Trang tiếng Anh

      Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt

   

...... ... .  . .  .  .
Đại sư Tông Khách Ba (1357-1419)
Thích Hằng Đạt

Chú Thích


Chương I. Hóa thân của Bồ Tát Văn Thù

1. tức chỉ cho Bồ Tát Văn Thù.

2. tức biệt danh của xứ Tây Tạng.

3. tức chùa Cách Đăng.

4. hoặc dịch là Thiện Huệ, hay gọi là Kiết Tường.

5. vùng biên địa của núi Tuyết Sơn.

6. Văn Thù Sư Lợi.

7. hậu thân của luận sư Đại Minh Đỗ Quyên.

8. Tây Tạng.

9. tức chỉ cho Bồ Tát Văn Thù.

10. Tây Tạng.

11. đạo tràng chính của đại sư Tông Khách Ba.

12. Sumati Kirti, tiếng Tây Tạng là gọi là La Tang Trát Ba Cụ (Blo-bzang grags-pa dpal).

13. Blo-bzang grags-pa dpal, tức là đại sư Tông Khách Ba.

14. Amdo.

15. Tsong-Kha.

16. nghĩa là người Tông Khách.

17. hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm.

18. tức mẹ của Đại Sư.

19. Lhasa, vương thành của Tây Tạng.

20. Tương truyền, đó chính là tượng Phật mà công chúa Văn Thành mang từ Trung Quốc sang Tây Tạng.

21. nghĩa là cây chiên đàn có trăm ngàn tượng Phật.

22. Choje Dondrup Rinchen, 1309-?, vốn là vị đại đức tu hành đã thành tựu. Đốn Châu Nhân Khâm nghĩa là Nghĩa Thành Bảo; Nhân Ba Thiết nghĩa là Đại Oai Đức. Ngài đã từng hai lần vào Tây Tạng, theo vị thiện tri thức đại Lạt Ma Bố Đốn Nhân Khâm Châu (Bu-ston rin-chen grub, 1290-1364) để tu học Phật pháp. Không luận là Hiển giáo hay Mật giáo, Ngài đều học đến tận cùng cực. Trở về, Ngài xây hai ngôi chùa Giáp Quỳnh (Bga-khyung dgon-pa, 1349) và Hà Chương (Sha-sbrang), rồi tự thân dạy đạo cho hàng hậu học. Ngài thường hiển hiện thần thông đối với chúng sanh có duyên lành, vì mục đích dẫn dắt họ nhập tri kiến Phật, đạt được giải thoát.

23. tức hóa thân của Bồ Tát Văn Thù.

24. nhập định.

25. Kar-ma-pa rol-pa'l-rdo-rje, 1340-1383, vị tổ sư đời thứ tư của chi phái Ca Nhĩ Mã (Karmapa) thuộc phái Cát Cử (Kargyupa).

26. Kunga nying-po, tức Hoan HỶ Tạng.

Chương II. Vị đại tỳ kheo nghiêm trì giới luật cẩn mật và đại hành giả lỗi lạc chân tu thật chứng có trí huệ quảng đại bác học đa văn.

1. vượt hơn tất cả mọi người.

2. tiếng Tây Tạng gọi là Đốn Thoát Đa Kiệt, Don-yod rdo-rje.

3. vị đã chứng đạo và thành tựu thánh quả; đối với giáo pháp Hiển-Mật đều thông suốt vô ngại.

4. tức Tây Tạng.

5. Bộ luận Thích Lượng do luận sư Pháp Xưng tạo, đã được hội Phật giáo Đài Loan xuất bản. Quyển luận nhân minh này rất quý báu.

6. Denma Rinchen Pel, tức là Bảo Kiết Tường, vị Lạt Ma chùa Chỉ Công.

7. chùa Chỉ Công phân làm ba ngôi chùa; chùa Chỉ Công Thế (Drikung Kargyu) là một trong ba ngôi chùa đó, cách Lạp Tát (Lhasa) 5 ngày đường.

8. Gong-thang, nằm về phía đông nam của Lạp Tát.

9. KonChog Kyab, dịch là Bảo Y Xứ.

10. tôn hiệu của Đại Sư.

11. Dewachen, dịch là chùa Cựu Lạc; chùa này là một trong các đại tự viện nổi tiếng, và là nơi trụ xứ của các vị Lạt Ma thuộc sáu chi phái nổi tiếng vào đương thời vì thường ban truyền và giảng kinh luận. Đây cũng là nơi ngài Đốn Châu Nhân Khâm Nhân Ba Thiết đã từng tu học.

12. Tashi Sengi, dịch là Kiết Tường Sư Tử.

13. Ye-shes Densapa Gekong, dịch là Trí Sư Tử.

14. Ornament for the Realisation (Abhisamayalamkara).

15. 'Jam- Skya, người Tây Tạng.

16. Rngog blo ldan shes-rab, 1059-1109.

17. Đương thời, chùa Đệ Ngõa Cẩn vốn là một chi nhánh của chùa Tang Phác.

18. Bla-ma dam-pa bsod-nams rgyal-mtshan, 1312-1375; (thường được gọi là Lạt Ma Đơn Ba, và là cháu của Bát Tư Ba), cầu học Văn Thù ngũ tự minh (hồng hoàng Văn Thù).

19. Khenchen Rinchen Namgyal, dịch là Bảo Thắng, vị đệ tử nối pháp của ngài Bố Đốn.

20. Bo-dong phyags-las rnam-rgyal, 1306-1386; ngài vốn là một vị Lạt Ma nổi tiếng của phái Thời Luân Kim Cang.

21. Rtse-chen, nằm trên ngọn núi phía bắc Giang Tư.

22. Ngài Kết Tôn Nhân Đạt Ngõa vốn tên là Tuyên Nô La Truy (Gzhon-nu blo-gros, 1349-1412, dịch là Đồng Tử Huệ). Ngài sinh ra tại vùng Nhân Đạt Khảo Toa, gần chùa Tát Ca. Người Tây Tạng y nơi sinh quán của Ngài mà tôn xưng là "Nhân Đạt Ngõa". Từ nhỏ ngài Nhân Đạt Ngõa đã tỏ ra thông minh hơn người. Theo quan điểm của ngài Nhân Đạt Ngõa thì ba cõi nơi thế gian giống như mộng huyễn. Hành đạo Bồ Tát chỉ như lập đàn tràng "trăng soi đáy nước"; làm Phật sự như "hoa rơi trên hư không". Lại nữa, vì chán chường bao thứ xiểm cuồng, ân ái thế tục không thật, nên Ngài phát tâm tìm cầu chân lý, và xuất gia lúc còn ấu niên. Xuất gia xong, ngài Nhân Đạt Ngõa y theo các đại thiện tri thức như Khánh HỶ Tường và Ban Thiền Mật Để, để tu học kinh luận. Ngài Nhân Đạt Ngõa lại đến chùa Tát Ca nghe vị trụ trì giảng luận Trung Quán. Do túc trí đảnh ngộ, nên đối với tất cả kinh luận Hiển-Mật, ngài Nhân Đạt Ngõa chỉ cần xem qua một lần, thì có thể thông hiểu mọi ý nghĩa thâm sâu. Ví như luận Trung Quán, nhờ dùng huệ lực quán sát, mà ngài Nhân Đạt Ngõa có thể hiểu rõ thâm nghĩa và thông suốt luận lý thuộc phái của ngài Nguyệt Xưng, rồi giảng giải cho hàng hậu học.

Trung Quán là một bộ luận xiển minh giáo lý duyên khởi tánh không của đức Như Lai. Người học Phật nếu không chứng đắc được nghĩa không (hay tánh không), thì sẽ rơi vào hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật, và khó thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi. Vì vậy Trung Quán là bộ luận rất quan trọng. Song, vào thời bấy giờ, học thuyết của luận Trung Quán rất suy vi; người thừa thọ thật rất ít oi, huống hồ các vị giảng sư. Về sau, do ngài Nhân Đạt Ngõa cực lực xiển dương, tuyên giảng rành rẽ, nên học thuyết Trung Quán mới được khôi phục lại ở Tây Tạng. Ngài Cát Mã Bảo Đồng tán thán:

- Xưa kia, trừ chùa Tát Ca ra, nơi nơi đều hiếm khi nghe danh từ luận Trung Quán. Hiện nay tại Tây Tạng, người người bàn trực tiếp hay gián tiếp về luận Trung Quán, đều do công lao của Nhân Đạt Ngõa.

