một trung tâm Phật giáo nổi tiếng ở Đàng Trong, nhưng chỉ vì có sự hiểu lầm, chúa Nguyễn đã chuyển sư về Quảng Nam.

          Trước tình hình như vậy, Hương Hải thiền sư quyết định ra hoằng dương Phật pháp tại xứ Đàng Ngoài. Tháng 3 năm Nhâm Tuất (1682), sư cùng với 50 đệ tử dùng thuyền vượt biển ra Đàng Ngoài. Ra đến Nghệ An, Trịnh Tạc (1657 - 1682), cũng là người rất hâm mộ Ngài, nên cho người đem thuyền rước sư cùng đệ tử ra Đông Đô (Thăng Long). Về kinh, biết ông là người uyên thâm Phật pháp, đã phong sư làm Vụ sứ, thưởng 300 quan tiền, mỗi năm cấp 24 bồ thóc, 36 quan tiền và 1 xấp vải trắng. Tháng 8 năm 1685, chúa Trịnh sai người đưa sư lên trấn Sơn Tây, được 8 tháng sau (1686), Trịnh Căn (1682 - 1709) lại đưa sư về ngự ở trấn Sơn Nam, và ra lệnh cho Trấn thủ Sơn Nam là Lê Đình Kiên cất am và cấp cho sư 3 mẫu công thổ để tu hành. Tại đây, Hương Hải thiền sư đã nghiêm trị giới luật, tu hành tịnh tiến, ngoài ra còn dịch giải kinh ra chữ Nôm...

          Năm Canh Thìn (1700), thiền sư Hương Hải rời chùa trấn thủ Sơn Nam về mở đạo tràng ở chùa Nguyệt Đường (tổng An Tảo, huyện Kim Động, phủ Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên), có hơn 70 đệ tử theo học, tất cả đều tinh thông kinh luật. Ngài đã cho trùng tu chùa Nguyệt Đường rộng lớn và trang nghiêm hơn. Và cũng chính tại đây, thiền sư Hương Hải đã giáo hóa chúng sinh, phát triển đạo pháp và làm phục hưng thiền phái Trúc Lâm.

          Tháng 6 năm Giáp Ngọ, niên hiệu Vĩnh Thịnh Thứ 10 (1714), chúa Trịnh Cương (1709 - 1729) nhân dịp đi kinh lý qua, có ghé thăm chùa Nguyệt Đường, đã cúng 100 quan tiền và ngự đề bài thơ:

Danh lam từng trải đã hay danh

Trình độ này âu hợp chốn trình

Pháp giới chăm chăm tuyên diệu pháp

Kinh lâu rờ rờ diễn chân kinh

Công nhiều nhà có công vô lượng

Thế thuận vây lên thế hữu tình

Ngán tục chẳng hề mùi tục lụy

Lòng thiền tu cẩn chốn thiền quynh.

          Đến sáng ngày 13 tháng 5 năm Ất Mùi (1715), niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 11, đời Lê Dụ Tông (1705 - 1719), sau khi tắm rửa, thiền sư Hương Hải khoác y, đội mũ, đeo tràng hạt, ngồi kiết già an nhiên mà tịch, thọ 88 tuổi. Thiền sư Phương trượng đã xây ngôi tháp ba tầng để thờ ông (dấu tích vẫn còn đến ngày nay).

Hương Hải thiền sư để lại nhiều tác phẩm có giá trị, như: Giải Pháp Hoa kinh (1 quyển), giải Kim Cang kinh lý nghĩa (2 đạo), giải Sa di giới luật, giải Phật tổ tam kinh (3 quyển), giải Di Đà kinh (1 quyển), giải Vô Lượng thọ kinh (1 quyển), soạn Quán vô lượng thọ kinh quốc ngữ, soạn Cúng Phật tam khoa cát, soạn Cúng Cửu phẩm nhất khoa...

          Như vậy, trong lúc thiền sư Chân Nguyên (1647 - 1726) đang chủ trì đạo tràng ở Long Động và Quỳnh Lâm thì tại lưu vực sông Xích Đằng (tỉnh Hưng Yên), thiền sư Hương Hải (1628 - 1715) cũng đang chủ trì một đạo tràng lớn, đó là đạo tràng của chùa Nguyệt Đường. Chính thiền sư Chân Nguyên và thiền sư Hương Hải là “hai người đi đầu trong công cuộc phục hưng phái thiền Trúc Lâm”.

