Trang tiếng Anh

Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt   

   

...... ... ..  . ..  .  .
Lược sử
Hòa Thượng Thích Trí Thủ
Môn đồ pháp quyến

 

        Hòa thượng họ Nguyễn, húy Văn Kính, pháp danh Tâm Như  tự Đạo Giám, hiệu Thích Trí Thủ.

        Hòa thượng sinh giờ Hợi ngày 19 tháng 9 Kỷ Dậu, tức ngày 1 tháng 11 năm 1909. Xuất thân từ một gia đình Nho phong thanh bạch tại làng Trung Kiên, tổng Bích La, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.

       Thân phụ là cụ Nguyễn Hưng Nghĩa, thân mẫu là cụ bà Lê Thị Chiếu, cả hai cụ thân sinh đều thuộc gia đình đời đời tin Phật.

       Hòa thượng là con trai độc nhất trong gia đình nên được chăm sóc giáo dục rất sớm. Lớn lên 7 bắt đầu học chữ Hán, lên 9 vào học trường làng.

       Vốn có sẳn cốt tủy Bồ-đề, túc duyên Phật pháp, mười bốn tuổi Hòa thượng đã vào học Kinh ở chùa Hải Đức, Huế.

       Năm lên 17, Hòa thượng thực thụ xuất gia, đầu sư với Hòa thượng Thích Viên Thành tại chùa Trà Am, Huế, được ban pháp danh Tâm Như, pháp tự Đạo Giám và trực tiếp thụ học với bổn sư.

       Năm đủ 20 tuổi, Hòa thượng được bổn sư cho vào giới đàn chùa Từ Vân ở Đà Nẵng thụ giới cụ túc, tại giới đàn này, Hòa thượng đã trúng tuyển Thủ Sa Di trong số 300 giới tử. Do đó, bổn sư đã cho pháp hiệu là Thích Trí Thủ, với ý khen tặng chữ Thủ, nghĩa là đứng đầu.

       Qua hai năm cư tang bổn sư tại chùa Trà Am, Hòa thượng đã cùng các pháp lữ vào chùa Thập Tháp,  Bình Định, tham học với Hòa thượng Phước Huệ. Bấy giờ là năm 23 tuổi.

       Mãn học, Hòa thượng ngồi ghế giáo thụ, dạy trường Phật học Phổ Thiên, Đà Nẵng. Vì chưa thỏa lòng cầu pháp, sau Hòa thượng lại trở ra Huế, cùng các vị đã đồng học ở Thập Tháp ngày trước, tổ chức trường Phật học tại Chùa Tây Thiên, rồi cung thỉnh tăng cang Giác Nhiên chùa Thuyền Tôn làm giám đốc, Hòa thượng Phước Huệ chùa Thập Tháp làm đốc giáo dạy nội điển, đồng thời mời các cư sĩ như bác sĩ Lê Đình Thám dạy luận học, các cụ Nguyễn Khoa Tòan, Cao Xuân Huy v.v…dạy các môn về văn hóa theo trình độ Đại học. Ở trường này, Hòa thượng đã chính thức học chương trình đại học Phật giáo cũng như văn hóa. Trong thời gian này, Hòa thượng đồng thời làm giảng sư cho hội Phật học Huế và dạy lớp Trung Đẳng Phật học cũng mở tại Tây Thiên. Bấy giờ Hòa thượng được 27 tuổi. Khi ấy, hội Phật học Huế mở trường Tiểu học Phật học tại chùa Báo Quốc, Hòa thượng cũng kiêm dạy các tăng sinh ở đó.

       Năm 29 tuổi(1938), sau khi tốt nghiệp trường Phật học Tây Thiên, Hòa thượng về trú trì chùa tổ đình Ba-la-mật, nhưng vẫn tiếp tục công việc giảng dạy cho hội và các trường Phật học.

       Năm sau(1939) Ni trường thành lập tại chùa Từ Đàm, sơn môn và hội Phật học giao Hòa thượng đặc trách việc đào tạo Ni trường ấy. Đây là cỏ sở, nhờ đó Ni bộ đầu tiên được thành hình.