Sau này, ngài Nhân Đạt Ngõa cũng theo các đại thiện tri thức như Hư Không Hiền, Danh Xưng Tràng, Thắng Y Tường mà thừa thọ các Mật pháp như Tập Mật, Thắng Lạc, v.v... rồi xiển dương rộng rãi. Trong số các chư đại đức của phái Tát Ca có khả năng hoằng dương đại pháp Tập Mật, cùng những vị có chánh kiến chân thật của phái Trung Quán-Ứng Thành, thì ngài Nhân Đạt Ngõa là bậc nhất.

Giữa ngài Đốn Châu Nhân Khâm Nhân Ba Thiết và đại sư Tông Khách Ba cùng các giới Phật giáo tu pháp Hiển-Mật ở toàn Tây Tạng, ngài Nhân Đạt Ngõa là vị có học vấn uyên thâm cao siêu nhất. Ngài Nhân Đạt Ngõa có trước tác giải thích những bộ luận như Trung Quán Luận, Nhập Trung Luận, Tứ Bách Luận, Câu Xá Luận, cùng viết sớ chú giải các kinh điển Mật pháp.

Ngài Nhân Đạt Ngõa tu hành nghiêm cẩn. Đối với những giới luật nhỏ nhặt, cũng luôn thủ hộ không phạm. Lại nữa, Ngài cũng chân thật phát tâm Bồ Đề; đối đãi hòa nhã với mọi người; đến đâu cũng hoằng dương chánh pháp, khiến rất nhiều người quy ngưỡng; nơi hai loại thứ lớp của Mật pháp vô thượng, đã đắc được tam ma địa kiên cố, cùng chứng được hai loại công đức cộng và bất cộng. Vì vậy, chư Thiên thường hiện thân mang phẩm vật đến cúng dường, cùng tán thán không dứt.

Lần nọ, ngài Nhân Đạt Ngõa phát nguyện giảng thuyết kinh luận. Đêm hôm đó, trên hư không có Bồ Tát Long Thọ, Vô Trước, v.v... hiện thân đánh trống đại pháp, vang khắp không gian.

23. skyor-mo-lung, kiến lập vào năm 1169; đây là ngôi chùa thường giảng giải và ban truyền giới luật nổi tiếng.

24. Kazhiwa Losal, một đại luật sư.

25. Stod-lung-phu, là vùng phụ cận của Lạp Tát về hướng tây bắc.

26. Thật ra, chẳng phải làm ngược lại lời dạy của thầy bổn sư, mà Đại Sư muốn thị hiện răn nhắc kẻ hậu học. Điều kiện căn bản để thành tựu đạo nghiệp khi tu học Hiển-Mật giáo, là phải cung kính tiếp thọ lời dạy bảo của thầy bổn sư. Không phải chỉ biểu hiện hình tướng cúng dường hầu hạ bên ngoài, mà quan trọng nhất là bên trong phải khởi tâm hằng cung kính. Chư cổ đức thành tựu đạo nghiệp đều không vượt ngoài hạn lệ đó. Lý lẽ này, trong kinh Hoa Nghiêm giảng giải rõ ràng.

27. Tantra of Hevajra, là một bộ trong Vô Thượng Mật Bộ; Mật pháp của phái Tát Ca lấy bộ kinh này làm chủ yếu.

28. Lạp Đóa Ráng, La-stod-byang, nằm về phía tây của vùng Lạp Tư Mão Nhân (Ngam-ring) là ấp đầu tiên của vùng Lạp Đóa Ráng. Chùa Mão Nhân thuộc về hệ phái Tát Ca. Về sau, đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ năm đổi ngôi chùa đó thành đạo tràng thuộc phái Hoàng Giáo.

29. Mal-gro lha-lung, nằm giữa Lạp Tát và Chỉ Công.

30. tức tâm cần cầu đạo giác ngộ giải thoát.

31. bộ luận này do đệ tử của Tát Ca Ban Trí Đạt là Ổ Do Ba trước tác. Tại Tây Tạng, vào thế kỶ thứ mười ba và mười bốn, bộ luận này rất nổi tiếng.

32. Kun-dga' bkra-shjs, 1349-1435; xưng gọn là bkhon bkras-pa, dịch là Côn Trạch Tư Ba, vốn là cháu của Bát Tư Ba, và cũng là thầy bổn sư của Kết Tôn Nhân Đạt Ngõa. Năm 1413, phụng chiếu triều đình mà vào kinh đô. Vua Minh Thành Tổ tôn xưng Ngài là Đại Thừa Pháp Vương.

33. Kun-dga' rgyal-mtsham, dịch là Khánh HỶ Tràng.

34. chỉ đọc tụng ra chứ không giải thích.

35. tức là những trước tác trọng yếu của các tông phái Phật giáo Đại Thừa. Quyển Sử Phật Giáo do ngài Tùng Ba Kham Bố viết, có ghi những loại kinh luận phụ trợ khi bàn đến sở học kinh luận Hiển-Mật của đại sư Tông Khách Ba.

36. nghĩa là đọc qua bộ luận này, thì sẽ phát triển trí huệ.

37. thường gọi là mười sáu sự.

38. người Tây Tạng tôn xưng sáu vị này là "sáu vị trang nghiêm thế giới".

39. Tshultrim Rin-chen, là đại luật sư chuyên truyền giới luật thuộc phái Thích Ca Thất Lợi Bạt Đà La.

40. Gdan-sa-mthil, do Lạt Ma Mạt Chủ Cát Cử làm trụ trì.

41. Grags-pa byang-chub, 1356-1386; dịch là Xưng Bồ Đề.

42. Je Phagmo Drupa, đệ tử của ngài Gamgopa.

43. mà ngài Mã Nhĩ Ba (Marpa) truyền trao cho đại đệ tử là Mật Lặc Nhật Ba (Milarepa).

44. gần chùa Tát Ca.

45. Mati pan-chen, là vị thầy của ngài Kết Tôn Nhân Đạt Ngõa, thuộc phái Giác Mão.

46. snyan-ngag me-long, nghĩa là thơ kính. Đây là thơ văn chữ Phạn, được dịch ra chữ Tây Tạng. Người Tây Tạng thường lấy bộ sách này làm trọng yếu cho việc học tập thơ vận chương cú.

47. Tshal, thuộc phái Cát Cử, tức chi phái Sát Ba.

48. Điềm lành biểu thị rằng trong tương lai, A Vượng Trát Ba sẽ thành tựu đạo nghiệp, hoằng dương Phật pháp rộng khắp.

49. Tuy không nói ra, nhưng Đại Sư đã hiểu rõ về điềm dự báo này. Bay lên ngọn núi cao chót vót, biểu thị rằng Đại Sư sẽ vượt khỏi sanh tử hiểm nạn, đạt đến giải thoát rốt ráo. Tảng đá màu trắng rộng bằng phẳng sạch sẽ, biểu thị ý niệm thanh tịnh, đất tâm trong sạch không cấu uế, tức đã sớm xa lìa tâm tự lợi ô uế cùng tâm thô phù phiền não. Đóa hoa sen xanh nở rộ tươi thắm, biểu thị cho trí huệ quảng đại, khiến chánh pháp như vầng mặt trời trên hư không, soi chiếu khắp chốn. Cành hoa sen không khô héo, và mỗi phần của nhánh hoa đều đầy đủ rõ ràng, biểu thị cho giáo pháp thanh tịnh của Đại Sư sẽ mãi trụ tại thế gian. Ngắt lấy cành hoa sen, biểu thị cho sự nghiệp hoằng dương Phật pháp rộng khắp, sẽ do Đại Sư đảm nhận trọng trách.

50. nằm về hướng đông của Lạp Tát.

51. đây là bộ sớ sao giá trị nhất của bộ Thời Luân Kim Cang.

52. Trung Quán Luận, Hồi Tranh Luận, Lục Thập Chính Lý Luận, Thất Thập Không Tánh Luận, Tinh Cứu Luận.

53. stag-tshang, cũng được gọi là Đạt Sáng Tông Khách.

54. rong, tức vùng Dương Trác Ủng Hồ, nằm về phía tây bắc của Khách Ha Ha Cốc.