          2 - Chùa Nguyệt Đường

Nguyệt Đường đã từng là một ngôi chùa lớn, có quy mô bề thế và trang nghiêm, từng là một danh lam nổi tiếng của trấn Sơn Nam xưa. Theo những tư liệu liên quan, nhất là cuốn Hương Hải thiền sư ngữ lục giảng giải, thì chùa Nguyệt Đường được mô tả như sau:

Khoảng cuối năm Canh Thìn, niên hiệu Chính Hòa thứ 21 (1700), sư Hương Hải sang ở chùa Nguyệt Đường. Tại đây, sư đã gặp bà Thị nội cung tần Nguyễn Thị Ngọc Hân (người đã từng đến thỉnh cầu tại chùa này) và bàn về việc trùng tu, mở mang cho chùa. Đức Bà nội cung đã thưa với chúa, cúng 3 dật bạc (60 lạng), lại khuyên quan Trấn thủ, tước Quận công (tức Trấn thủ Sơn Nam Lê Đình Kiên), hỷ cúng mười quan tiền. Từ đó, sư trụ trì chùa Nguyệt Đường là Hương Hải thiền sư đã ngày đêm nhóm họp, thiền đồ xa gần tựu về. Hàng pháp tử xuất gia thọ giáo, trường trai tu hành, tinh thông kinh luật thuộc hàng chữ “Chân” khoảng bảy mươi người, hàng cư sĩ thuộc chữ “Chân” thì rất nhiều, còn hàng cư sĩ thuộc chữ “Như” số không kể hết. Và cũng từ đây, sư xây dựng lại thượng điện, gồm ba gian hai chái rất khang trang. Bên trong có chín pho tượng Tam Thế Phật toàn bằng vàng, mười hai tượng Tứ thánh, bốn tòa Tứ đại Thiên vương, mỗi tòa ba tượng bằng gỗ phết sơn, hai tượng Thiên Chủ bằng gỗ. Sư lại cất hai ngôi tiền đường, mỗi ngôi năm gian; bên trái có tượng Địa Tạng bằng gỗ, bên phải có tượng Di Lặc bằng đồng, lại có một tượng Tề Thiên Đại Thánh bằng gỗ; hai bên trái và phía phải bên ngoài có hai tượng Hộ pháp bằng gỗ. Lại cất hai ngôi Hậu đường, mỗi ngôi năm gian, bên trong có tượng Mười tám vị La Hán bằng gỗ phết sơn, giữa có tượng Phật Mẫu Chuẩn đề ba mắt, mười tám tay bằng gỗ, hai tượng Thánh Tăng và Thổ Địa, sáu tượng Lục Phủ Thần Vương bằng gỗ phết sơn năm màu; hai dãy nhà hai bên bằng ngói xếp chồng đồ sộ, mỗi bên chín gian. Phía trước dãy bên trái có hai ngôi Nghi đàn Dược sư, bên trong giữa nóc nhà có cửa thông gió (Thiên tỉnh), ngoài chạy bát vận, trên treo ba ngàn vị hóa Phật hình dáng người Ấn, giữa có tượng bảy Đức Phật bằng đồng, hai hàng mười vị Đại Bồ tát, mười hai vị Dược Xoa, mỗi tượng đều bằng đồng thân tướng đoan nghiêm.

Phía trước bên phải có ba đài Cửu Phẩm Liên Hoa, tầng trên chồng mái, dưới giáp vòng bát vận, giữa nổi bật lên chín phẩm hoa sen chia ra làm chín tầng, mỗi tầng tám mặt, mỗi mặt ba tượng. Phía trên có lọng báu rủ xuống, duới đất nổi lên sen vàng, hai bên là tranh vẽ cảnh Tây phương với rất nhiều Thánh tượng, bốn góc có vị thần vương Đại Hộ pháp, thân cao tám thước (khoảng 2,6m) rất uy nguy, trang nghiêm. Phía sau có tượng Địa Tạng bằng đồng. Lại có ba tượng Tam Tổ bằng gỗ quý, một tượng Thiên Chủ ba cõi toàn bằng vàng, tượng Chế Thắng Hòa Diệu Đại vương, lại có hai hàng tượng Phật bằng gỗ ở phía sau.