       Năm 1940 Hòa thượng trùng tu chùa tổ đình Ba-la-mật.

       Năm 1941 Hòa thượng lại mở trường Sơn môn Phật học tại chùa Linh Quang, Huế, chủ trương xây dựng kinh tế tự túc cho học chúng làm phương tiện tu học, trong giai đoạn kinh tế khủng hoảng lúc bấy giờ. Hòa thượng cũng chủ trương cho học tăng học văn hóa. Chính Hòa thượng đích thân dẫn học tăng đầu tiên đi dự thi Tiểu học. Việc tăng sinh học văn hóa và thi lấy bằng cấp ngoài đời đã gây chấn động không ít trong số người chủ trương đào tạo tăng sinh theo nề nếp cũ.

       Cách mạng tháng 8 bùng nổ, trên cương vị Trị Sự Sơn môn Thừa Thiên, Hòa thượng đã cùng các vị khác lập hội Phật giáo cứu quốc Trung bộ, chủ trương mở tờ nguyệt san Giải thoát, làm cơ quan tuyên truyền của hội Phật giáo cứu quốc Trung bộ. Hòa thượng đắc cử Hội đồng nhân dân Thừa Thiên và được chính quyền Cách mạng mời đến Trung bộ phủ giao quyền sắp đặt lại chùa chiền, hủy bỏ chế độ chùa vua do phong kiến đặt.

       Năm 1948, Hòa thượng mở đại giới đàn tại chùa Báo Quốc đã thân làm chủ đàn.

Tại giới đàn này, Hòa thượng đã phục hồi ý nghĩa của Thất chúng mà các trường giới xưa nay ít coi trọng. Trong ý nghĩa  đó, Hòa thượng đã cung thỉnh các vị tôn túc có giới đức cao là tôn chứng để minh chứng cho sự truyền giới. Hòa thượng cũng phân chia riêng Tăng Ni hai bộ, Tăng độ cho tăng, Ni độ cho ni.

       Năm 1951, trong chức vụ hội trưởng hội Việt Nam Phật hoc trung phần nằm trong hệ thống Tổng hội Phật giáo Việt Nam của 6 tập đoàn Phật giáo Bắc, Trung, Nam, đứng đầu là Đại lão Hòa thượng Thích Tịnh Khiết là Hội chủ. Lúc bấy giờ Hòa thượng đặt viên đá đầu tiên xây dựng trường Tiểu học tư thục Bồ-đề tại Thành Nội Huế mở đầu mạng lưới giáo dục tư thục Bồ-đề của Phật giáo.

       Năm 1952, Hòa thượng tạm nghỉ việc hội, chuyên tâm vào việc giáo dục học tăng ở Phật học đường Báo Quốc.

       Cuối năm 1956, Phật học viện Trung phần thành lập tại Nha Trang, Hòa thượng thân làm giám viện.

       Năm 1957, thấy đa số tăng ni của Phật học viện đã đến tuổi thụ giới, Hòa thượng cho mở giới đàn và thân làm chủ đàn.

       Để ổn định kinh tế tự túc cho Phật học viện, Hòa thượng đã cho một số học tăng vào Sài Gòn học riêng các môn khoa học chế biến, sau đó mở hãng sản xuất nước tương, hương đèn, dắm ăn, xà phòng, tất cả đều do sức lao động của học tăng và Phật tử đảm đương cả. Hầu hết học tăng Phật học viện đều được Hòa thượng cho học ssong song hai chương trình. Nhờ hướng đào tạo đó mà nơi đây là nguồn cung cấp liên tục các chính đại diện giáo hội các tỉnh, quận, giảng sư, trú trì, hiệu trưởng, giám học các trường Bồ đề, quản lý nhà in, nhà phát hành kinh sách, khắp miền Trung và về sau một số đã trở thành giảng sư, giáo sư đại học, nói chung là các ngành văn hóa giáo dục phục vụ đạo đời.