55. Thời niên thiếu, có lần Lạt Ma Ổ Mã Ba nghe văng vẳng bên tai tiếng của Văn Thù ngũ tự minh; âm thanh nghe rất êm ái. Song, lúc ấy Ngài cho rằng đó là chú âm điên cuồng, nên bỏ chạy, nhưng bị vấp té, khiến bất tỉnh. Vừa tỉnh lại, Ngài thấy Bồ Tát Văn Thù hiện tướng trang nghiêm màu đen đang đứng trước mặt.

Sau này, Ngài cầu thỉnh vị tôn sư ban truyền pháp quán đảnh của Bồ Tát Văn Thù. Tu tập chẳng bao lâu, Bồ Tát Văn Thù thường hiện thân thuyết pháp. Song, Ngài không dám xác quyết cho là chân thật, mà chỉ quán chiếu hộ niệm câu "tất cả các pháp đều là huyễn hóa", nên trong tâm không bị chút chướng ngại nào.

Lúc trưởng thành, Ngài đến chùa Tang Phác ở Vệ Tạng để cầu học Phật pháp. Do trí huệ cao siêu, nên vừa học qua bộ luận Hiện Quán Trang Nghiêm thì được người người tặng cho danh hiệu là "Thông Trí". Về sau, Ngài định y theo luận Hiện Quán Trang Nghiêm để đến các tự viện mà lập tông đáp biện, nhưng bổn tôn Bồ Tát Văn Thù hiện thân bảo:

- Ông phải nên đem hết những của cải riêng tư để cúng dường cho tăng chúng.

Ngài hỏi:

- Nếu con đem hết tất cả tài vật mà cúng dường cho tăng chúng, thì làm sao còn tiền phí tổn để đi cầu học?

- Ông chớ lo lắng vì về sau tự nhiên sẽ tìm được tạng báu!

Y theo lời dạy của Bổn Tôn, Ngài đem hết tài sản cúng dường cho tăng chúng, rồi thỉnh vấn:

- Con đã đem hết của cải mà cúng dường tăng chúng, vậy Bồ Tát hãy ban cho con tạng báu!

Bổn Tôn đáp:

- Hành việc thiện tức là có tạng báu. Mục đích của Ta bảo ngươi "sẽ tìm được tạng báu", nghĩa là khuyên ngươi nên xả bỏ và xa rời vật chất ở thế gian, đoạn trừ tham ái lợi danh, mà chuyên tâm tu hành!

Nghe lời dạy bảo của Bổn Tôn xong, Lạt Ma Ổ Mã Ba bèn xả bỏ hết mọi sự nghiệp ở thế gian, một mình đi đến Công Bố, y theo ngài Ổ Cẩn Ba ('o-rgyan-pa) học Mật pháp của phái Cát Mã Cát Cử cùng pháp Đại Thủ Ấn của phái Cát Cử, v.v... Tu học xong, Ngài chọn một nơi thanh tịnh, chuyên tâm tu trì. Bấy giờ, sự thị hiện thân hình ngôn ngữ của Bổn Tôn (tức Bồ Tát Văn Thù) ngày càng rõ ràng.

Sau này, Ngài lại đến chùa Tang Da, y theo ngài Thác Cát Ngõa tu học sáu loại gia hạnh Thời Luân Kim Cang. Khi ấy, Ngài lại càng thấy rõ huyễn thân của Bổn Tôn. Vì muốn xác định chân ngụy, nên Lạt Ma Ổ Mã Ba thỉnh cầu Lạt Ma Đồng Thắng ở núi Kiết Tường khảo sát đoán định. Lạt Ma Đồng Thắng bèn dùng Mật pháp để khảo vấn. Những lời đối đáp của Bổn Tôn về các nạn vấn đều phù hợp với các kinh luận điển tích. Vì vậy, Lạt Ma Đồng Thắng bảo Lạt Ma Ổ Mã Ba:

- Y theo những lời đối đáp, đó chính là Bổn Tôn, chẳng còn nghi ngờ gì!

Lần nọ, Lạt Ma Ổ Mã Ba định đến Hậu Tạng để y theo và tham học với một trong hai vị đại thiện tri thức nổi tiếng. Không biết chọn lựa cách nào, Lạt Ma Ổ Mã Ba bèn cầu thỉnh Bổn Tôn, rồi được bảo:

- Ông cứ đi đi! Khi đến đó, hãy cầu thỉnh nơi một người xuất gia là được!

Lạt Ma Ổ Mã Ba đến vùng đó, gặp một vị tăng. Lạt Ma Ổ Mã Ba vừa thỉnh hỏi xong, vị tăng kia bèn bảo:

- Công đức chứng đắc của ngài Kết Tôn Ba Nhã Ngõa thật rất thù thắng. Nếu ông y chỉ theo vị đó thì quyết sẽ đạt được lợi ích.

Nhờ y theo ngài Kết Tôn Ba Nhã Ngõa, mà Lạt Ma Ổ Mã Ba phát tâm xuất ly, và dần dần xa rời các tham trước ở thế gian.

Nghe lời dạy của Bổn Tôn, Lạt Ma Ổ Mã Ba đến chùa Tát Ca và y theo ngài Kết Tôn Nhân Đạt Ngõa, để tu học luận Trung Quán cùng giới luật. Trên đường trở về, đi ngang qua vùng Khách Địa Kiếp Lũng, nghe có đại sư Tông Khách Ba đang cư trú gần đó, nên Lạt Ma Ổ Mã Ba lập tức đến đó thỉnh giáo, cùng được nghe Đại Sư giảng về quyển Nhập Trung Luận.

Ngày qua ngày, cứ liên tục vào mỗi buổi sáng, bổn tôn Bồ Tát Văn Thù đều đến dạy cho Lạt Ma Ổ Mã Ba một câu kệ, cùng dạy cách đối trị phiền não và vọng tưởng thô phù, rồi dạy thêm pháp phát tâm xuất ly và tâm Bồ Đề, cùng chánh tri kiến. Nói chung, bổn tôn Bồ Tát Văn Thù là vị thiện tri thức gần gũi và quan trọng nhất của Lạt Ma Ổ Mã Ba. Trong tất cả cử chỉ hành động, Lạt Ma Ổ Mã Ba đều y theo lời dạy của Bổn Tôn mà thực hành. Bên ngoài thì có Bổn Tôn chỉ dạy, bên trong lại có đầy đủ tín tâm kiên cố, nên dũng mãnh tinh tấn tu hành chẳng bao lâu, Lạt Ma Ổ Mã Ba chứng đắc công đức thù thắng, rộng lớn vô biên, không thể diễn bày. Ngoài ra, Bổn Tôn còn dạy Lạt Ma Ổ Mã Ba pháp nghĩa thâm sâu trong bài kệ "Tam Hữu Niết Bàn Bình Đẳng", cũng gọi là "Kim Cang Cú". Nội dung như sau:

"Y các loại duyên khởi, mà hiện nghĩa chân thật.

Gọi sơ tu quy y, tập phước tịnh trị chướng.

Tu duyên khởi thuận nghịch, tự tánh thân ngữ ý,

Thâm nhập vào giáo thọ. Người tu hạnh Bồ Đề,

An trụ nơi tam ma địa, uẩn tụ thân ngữ ý,

Đều không có bản ngã, người khác cũng vô ngã,

Người tu hạnh Bồ Đề, phải biết nghĩa vô ngã,

Uẩn giới cùng các xứ, hiển không cùng sanh tử,

Niết Bàn cùng duyên khởi, đều không có tự tánh.

Xa rời sanh trụ diệt, vượt hữu tình vô ngã,

Lời nói cùng hý luận, chẳng phải thâm tịch tĩnh,

Ai biết Đại Niết Bàn!"

Tuy bài kệ này không dài, nhưng bao hàm ý nghĩa của ba tạng giáo điển, thật rất quý báu. Bài văn này được ghi lại trong những trước tác của đại sư Tông Khách Ba.

Sau khi nhập tịch, nhục thân của Lạt Ma Ổ Mã Ba được trà tỳ. Lúc ấy, ánh lửa và khói đều biến thành hình dạng như bảo kiếm và đóa hoa sen. Trà tỳ xong, xá lợi của Lạt Ma Ổ Mã Ba phóng hào quang sáng màu vàng đỏ trong suốt như thủy tinh, và tự nhiên kết hợp thành một vòng tròn rất trang nghiêm.