Phía sau bên phải có ngôi đàn Đại bi năm gian hai chái, bên trong có tượng Phật bốn mươi hai cánh tay, làm đài sen rất đẹp. Phía Đông Bắc có một ngôi nhà Trù bát vận ba gian, phía Tây Nam có một ngôi nhà chứa Kinh cũng ba gian bát vận, bảy ngôi tăng đường vây quanh giáp vòng, một ngôi ngay giữa ba gian bằng gạch. Trong chùa, bốn vách bằng gạch, hành lang làm bằng gạch xám tro; ngoài chùa, bốn góc toàn bằng gạch Bát thiết quý giá.

Lại có hai tòa nghi môn ở hai bên, mỗi tòa ba gian, chồng lớp hai tầng dùng làm gác Khánh, gác Mai. Hai ngôi Tổ đường hai bên, mỗi ngôi ba gian bát vận, chồng mái; bên trong có khám thờ cùng hai tượng vị Tổ. Một ngôi bảo tháp Tổ sư ở bên trái, cao hai mươi mốt thước (khoảng 6,93m). Một bảo tháp Tôn sư bên phải, cao hai mươi năm thước (khoảng 8,25m), cả hai tháp đều có tượng sư tử ở bệ đá của hai bên. Một cổng tam quan ở con đường trước chùa, lầu gác trên dưới, ba gian bát vận, toàn dùng gạch Bát thiết.

Núi bên trái có gác Chuông, tầng trên treo một quả hồng chung, rộng hai thước (0,66m); tầng dưới treo một quả đại hồng chung, rộng ba thước năm tấc (1,15m). Núi bên phải có lầu Trống đối lại, trong đặt một cái trống to, bề mặt rộng ba thước (0,99m). Thềm phía dưới lát gạch Bát thiết bằng phẳng. Trước chùa có tường bao quanh, trang trí hoa văn. Con đường hai bên phải và trái toàn lát gạch Bát thiết. Trong ngoài vườn cảnh, cây cối, hoa quả tươi tốt, trước sau sắp bày hàng lối như lọng che.

Đến năm 1724, chúa Trịnh Cương truyền lệnh cho phép mở rộng phạm vi của chùa Nguyệt Đường, vì cơ sở hành đạo này đã quá chật hẹp. Những khu đất xung quanh đều thuộc sự quản lý của nhà chùa, và bổ sung thêm hơn năm mươi mẫu ruộng. Công tác xây dựng kéo dài trong nhiều năm mới hòan tất, và thiền sư Như Nguyệt, pháp tử của thiền sư Hương Hải, là người chủ trì việc xây dựng này.

Một ngôi chùa nổi tiếng là thế, đồ sộ và trang nghiêm là thế, nhưng chỉ còn lại trong ký ức, bởi ngày nay, hiện vật còn lại duy nhất của chùa Nguyệt Đường là hai cây tháp đá (một của Hương Hải thiền sư, và một của Phương Trượng thiền sư) nằm ở phía Đông Văn miếu Xích Đằng.

 

-----***-----

          Tóm lại, một thiền sư nổi tiếng đã sáng lập ra một đạo tràng lớn và chủ trì một ngôi chùa có quy mô bề thế, đó chính là Hương Hải thiền sư và chùa Nguyệt Đường, đúng như nhận xét: “Đạo tràng mà ông sáng lập và chủ trì cuối thế kỷ mười bẩy và đầu thế kỷ mười tám đã trở thành một tùng lâm lớn, một thiền phái lớn mà pháp đăng còn truyền lại mãi cho tới ngày nay”./.

L.Q.C

Tài liệu tham khảo:

 

1 - Thích Thanh Từ: Hương Hải thiền sư ngữ lục giảng giải, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1999.

2 - Viện Triết học: Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, HN, 1988.

3 - Nguyễn Lang: Việt Nam Phật giáo sử luận, Tập II, Nxb. Văn học, HN, 1994.                                                                       


[*] Cục Di sản văn hóa, Bộ Văn hóa - Thông tin

   Số 51 - 53, Ngô Quyền, Hà Nội.

 

http://www.buddhismtoday.com/viet/pgvn/ts.huonghai&chuanguyetduong.htm

 


Vào mạng: 1-09-2006

Trở về mục "Phật giáo Việt Nam"

Đầu trang