       Năm 1960, Hòa thượng tạo mãi miếng vườn ở Gò Vấp khai sơn Tu Viện Quảng          Hương Già Lam.

       Năm 1962, Hòa thượng dẫn phái đoàn Phật giáo Việt Nam tại miền Nam tham dự Đại lễ thế giới kỷ niệm năm 2500 năm Đức Phật nhập Niết bàn, tại Lào.

       Phật đản năm 1963 bắt đầu thời pháp nạn. Bấy giờ Hòa thượng về Huế, rồi ở đó cùng các vị lãnh đạo Phật giáo, hướng dẫn phong trào tranh đấu bảo vệ đạo pháp vàdân tộc cho đến khi bị chính quyền Kiệm bắt giam giữ tại Huế rồi đưa vào Sài Gòn. Qua cơn pháp nạn, Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất ra đời, thành lập với 11 đoàn thể các hệ phái Phật giáo toàn miền Nam, Hòa thượng sung vào ban dự thảo Hiến chương Giáo hội, và trong nhiệm kỳ đầu Hòa thượong giữ nhiệm vụ Tổng vụ

Hoằng pháp. Công việc Hoằng pháp và giáo dục Tăng ni là mối quan tâm hàng đầu và quan tâm suốt đời của Hòa thượng. Trong nhiệm vụ và vai trò đó, Hòa thượng đã mở 3 Đại hội Hoằng pháp, một tổ chức tại Phật học viện Nha Trang, một tổ chức tại chùa Xá Lợi, Sài Gòn và một tại chùa Ấn Quang(Chợ Lớn). Hoạt động và thành tích Hoằng pháp đều tổng kết ghi lại trong ba tập kỷ yếu Đại hội. Hòa thượng còn thành lập Giảng sư đoàn và cắt cử mỗi vị phụ trách một tỉnh để diễn giảng Phật pháp cho tín đồ. Sau Hòa thượng còn thành lập Phật học viện Phổ Đà ở Đà Nẵng.

       Năm 1964, Hòa thượng thân làm Viện trưởng viện Cao đẳng Phật giáo, thành lập tại chùa Pháp Hội, Sài Gòn. Đây chính là tiền thân của viện Đại học Vạn Hạnh, Hòa thượng còn chủ trương các tập san như Tin Phật, Bát-nhã để gióng lên cho đời tiếng nói của pháp âm.

       Năm 1965, sau khi ổn định mọi Phật sự Hòa thượng hành hương chiêm bái các danh lam Phật tích ở Nhật Bản, Nam Triều Tiên, Đài Loan, Hồng Kông, giao thiệp vơi nhiều danh tăng các nước.

Sau thời làm Tổng vụ trưởng Tổng vụ Hoằng pháp, Hòa thượng lại được giáo hội trao giữ nhiệm vụ Tổng vụ trưởng tổng vụ Tài chánh.

       Năm 1968, Hòa thượng được giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất chính thức cử hành lễ tấn phong Hòa thượng. Cùng năm này, Hòa thượng khai giới đàn tại Phật học viện Nha Trang.

       Năm 1969, đại trùng tu đổ đình Báo Quốc.

        Từ Đại hội giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất kỳ 5 và kỳ 6 Hòa thượng giữ chức vụ Viện trưởng viện hóa đạo, đến năm 1975 lại kiêm cả chức phụ tá Đức Tăng Thống cho đến khi đất nước và đạo pháp chuyển sang giai đoạn lịch sử mới.

       Đến năm 1976, Hòa thượng lại tổ chức đại giới đàn Quảng Đức tại tổ đình Ấn Quang, Chợ Lớn.