* Lời bàn của dịch giả:

'Người tu học Phật pháp, dẫu có hành trì pháp môn Mật tông, Thiền tông, Tịnh Độ tông, v.v... phải có trạch nhãn pháp, tức là phải có đôi mắt chánh kiến để chọn lựa và biết rõ việc chơn ngụy dựa theo lý nhân quả căn bản của chánh pháp. Lại nữa, phải biết rõ mục đích tu hành của các tông phái và sự hành trì khác biệt giữa các tông phái, mà không nên hàm hồ tu lẫn lộn cách thức của tông này qua cách thức của tông kia.

Bàn về mục đích tu hành, tất cả tông phái đều hướng đến sự giác ngộ giải thoát cứu cánh, chứng đạt quả vị Phật. Như kinh Pháp Hoa dạy, đức Phật vì một đại sự nhân duyên mà xuất hiện trong cõi Ta Bà để giáo hóa chúng sanh khiến họ "Khai, Thị, Ngộ, Nhập Phật Tri Kiến". Lại nữa, sau khi thành đạo Bồ Đề vô thượng chánh đẳng chánh giác dưới cội cây Bồ Đề, đức Phật bèn ta thán:

- Lạ thay! Chúng sanh đều có đủ đức tướng của Như Lai, và có khả năng thành Phật. Song, vì vọng tưởng chấp trước nên bị trôi lăn mãi trong vòng sanh tử luân hồi!

Phật chỉ rõ rằng mỗi chúng sanh đều có Phật tánh và có khả năng thành Phật, nhưng vì vọng tưởng chấp trước nên cứ bị lưu chuyển mãi trong biển khổ sanh tử luân hồi. Vì lòng từ bi, tùy theo căn tánh của mỗi chúng sanh, đức Phật mới phương tiện thuyết ra tám mươi bốn ngàn pháp môn, để đối trị tám mươi bốn ngàn phiền não trần lao, hầu mong họ chóng đạt đạo Bồ Đề.

Người có tâm ngay thẳng, chất trực thì đức Phật dạy tu pháp môn thiền định. Người chán cõi Ta Bà đầy dẫy những sự khổ đau, thì đức Phật dạy tu pháp môn niệm Phật cầu vãng sanh qua cõi Tây Phương Cực Lạc của đức Phật A Di Đà. Người thích thần thông huyền diệu, thì Phật dạy tu mật chú. Tựu chung, thể theo ý thích và căn tánh của chúng sanh mà đức Phật quyền thiết phương tiện. Song, dẫu pháp môn phương tiện nào cũng đều dẫn về chân lý cứu cánh, tức khiến cho chúng sanh mau chóng được thành Phật.

Bàn về pháp môn tu thiền, hiện tại có hai loại thiền phổ thông nhất là Tiểu Thừa thiền và Đại Thừa thiền. Tiểu Thừa thiền tu theo từng cảnh giới thiền có lớn nhỏ, cấp bực, tuần tự, rồi mới chứng bốn quả A La Hán. Đại Thừa thiền là dành cho những vị thượng căn, có căn tánh lanh lợi. Điểm chủ yếu là hành giả tự lấy trí huệ để quán chiếu thân tâm. Trong Đại Thừa thiền cũng có chia ra nhiều loại thiền như Tự Tánh Thanh Tịnh thiền, Trực Chỉ Thiền, Như Lai Tối Thượng Thừa thiền, Đạt Ma Tổ Sư thiền, v.v... Lấy ví dụ về Đạt Ma Tổ Sư thiền, hành giả phải "minh tâm kiến tánh (thấy tâm rõ tánh)", tức nhận chân ra nơi mình có Phật tánh chân thật mà hằng sống trở lại với ông Phật (hay ông chủ) của chính mình ngay trong bốn oai nghi đi đứng nằm ngồi và trong cái thấy nghe (hồi quang phản chiếu, hay phản văn văn tự tánh), tức là sống lại với pháp thân của Phật, thì mười phương chư Phật đâu còn xa cách.

Đối với pháp môn Tịnh Độ, vì bản nguyện độ sanh, đức Phật Di Đà phát bốn mươi tám lời thệ nguyện để tiếp dẫn chúng sanh ở các cõi uế trược về cõi tịnh độ của Tây Phương Cực Lạc. Chúng sanh nào nhàm chán sống trong cảnh uế độ mà nhất tâm niệm Phật thì sẽ được Phật A Di Đà cùng chư thánh chúng tiếp dẫn sang cõi Tây Phương Cực Lạc. Nhờ nhân duyên thắng cảnh tăng thượng mà dần dần chứng được lý vô sanh pháp nhẫn, tức là đạt đến quả vị Phật, như câu "Hoa nở thấy Phật liền ngộ vô sanh".

Đối với Mật Tông, hành giả tu trì chân ngôn mật chú để nương nhờ thần lực gia trì của chư Phật và chư Bồ Tát, tức "Tam mật gia trì", mà mau chóng "Tự Thân Thành Phật" trong hiện đời.

Tựu chung, tuy sự tu học và hành trì có khác nhau, nhưng điểm chính yếu của các tông phái là đều hướng về mục đích giác ngộ, chứng đạt quả vị Phật.

Sự khác nhau trong khi tu trì giữa ba tông, Thiền Tông, Tịnh Độ Tông, và Mật Tông như sau.

Bàn về Thiền Tông, trong khi tu trì, nếu gặp cảnh giới tốt xấu nào, hành giả cũng phải xả bỏ chứ không được bám chấp vào, như câu "Ma đến chém ma; Phật đến chém Phật". Trong kinh Thủ Lăng Nghiêm đức Phật chỉ dạy rõ ràng về năm mươi cảnh giới ma của năm uẩn. Hành giả phải tự dùng trí huệ mà nhận biết và xả bỏ, thì không bị chướng ngại, bằng ngược lại thì sẽ bị lạc vào đường ma. Nói tóm gọn, nhân của hành giả tu thiền định là phải trở về với tánh Không "bản nhiên vô nhất vật", thanh tịnh lặng lẽ. Quả của hành giả tu thiền là phải đạt đến "bản tánh vốn không", hay "duyên khởi tánh Không" tròn đầy trong sáng, tức là Phật tánh, hay pháp thân Phật. Thế nên, trong lúc tu thiền, không bám chấp vào bất cứ một cảnh giới nào, thì mới đạt đến quả vị cứu cánh vô sanh pháp nhẫn, tức là quả vị Phật.

Nhân của người tu theo pháp môn Tịnh Độ là niệm Phật cầu vãng sanh, thì quả phải thấy được Phật. Thể như lời dạy của ngài Huệ Viễn (sơ tổ tông Tịnh Độ) thì trong tam muội phải thấy được Phật, tức là đạt đến cảnh giới mình và Phật là một, mà không còn thấy hai. Thế nên, trong lúc niệm danh hiệu Phật hay trong cảnh mộng mà thấy Phật hiện tướng hảo quang minh thì đó là điềm lành, vì nhân hợp với quả.

Nhân của người tu theo Mật Tông là tu trì chân ngôn mật chú để được chư Phật và chư Bồ Tát gia trì. Quả là phải "Tự thân thành Phật" trong hiện đời, tức là nhờ sự gia trì của chư Phật và chư Bồ Tát mà hành giả đạt đến cảnh giới hữu tướng tam mật (ba nghiệp ấn thân khẩu ý đều hợp với chư Phật), rồi đến vô tướng tam mật (tức là mọi hành động cử chỉ đều giống y như oai nghi tế hạnh của chư Phật mà làm lợi ích cho chúng sanh). Trên đường tu hành đạt đến hữu tướng tam mật, do nhờ sức gia trì và lời chỉ dạy của chư Phật mà ba nghiệp thân miệng ý của hành giả mau chóng được thanh tịnh. Đôi khi nếu cần, chư Phật và chư Bồ Tát cũng hiện thân để giáo hóa. Đó là nhân hợp với quả.

Tổng quát, đối với người tu thiền thì khi thấy cảnh giới thánh mà không cho là thánh, thì mới đạt đến cảnh giới lành, tức là ý nghĩa "Ma đến chém ma, Phật đến chém Phật", vì thuộc về vô tướng. Đối với người tu pháp môn niệm Phật, khi trì danh niệm Phật mà thấy Phật hiện tướng hảo quang minh để gia trì hay những cảnh giới lành như hoa sen nở rộ, đất đai đều biến thành cõi lưu ly, v.v... thì đó là cảnh giới lành, vì thuộc về hữu tướng. Đối với người tu trì chân ngôn mật chú thì khi chư Phật hay chư Bồ Tát hiện thân thuyết pháp thì đó là hợp với bản nguyện (thuyết ra thần chú) hay "tam mật gia trì", tức là cảnh giới lành, vì đây thuộc về hữu tướng.

Hành giả phải biết phân biệt tường tận về yếu chỉ và sự hành trì khác nhau giữa các tông phái thì mới nhận chân ra được bổn hoài độ sanh của đức Như Lai, bằng ngược lại thì tuy muốn thăng nhưng vẫn bị đọa, rồi phỉ báng Phật pháp, tạo nghiệp vô gián. Xin trân trọng lưu ý!'

56. tức Tập Mật Kim Cang.

57. Dragpa Gyaltsen, dịch là Xưng Tràng.

58. don-bzang-ba, dịch là Nghĩa Hiền.

59. Choije Kyabchog, cũng gọi là Thù Thắng Y Hỗ Thất Lợi Đà La Ni; gọi tắt là Thắng Y Pháp Vương.

60. đây là bộ kinh Mật giáo quan trọng nhất ở Tây Tạng.

61. chos-kyi dpal-ba, dịch là Pháp Kiết Tường; vốn là một trong những đại đệ tử của Bố Đốn Nhân Ba Thiết.

62. phiền não chướng và sở tri chướng.

63. ngài Bố Đốn Nhân Ba Thiết là vị đại sư giải thích về bộ kinh đó thiện xảo bậc nhất ở Tây Tạng vào đương thời, cũng đã viết quyển Sử Phật Giáo Ấn Độ và Tây Tạng có giá trị cho đến ngày nay.

64. mgon-bzang-ba, vị đệ tử của ngài Bố Đốn Nhân Ba Thiết Ty Cúng Nghị, pháp hiệu Hương Đăng; ngài là vị thành thục về sự tướng của Mật pháp bậc nhất.

65. Kyungpo Lhaypa, dịch là Đồng Tử Phước; vốn là đệ tử thượng thủ của ngài Bố Đốn Nhân Ba Thiết, thuộc phái Ninh Mã (Nyingma).

66. Đây là điềm mộng Đại Sư được pháp quán đảnh.

67. Điềm mộng này biểu thị Đại Sư thừa thọ đức tướng.

68. Gawa Dong, cách Lạp Tát khoảng ba dặm.

69. cảnh giới này, do chính Đại Sư tự thuật lại.

70. Wolkha Cholung, nằm về phía đông của vùng Văn Thanh.

71. tức Bồ Tát Văn Thù.

72. Đương thời, tại Tây Tạng, có những người tu hành, vì hiểu lầm nghĩa lý kinh điển, đối với những sự sám hối như thế, chẳng màng để ý, mà thường ngạo mạn chê cười việc hành trì sám hối; họ cho rằng chỉ việc không nghĩ thiện, không nghĩ ác, hoặc chỉ niệm nhớ trong ba thời quá khứ hiện tại vị lai tâm bất khả đắc, thì có thể tiêu trừ tội chướng. Kết cuộc, khi quả báo đến, dẫu có hối hận cũng quá muộn!

73. Mạn Đà La là tiếng Phạn, dịch nghĩa là Trung Vi. Có nhiều cách giải thích chữ Trung Vi. Trung biểu thị cho tâm; Vi biểu thị cho thủ; có nghĩa là tùy theo nội tâm, mà dùng những phẩm vật thù thắng nhất để cúng dường. Ngoài ra, Trung tức là núi Tu Di; Vi tức là bốn đại bộ châu (Nam Thiện Bộ Châu, Tây Ngưu Hóa Châu, Bắc Câu Lưu Châu, Đông Thắng Thần Châu); Trung Vi tức là đem bảy loại châu báu trong ba ngàn đại thiên thế giới, mà đến cúng dường.

Pháp cúng dường Mạn Đà La tức là phải đầy đủ pháp lục độ bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ (bát nhã), cũng là pháp môn tích tụ tư lương tối thù thắng. Vì vậy, người tu hành ở Ấn Độ và Tây Tạng, hầu hết đều tu pháp cúng dường Mạn Đà La. Đối với người học Kim Cang Thừa, đây là một gia hạnh quan trọng trong bốn gia hạnh.

Phương pháp cúng dường Mạn Đà La là đầu tiên tay trái phải cầm gạo (hoặc dùng đậu) để chấp trì bên cạnh Mạn Đà La, rồi dùng tay phải, y chiếu theo nghi thức mà rải lên trên tấm Mạn Đà La. Vừa rải gạo, vừa tụng kệ tán. Kế đến, dùng hai tay nâng Mạn Đà La lên, tụng chú cúng dường. Kế tiếp đổ gạo ra, và dùng tay phải chà sạch bàn Mạn Đà La, rồi tiếp tục bỏ gạo lên để tu trì.

73. Rdzing-phyi, cách vùng A Khách Tông Duyên Hà về phía bắc hơn mười dặm.

74. gar-mi you tang yung-drung; là vị thừa thọ "Tập Luận" tài giỏi bậc nhất.

75. lúc chuyên tu tại A Khách, Đại Sư thâu nhận thêm bốn người nữa.

76. Hiện nay hội Phật giáo ở Đài Loan có phát hành in ấn bức tranh vẽ ba mươi lăm tượng Phật này.

77. Lhodrag Khenchen Namkha Gyalstsen, 1326-1402; dịch là Hư Không Đồng, thuộc phái Ninh Mã (Nyingma). Ngài Nam Khách Kiên Tham Nhân Ba Thiết vốn là vị đã đạt được thành tựu khi tu pháp Kim Cang Thủ. Bổn Tôn là Bồ Tát Kim Cang Thủ, ngày ngày đều hiện thân thuyết pháp. Ngồi tĩnh tọa trong mật thất, và quán sát đàn tràng tinh tường, Ngài có thể xem thấy những sự việc trong năm trăm năm trước rõ ràng. Trong mộng, Ngài cũng có thể nhớ lại mười sáu kiếp trước của mình, mà không quên mất. Mọi hành động cử chỉ, hoặc khởi tâm động niệm của dân chúng chung quanh chùa Trác Ngõa, Ngài đều biết rõ ràng. Thấy ai có tâm niệm xấu xa, Ngài bèn gọi đến chùa mà khuyên lơn dạy bảo hay đối trị. Người nào bị hoạn nạn, tai họa, chỉ việc nhớ đến hình tượng hay niệm danh hiệu của Ngài thì đều được thoát nạn. Nói chung, công đức thù thắng của ngài Nam Khách Kiên Tham Nhân Ba Thiết thật vô lượng vô biên, không thể ghi hết tận.

78. do ngài Tĩnh Thiên trước tác; sau khi thọ giáo pháp về quyển luận này từ đại sư Kim Châu, tôn giả A Để Sa lại mang và truyền bá quyển luận này tại Tây Tạng.

79. kệ tán này được gọi là "Phạm Quán".

80. chỉ cho luận sư Phật Hộ.

81. chỉ cho Trung Luận Thích.

82. gnyal, phía tây bắc của Cổ Vực Tông.

83. Lo-ro, tại phía tây nam của Cổ Vực Tông.

84. Chos-skyabs bzang-po, là vị truyền thừa giáo phái Giáo Điển thuộc phái Ca Đương.

85. Bra-gor, chùa của phái Ca Đương.

86. Gro-lung-pa. Trác Lũng là tên của một vùng đất. Trác Lũng Ba là tên của một vị Lạt Ma nổi tiếng. Vị này vốn tên là La Truy Hướng Nãi, và là đệ tử đời thứ ba của tôn giả A Để Sa. Vị này có trước tác quyển "Đạo Thứ Đệ", " Giáo Thứ Đệ". Sau này đại sư Tông Khách Ba dùng hai quyển luận đó mà viết thành quyển luận "Bồ Đề Đạo Thứ Đệ Quảng Luận".

87. Dharmaraja Chandrabhadra, vị chứng đắc Mật Thừa tối thượng.

88. Sự thọ ký của Bồ Tát Văn Thù và Diệu Âm Thiên Nữ có khác biệt. Song, thật ra hai vị Bồ Tát này dùng phương thức thọ ký thiện xảo, để giúp cho Đại Sư tu pháp tăng thượng duyên.

89. phu tử nghĩa là thầy trò, tức chỉ cho Bồ Tát Long Thọ và Đề Bà.

90. nếu giới hạn của sở phá quá nhiều thì sẽ thành đoạn kiến; nếu không đủ thì sẽ lạc vào thường kiến.