       Trước chiều hướng mới và cũng thể theo ý hướng thống nhất mà xưa nay Phật giáo Việt Nam vẫn thường ấp ủ nên sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, trong cương vị Viện trưởng Viện hóa đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất, Hòa thượng đã liên hệ với các vị tôn túc lãnh đạo các hệ phái và tổ chức Phật giáo khác trong cả nước để bàn bạc việc thống nhất Phật giáo Việt Nam. Chính đây là nguyện vọng chung của toàn thể Tăng ni và Phật tử. Nguyện vọng này đã thể hiện cụ thể tại Đại hội Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất kỳ 7, họp tại chùa Ấn Quang, Chợ Lớn, ngày 23.01.1977 gồm 160 đại biểu của 54 đơn vị trong Giáo hội, mà Hòa thượng nhân danh viện truởng tân nhiệm đã ký thông bạch 7 điểm trong đó có điểm thứ 6 nguyên văn như sau: “Đại hội cẩn ủy Giáo Hội Trung ương tiếp tục vận động thống nhất Phật giáo cả nước trong tinh thần Đạo pháp và truyền thống Dân tộc”.

       Sau khi Ban vận động thống nhất Phật giáo thành hình, Hòa thượng được bầu làm Trưởng Ban vận động và khi hội nghị đại biểu thống nhất Phật giáo Việt Nam tổ chức tại thủ đô Hà Nội ngày 7.11.1981, Hòa thượng đắc cử Chủ tịch Hội đồng Trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam nhiệm kỳ đầu tiên.

       Những năm cuối của báo thân, Hòa thượng tuy tuổi già sức yếu, vẫn không xao lãng việc đạo việc đời.

       Năm 1979 và 1982 dẫn đầu đoàn đại biểu Phật giáo Việt Nam dự đại hội thứ 5 và thứ 6 của tổ chức Phật giáo Châu Á vì hòa bình, tại Mông Cổ.

       Năm 1980 làm trưởng đoàn đại biểu tôn giáo Việt Nam dự Hội nghị các nhà hoạt động tôn giáo thế giới vì hòa bình và giải trừ quân bị, chống chiến tranh hạt nhân, tổ chức tại Nhật Bản.

       Năm 1981 làm trưởng đoàn đại biểu Phật giáo Việt Nam dự hội nghị Các nhà hoạt động tôn giáo thế giới vì hòa bình và sự sống, chống chiến tranh hạt nhân, tổ chức tại Liên Xô, cũng năm này kiến tạo thêm chính điện Tu Viện Quảng Hương Già Lam.

       Năm 1983 dự hội nghị các vị đứng đầu Phật giáo 5 nước Châu Á, tổ chức tại Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào.

       Năm 1983 đắc cử ủy viên đoàn chủ tịch ủy ban Trung ương mặt trận tổ quốc Việt Nam, cũng năm này xây dựng lại ngôi tổ đình Linh Quang tại làng sinh quán.

       Dù bận rộn Phật sự, suốt con đường hành đạo, Hòa thượng vẫn dành thời giờ dịch kinh, biên soạn sách để hoằng dương Phật pháp. Các tác phẩm chính gồm KINH PHỔ MÔN, KINH PHỔ HIỀN, MẸ HIỀN QUAN ÂM, KINH VÔ THƯỜNG, KINH A DI ĐÀ, PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ, KINH BÁT NHÃ, LUẬT TỲ KHEO, LUẬT BỒ TÁT, LUẬT TỨ PHẦN, NGHI THỨC TRUYỀN GIỚI BỒ TÁT TẠI GIA VÀ THẬP THIỆN, NGHI THỨC PHẬT ĐẢN, NGHI THỨC LỄ SÁM BUỔI KHUYA và các tác phẩn khác đã in hoặc chưa xuất bản.

      Mãn báo thân 76 tuổi đời, 56 tuổi đạo, vào lúc 21 giờ 30 ngày 2 tháng 4 năm 1984 (tức ngày 2 tháng 3 năm Giáp Tý) Hòa thượng an nhiên thị tịch tại Quảng Hương Già Lam và an táng tại đây.

http://www.buddhismtoday.com/viet/pgvn/nguoi/thichtrithu.htm

 


Vào mạng: 5-2-2002

Trở về mục "Phật giáo Việt Nam"

Đầu trang