91. đại tạng kinh, quyển thứ 48, trang 690.

Chương III. Hóa độ vua chúa. Tổ chức pháp hội cúng dường.

A. Hóa độ vua chúa

1. Lá thơ đó hiện còn tồn trữ trong bộ trước tác toàn tập của Đại Sư.

2. Grags-pa rgyal-mtsham, 1374-1432. Ông có trí huệ siêu việt. Lúc nhỏ, đọc qua kinh thư, rồi chỉ cần tu học chút ít là ông tự có thể thông đạt vô ngại. Lúc còn bé, ông đã theo ngài Đồng Tự Tại xuất gia, lại y theo ngài Trát Ba Ráng Khúc Nhân Ba Thiết khai mở yếu chỉ tận cùng của ba tạng giáo điển. Do đó, ông có danh hiệu là "Xưng Tràng Kiết Tường Hiền". Chẳng bao lâu, ông kế thừa pháp vị của pháp vương Phước Xưng, trụ trì chùa Triết Đường (Mạt Ma Chủ Ba Cát Cử đời thứ mười), diễn giảng luận Thích Lượng của luận sư Pháp Xưng ở Ấn Độ. Do biện tài vô ngại, nên ông được các học giả khâm phục.

Năm 1385, ông được vua Mạt Ma Chủ Ba truyền ngôi. Năm 1388, ông được vua Chu Nguyên Chương tặng ấn bằng vàng, ban hiệu cho ông ta là "Quán Đảnh Quốc Sư".

Vua Trát Ba Kiên Tham vốn đã từng xuất gia, nên rất mực tôn kính hành giả của các tông phái ở Tây Tạng. Nghe có vị đại đức nào thâm thông Phật pháp, nhà vua nhất định đến cầu thỉnh pháp. Nhờ nghe lời khuyên của Đại Sư, nhà vua chấn hưng Phật pháp; dùng giáo lý và giới luật nhà Phật mà thưởng phạt người hiền và kẻ ác, cùng lập pháp an dân. Nhà vua đã từng kiến lập một trăm ngàn đại pháp hội Mạn Đà La suốt ba mươi tám năm trường mà không ngừng nghỉ.

Vua Trát Ba Kiên Tham là một minh quân đa trí, với pháp lệnh oai nghiêm, dùng chánh pháp để trị dân, cung kính chư tăng thạc đức. Biết rõ danh đức của Đại Sư, vua Trát Ba Kiên Tham hết lòng hỗ trợ phái Hoàng Giáo (do Đại Sư sáng lập). Điển hình, khi Đại Sư thiết lập đại pháp hội cúng dường ở chùa Đại Chiêu tại Lạp Tát, nhà vua cũng hết lòng hỗ trợ.

Năm 1406, vua Minh Thành Tổ lại ban hiệu cho vua Trát Ba Kiên Tham là "Quán Đảnh Quốc Sư Xiển Hóa Vương", cùng một ngọc ấn.

3. tức chùa Cổ Tang Phác.

4. Phật giáo đại tạng kinh quyển thứ 48, cuốn thứ 1.

5. lá thư này vẫn còn lưu trữ trong tập trước tác của Đại Sư.

6. Sakya ye-shes, 1352-1435, người Sát Cống Đường.

7. đức Hoạt Phật đời thứ mười chín, hóa sanh ở vùng Thanh Hải trong năm 1890, chín tuổi vào kinh đô. Triều đình nhà Thanh vẫn đối đãi như bậc đại quốc sư. Năm 1947, chánh phủ Quốc Dân Đảng lại ban hiệu là "Hộ Quốc Tịnh Giác Phụ Giáo Đại Sư Cảnh Gia Hô Đồ Khắc Đồ". Năm 1957, đức Hoạt Phật Cảnh Gia theo chánh phủ Quốc Dân Đảng sang Đài Loan, và đã từng nhận chức làm cố vấn cho tổng thống Tưởng Giới Thạch, cùng chức tổng thư ký của hội Phật Giáo Trung Quốc. Mồng bốn tháng ba năm 1957, đức Hoạt Phật Cảnh Gia nhập tịch tại Đài Bắc ở Đài Loan.

B. Tổ chức pháp hội cúng dường và cầu nguyện

1. từ mồng một đến rằm tháng giêng.

2. Grum-bu-lung, dưới hạ lưu sông Lạp Tát.

3. do công chúa Văn Thành mang từ Tàu sang Tây Tạng.

4. tượng này bị Trung Cộng phá hủy vào năm 1959. Vài người Tây Tạng mang được ba bức mặt của tượng này sang Ấn Độ. Hiện nay được đặt tại chùa Đại Chiêu ở Dharmasala, Ấn Độ.

5. vốn là một trong tám mươi bốn vị đại thành tựu ở Ấn Độ.

6. tức đại sư Tông Khách Ba.

7. tức quyển Phật Sở Hạnh Tán. Hiện nay, đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười bốn vẫn còn giữ phong tục giảng giải bộ luận này vào ngày rằm tháng giêng.

Chương IV. Nhà cách mạng tôn giáo vĩ đại ở Tây Tạng

A. Đề xướng việc nghiêm trì giới luật của ba thừa (Tiểu Thừa, Bồ Tát Thừa, Mật Thừa) thanh tịnh.

1. Dga'-ba gdong, nằm ở phía tây của Lạp Tát, là một trong sáu tự viện nổi tiếng về việc giảng kinh luận của phái Ca Đương ở Tiền Tạng. Chùa này ước chừng được xây vào thế kỶ thứ XI.

2. guam-rtse-sdeng, là ngôi cổ tự của phái Ca Đương, nằm gần chùa Nhạ Trân.

3. như y năm điều, bảy điều, v.v...

 

B. Cải cách và xiển dương đường hướng tu học Phật pháp bằng cách hợp nhất mọi giáo nghĩa Luật giáo Hiển giáo, Mật giáo của tất cả tông phái ở Ấn Độ và Tây Tạng về nơi biển Phật pháp.

1. Legshay Serteng, được gọi là Thiện Thuyết Kim Man.

2. Bồ Đề nghĩa là quả vị Phật. Đạo nghĩa là con đường tu học chứng quả vị Phật. Thứ Đệ nghĩa là thuyết minh về quá trình và giai đoạn tu học, như từ thấp lên cao, từ cạn đến sâu, tiệm thứ tuần tự, không thể nhảy cấp, thiếu sót.

3. do thầy trò Khương Lũng Ba trước tác.

4. Lam-rim chen-mo, Phật giáo đại tạng kinh thứ 49, quyển một.

5. gọi là Quán, tức là chánh kiến.

6. Ý của Bồ Tát bảo rằng quyển này được viết xong, thì khi xem qua, tuy không thể liễu giải hoàn toàn về nghĩa Không hay pháp tu Tỳ Bà Xá Na, mà có thể giúp một số người tu hành đạt được lợi ích, nên gọi là đạt được lợi ích trung đẳng. Nếu hoàn toàn không viết quyển này thì ngay cả lợi ích hạ đẳng cũng không thể đạt được.

7. một vị tinh thông kinh điển Hiển-Mật giáo, trân quý ba học vô lậu (giới định huệ), đương thời đang gánh vác trọng trách hoằng dương chánh pháp.

8. một vị trí huệ cao thâm, đạt công đức chứng đắc giáo pháp, có tâm muốn cứu độ chúng sanh, trụ trì thánh giáo.

9. người kế nhậm pháp vị của Đại Sư sau này.

10. những vị đã từng thọ giáo trực tiếp hay gián tiếp từ tôn giả A Để Sa.

11. thuộc phái Ca Đương.

12. với số lượng, quyết định, cùng theo thứ lớp.

13. Ở Tây Tạng mỗi lần tổ chức pháp hội hay truyền pháp viên mãn xong, để biểu thị cảm tạ tri ân vị Tôn Sư, tín chúng thường dâng các phẩm vật cúng dường. Trong các phẩm vật, cúng dường đèn dầu bằng tô lạc là quý nhất, vì đó biểu hiện cho sự cầu nguyện chứng đắc trí huệ vô thượng.

14. Ý của Đại Sư là muốn Đạt Mã Nhân Cần viết chú giải cho quyển luận này. Bàn thâm sâu hơn, Đại Sư có ý phó chúc truyền pháp cho Đạt Mã Nhân Cần.

15. do luận sư Pháp Xưng tạo.

16. phương pháp chú giải của Thiên Vương Huệ, người sau gọi là "Huấn Cổ", tức là dùng lời văn hiện tại mà giải thích văn nghĩa thời xưa.

17. dẫu có thiên tánh thông minh tài trí.

18. thứ lớp sanh khởi, thứ lớp viên mãn.

19. thuộc phái Cát Cử.

20. bộ đại luận này cũng gọi là "Đại Kim Cang Trì Đạo Thứ Đệ Khai Hiển Nhất Thiết Mật Yếu Luận", và dùng chánh kiến vô cấu nhiễm của Bồ Tát Văn Thù làm nền tảng. Hiện tại được lưu trữ trong đại tạng kinh, quyển thứ 49, cuốn thứ 6.

21. bổn tánh và chứng tướng.

22. cấp bậc trước sau.

23. đoạn diệt lỗi lầm.

24. Jamchen Choje, hay Thích Ca Dã Hiệp (Shakya Yeshi) vị đã từng thay thế Đại Sư sang Tàu, làm quốc sư cho vua Minh.

25. người ưa phiến luận.

26. lập địa thành Phật.

27. hay đệ nhất nghĩa đế

28. theo nhận định của họ.

29. tạo tác và lãnh thọ.

30. từ sắc pháp khởi ra.

31. hiểu rõ không khác.

32. Sự Bộ, Hành Bộ, Du Già Bộ.

33. trừ phái Trung Quán-Ứng Thành ra, những phái khác đều sanh khởi lý chánh kiến gia hạnh.

Chương V. Vị tổ sư của phái Hoàng giáo (Cách Lỗ hay tân Ca Đương)

1. vị thầy bổn sư chính yếu.

2. Đạo Thứ Đệ của Kim Cang Trì

3. Grags-pa rgyal-mtshan, người đệ tử trì giới bậc nhất, có đồng danh hiệu với vua Tây Tạng.

4. đệ tử truyền pháp.

5. Thiện Diệu Kiết Tường Hiền là danh hiệu của Khắc Chủ Kiệt. Bài kệ này bảo rằng Khắc Chủ Kiệt ngồi trước mặt Đại Sư, giống như bảy núi vàng đứng trước núi Tu Di, mà không có ngọn núi nào cao sánh bằng.

6. đệ tử trì giới thanh tịnh bậc nhất.

7. danh xưng đầy đủ là Tồi Đăng Nam Kết Lãnh,

Dga'-ldan-rnam-par rgyal-ba'i gling, hay Ganden, tức Cách Lỗ; chữ Phạn gọi là Đâu Suất.

8. Ý nghĩa của đoạn này nói về nước trong tịnh bình vốn là nước hòa hợp của thân, tức là pháp thân, báo thân, ứng thân; thuyết về hai thân (sắc thân và pháp thân) vốn là lời thuyết pháp bất liễu nghĩa. Thật ra, đây là lời ẩn mật, chỉ cho ba phái truyền thừa (Giáo Điển, Giáo Thọ, Giáo Giới) của tôn giả A Để Sa đều truyền trao cho Đại Sư.

9. tu pháp hòa hợp giữa giấc mộng và cõi chết; tu pháp hòa hợp giữa cảnh mộng và thân trung ấm; tu pháp hòa hợp giữa cảnh tỉnh thức và sự sống; đó là những mật pháp Vô Thượng Du Già Mật.

10. tức là kinh Tập Mật Căn Bổn.

11. xây cất chùa xong, chọn ra ngày cúng dường để gia trì, gọi là Khai Quang.

12. Yamantaka, hay Đại Oai Đức Minh Vương.

13. Sbyan-snga bsod-nams bzang-po, 1380-1416, vương đệ của vua Trát Ba Kiên Tham, và đã là đệ tử của Đại Sư trước kia.

14. hóa thân của Bồ Tát.

15. lược bỏ phần Phá Lập Giáo Chứng.

16. nằm trong chùa Cách Đăng.

17. văn nghĩa của bộ Nhập Trung Luận rất thâm sâu, khó có thể thông đạt. Quyển Nhập Trung Luận do luận sư Nguyệt Xưng người Ấn Độ, thuộc nước Tát Mạn Đạt, sanh vào khoảng giữa thế kỶ thứ bảy và thứ tám, là sơ tổ của phái Trung Quán-Ứng Thành (Prasaingika). Luận Sư chuyên tu học mật pháp vô thượng, chứng đắc được quả vị cứu cánh, đạt như huyễn thiền định, thành tựu bi trí bất động thù thắng. Dưới tòa của luận sư Phật Hộ, luận sư Nguyệt Xưng là một vị đại A Xà Lê trong phái Trung Quán có khả năng dẹp trừ kiến chấp của chúng sanh, hiển dương nghĩa lý thâm sâu rộng rãi của Bồ Tát Long Thọ. Luận Sư dùng mười loại phân lượng của tâm Bồ Đề, rút ra danh tự của Thập Địa trong kinh Hoa Nghiêm mà biện biệt viết thành mười phẩm. Phẩm thứ sáu (hai phần ba của bộ luận, thuộc phần Bồ Đề Tâm Hiện Tiền Địa) Luận Sư phát dương kiến giải đặc biệt bằng cách phá luận Duy Thức. Tại Tây Tạng, bộ Nhập Trung Luận được xem là trước tác đại biểu của các luận gia thuộc phái Trung Quán.

18. Đại Tạng Kinh, quyển thứ 48.

19. Gyhyasamaja Tantra, có 17 phẩm.

20. mỗi nửa tháng, tăng chúng vân tập, cùng nhau tụng hai trăm năm mươi giới, và kiểm tra xem coi có ai phạm giới nào không.

21. một vị hộ pháp của Đại Sư.

22. văn, tư, tu.

23. biểu thị cho giáo pháp của Đại Sư sẽ truyền khắp Mông Cổ, các vùng đông bắc, và Trung Quốc.

24. sau khi Đại Sư viên tịch khoảng 509 năm.

25. đặc biệt là tại núi Ngũ Đài.

26. vừa sau khi Đại Sư viên tịch.

27. Phật Tỳ Lô Giá Na là đức Đại Nhật Như Lai của bộ Thai Tạng.

28. người kế thừa ngôi pháp vị.

29. Vô Thượng Du Già và Du Già Mật Pháp.

30. đôi mắt trí huệ.

Chương VI. Phái Hoàng Giáo (Cách Lỗ) hoằng pháp khắp nơi

1. giới Tỳ Kheo, Bồ Tát, Kim Cang.

A. Sự truyền thừa của chùa Cách Đăng (Ganden).

1. Cổ Tào dịch là Thiệu Thắng. "Thiệu" nghĩa là kế thừa địa vị pháp vương tử. "Thắng" nghĩa là Phật. "Kiệt" nghĩa là danh xưng tôn quý.

2. Se-ra chos-sdings; hiện tại là chùa Sắc Lạp.

3. điềm mộng này biểu thị rằng trước khi đến gặp Đại Sư, Khắc Chủ Kiệt chưa từng tìm được vị tôn sư nào để nương tựa y chỉ, nên tâm rất lo sợ. Gặp được Đại Sư cũng giống như gặp Bồ Tát Văn Thù.

B. Sự truyền thừa của chùa Triết Bang (Drepung).

1. Bjam-dbyans chos-rje, hay Diệu Âm Pháp Vương,

1379-1449.

2. đáo bỉ ngạn, tức qua được dòng sông sanh tử.

3. A Vượng La Bốc Tạng Gia Mục Thố.

4. Án Ma Ni Bát Di Hồng.

C. Sự truyền thừa của chùa Sắc Nhạ (Sera).

1. Sakya ye-shes, hay Ráng Khâm Kiếp Kết (Đại Từ Pháp Vương) 1352-1435; sinh quán tại Sát Cống Đường.

2. nơi vua chúa Tây Tạng thường đến tu học.

3. ngôi chùa cũ của vua Tây Tạng.

4. dịch là Hoa tỳ kheo ny. Hoa tỳ kheo ny vốn là công chúa của vua Tây Tạng. Bà ta có đôi mắt bồ câu, hàm răng trắng bạch, nên nhiều hoàng tử cùng công tử giàu sang thường đem rất nhiều sính lễ đến cầu hôn, nhưng không được. Năm mười lăm tuổi bà ta đột nhiên bị bịnh cùi hủi. Không những các người cầu hôn đều bỏ chạy, mà ngay cả phụ vương và hoàng hậu cũng lánh xa.

Bị bịnh khổ bức rức thân tâm, và bị thế nhân lạnh nhạt ruồng bỏ, bà ta đau lòng, một mình ra khỏi hoàng cung, đi đến các hang động thâm sâu không dấu chân người ở núi Tuyết Sơn, và ân cần lễ bái Bồ Tát Quán Thế Âm, để cầu nguyện Bồ Tát từ bi giải trừ những nỗi thống khổ của thân tâm. Ngày ngày, trừ lúc đi hái rau dại để dùng, trong tất cả thời gian còn lại, bà ta đều thành tâm lễ bái Bồ Tát Quán Thế Âm. Mười hai năm sau, vào một ngày nọ, đang thành tâm lễ bái, bà ta chợt thấy Bồ Tát Quán Thế Âm đứng đối diện trước mặt. Bấy giờ, toàn thân của bà ta cảm thấy thanh tịnh vô cùng, và bịnh cùi hủi dần dần thuyên giảm. Lúc đó, bà ta bạch với Bồ Tát:

- Con thấy rất nhiều kẻ hại trời tổn đất, Ỷ quyền cậy thế, lòng lang dạ thú. Ác ôn như thế, e rằng Bồ Tát không thể cứu độ họ được. Xin thỉnh hỏi Bồ Tát, muốn cứu độ những kẻ này, thì phải dùng biện pháp gì?

Bồ Tát Quán Thế Âm đáp:

- Phương pháp cứu độ chúng sanh của Ta có rất nhiều. Mỗi loại đều tùy theo căn tánh của chúng sanh mà hiển hiện.

Bồ Tát nói xong, bèn hiển hiện ra mười một bộ mặt, cùng truyền trao Mật pháp rất linh nghiệm cho bà ta, rồi phó chúc:

- Chúng sanh trong đời mạt pháp căn tánh yếu kém, cang cường khó điều phục. Mật pháp này là pháp môn cứu độ họ rất vi diệu. Từ nay, con hãy dùng Mật pháp này, đi cứu độ những chúng sanh khó độ.

Nói xong, Bồ Tát Quán Thế Âm hóa thành một luồng ánh sáng trắng trong như khói sương, rồi trong chớp mắt biến mất vào hư không.

Sau khi được Bồ Tát Quán Thế Âm gia trì và đạt đại thành tựu, bà ta lập tức trở về quê quán. Những người trong vùng phụ cận thấy bà ta không những là vị thầy thuốc thần kỳ chuyên trị những bịnh nan y, mà còn có sắc đẹp lộng lẫy, nên rất kinh ngạc. Từ đó, rất nhiều thanh niên trai tráng đua nhau đến cầu hôn. Bấy giờ, bà ta đã sớm nhận biết thế gian là vô thường, ô uế khổ đau, nên xả bỏ hết tất cả sự phú quý vinh hoa, mà xuất gia làm tỳ kheo ni. Về sau, bà ta dùng Mật pháp của Bồ Tát Quán Âm mười một mặt mà cứu độ rất nhiều người, và trở thành tổ sư truyền thừa mật pháp Bồ Tát Quán Âm mười một mặt đời thứ nhất. Người Tây Tạng gọi bà ta là Hoa Tỳ Kheo Ny.

5. là một trong mười tám vị A La Hán.

6. chỉ cho người thọ trì mười bộ kinh luận lớn.

D. Sự truyền thừa ở chùa Trát Thập Luân Bố (Tashi Lhupo).

1. Dge-dun grub-pa, 1391-1475, dịch là Tăng Thành, vốn là vị Đạt Lai Lạt Ma đời thứ I của Tây Tạng.

2. đây là mật ngữ Không Hành.

3. cũng là mật ngôn của Không Hành.

4. đệ tử của Khắc Chủ Kiệt.

G. Sự hoằng truyền tại vùng Từ Thị Châu ở Xương Đô.

1. đó là nơi mà xưa kia khi ngủ qua đêm tại vùng Xương Đô, Đại Sư được ngài Ma Cáp Két Lạp thọ ký.

 

K. Sự hoằng pháp ở Hậu Tạng.

1. một vị tăng nổi tiếng về trì giới luật.

2. dịch là trâu chết.

3. Hậu Tạng được chia thành ba vùng thượng, trung, hạ.

4. trụ trì chùa Hà Lỗ.

5. thượng và hạ là chỉ cho phương hướng.

L. Danh tánh của các vị Đạt Lai Lạt Ma và Ban Thiền Lạt Ma.

i. Đạt Lai Lạt Ma và sự chuyển sanh.

1. Altan Khan, cháu đời thứ mười bảy của vua Thành Cát Tư Hãn.

2. Dalai; nghĩa là "đức rộng như biển", nên dịch nghĩa Đạt Lai là Đại Hải (biển rộng).

ii. Ban Thiền Lạt Ma (hay Ban Thiền Ngạch Nhĩ Đức Ni).

1. thủ lãnh bộ lạc Hòa Thác Đặc của Mông Cổ.

2. nghĩa là vị có văn võ toàn tài.

3. Pan-dlen, nghĩa là Phạm Ngữ Học Sư.

4. C'en-po, nghĩa là Đại.

5. hóa thân, hay chuyển sanh.

Chương VII. Lược thuật về những tông phái chính ở Tây Tạng

A. Phái Ninh Mã (Nyingmapa, Hồng giáo).

1. Run-ma-pa, hay Ningma, tức là Hồng giáo.

2. Samyey, hay bSam-yas, từ năm 762 đến năm 763.

3. tức có tha tâm thông.

4. được ban truyền bí mật.

5. thuộc thời Tiền Truyền Phật Giáo.

6. dung hợp thành một, gọi là Du Già.

7. tức là năng sở đều quên.

B. Phái Ca Nhĩ Cư (Kagyudpa, Cát Cử, hay phái Bạch Giáo).

1. Marpa (Mar-palo-tsa-ba), 1012-1097.

2. Naropa (1016-1100), được ngài Địch Lộ Ba (Tilopa, 988-1069) ở vùng Mãnh Gia Lạp của Ấn Độ truyền pháp Tốc Đạo Du Già.

3. Dwag-po lha-rje, hay Gampopa (Cương Ba Ba) 1079-1153.

C. Phái Tát Ca (Sakyapa, hay phái Đa Sắc).

1. Sakya, hay Bạch Sa, cách vùng Nhật Cách Tắc của Hậu Tạng về phía tây bốn mươi tám dặm.

2. Sakya Pandita, 1182-1251, vốn là con của Cụ-Khâm-ổ-bố (1150-1203).

3. 1235-1280, cháu của ngài Tát Ban Bán Trạch Đa.

4. dưới Hoàng Đế, trên tất cả mọi người.

5. tư lương, gia hạnh, kiến, tu, cứu cánh.

Chương VIII. Kết luận

1. hiện tại, vị Ban Thiền Lạt Ma đời thứ XI tuy được đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ XIV công nhận, nhưng lại bị Trung Cộng bắt giam đi biệt tích.

2. hóa thân của vị Đạt Lai Lạt Ma ở đời trước.

3. hóa thân của vị Ban Thiền Lạt Ma ở đời trước.


Tài liệu nghiên cứu và soạn dịch

1/ Tông Khách Ba Đại Sư Ứng Hóa Nhân Duyên Tập, pháp sư Tu Huệ biên thuật.

2/ Tây Tạng Phật Giáo Mật Sử, Lý Ký Thành biên soạn.

3/ Tây Tạng Phật Giáo Cách Lỗ Phái Khái Quán, pháp sư Quán Không biên soạn.

4/ Phái Ninh Mã của Phật Giáo Tây Tạng, pháp sư Pháp Tôn biên soạn.

5/ Tây Tạng Phật Giáo Sử, pháp sư Thánh Nghiêm biên soạn.

6/ The Life and Teachings of Tsong Khapa, edited by Prof. R. Thurman.

7/ The History of The Sakya Tradition, by Chogay Trichen.

8/ Karmapa The Black Hat Lama of Tibet, compiled by Nik Douglas and Meryl White.

9/ Masters of the Nyingma Lineage, by Tarthang Tulku.

10/ Enlightened Beings: Liffe Stories From The Ganden Oral Tradition, compiled and translated by Janice D. Willis.


Chương | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | Chú thích

 


Cập nhật: 1-8-2000

Trở về mục "Phật giáo năm Châu"

Đầu trang