Trang tiếng Anh

Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt   

   

...... ... ..  . ..  .  .
BA MƯƠI BA VỊ TỔ ẤN-HOA
H.T Thích Thanh Từ soạn dịch
Tu Viện Chơn Không 1971
Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh Ấn Hành - PL. 2534 - 1990

 

MỤC LỤC ẤN ĐỘ TRUNG HOA
 

 

ẤN ĐỘ

01-Tổ Ma-Ha-Ca-Diếp. (Mahakasyapa) 15-Tổ Ca-Na-Đề-Bà. (Kanadeve)
02-Tổ A-Nan. (Ananda) 16-Tổ La-Hầu-La-Đa. (Rahulata)
03-Tổ Thương-Na-Hòa-Tu. (Sanakavasa) 17-Tổ Tăng-Già-Nan-Đề. (Sanghanandi)
04-Tổ Ưu-Ba-Cúc-Đa. (Upagupta) 18-Tổ Già-Da-Xá-Đa. (Gayasata)
05-Tổ Đề-Đa-Ca. (Dhrtaka) 19-Tổ Cưu-Ma-La-Đa. (Kumarata)
06-Tổ Di-Dá-Ca. (Miccaka) 20-Tổ Xà-Dạ-Đa. (Jayata)
07-Tổ Bà-Tu-Mật. (Vasumitra) 21-Tổ Bà-Tu-Bàn-Đầu. (Vasubandhu)
08-Tổ Phật-Đà-Nan-Đề. (Buddhanandi) 22-Tổ Ma-Noa-La. (Manorhita)
09-Tổ Phục-Đà-Mật-Đa. (Buddhamitra) 23-Tổ Hạc-Lặc-Na. (Haklena)
10-Tổ Hiếp-Tôn-Giả. (Parsvika) 24-Tổ Sư-Tử. (Aryasimha)
11-Tổ Phú-Na-Dạ-Xa. (Punyayasas) 25-Tổ Bà-Xá-Tư-Đa..(Basiasita)
12-Tổ Mã-Minh. (Asvaghosha) 26-Tổ Bất-Như-Mật-Đa. (Punyamitra)
13-Tổ Ca-Tỳ-Ma-La. (Kapimala) 27-Tổ Bát-Nhã-Đa-La. (Prajnatara)
14-Tổ Long-Thọ. (Nagarjuna) 28-Tổ Bồ-Đề-Đạt-Ma. (Bodhidharma)

 

 

 

1. Tổ Ma-Ha-Ca-Diếp  (Mahakasyapa)
Đồng thời đức Phật

 

 

Ngài dòng Bà-la-môn (Brahmana) ở nước Ma-Kiệt-Đà, cha tên Ẩm-Trạch, mẹ tên Hương-Chí. Thuở bé, Ngài dung nghi trang nhã, toàn thân màu vàng, ánh sáng chiếu rất xa. Thầy tướng xem tướng ngài nói: 

─ Đứa bé nầy đời trước có phước đức thù thắng, lẽ ưng xuất gia 

Cha mẹ Ngài nghe nói lo sợ,cùng nhau thầm bàn (sẽ cưới vợ đẹp để làm nhụt chí của nó). Vừa lớn lên, cha mẹ liền lo chọn người lập gia thất cho ngài, nhưng ngài một bề từ chối, sau cùng bất đắc dĩ ngài phải nói:

─ Có người con gái nào thân đồng màu sắc như con, con mới ưng cưới.

Cha mẹ ngài bèn đúc một tượng vàng, đẩy đi khắp trong nước, tìm người nữ nào giống màu sắc ấy, cưới cho ngài. Quả nhiên, gặp được một cô con gái giống hệt như ngài, thế là ngài phải lập gia đình

Bởi đời đức Phật Tỳ Bà Thi (Vipasyin), sau khi Phật Niết-bàn, chúng xây tháp thờ Xá-lợi, trong tháp có an trí một pho tượng Phật phết vàng. Lâu ngày pho tượng trên mặt bị lở khuyết. Khi ấy, ngài ca-diếp là thợ đúc vàng, có cô gái nhà nghèo, vì thấy mặt Phật hư khuyết, cô còn một đồng tiền vàng đem đến nhờ Ngài ca-diếp nấu ra để phết lại tượng Phật.Thấy cô phát tâm tu bổ tượng Phật, ngài rất hoan hỷ đứng ra làm chu tất việc nầy, nhơn đó, hai người cùng nguyện đời đời sẽ làm vợ chồng, mà coi như đôi tri-kỷ, chớ không vì tình dục.

Do phước báo đó nên 91 kiếp thân thể hai vị đều toàn một màu vàng. Sau sanh cõi Phạm-thiên, hết phước cõi Phạm-thiên chết, sanh về cõi nầy trong nhà Bà-là-môn giàu có hiện tại. Tuy hiện nay hai vị làm vợ chồng, mà sống như tình tri-kỷ, không có ý dâm dục.
Đến sau, cả hai đều xin cha mẹ xuất gia. Cha mẹ bằng lòng,ngài liền xuất gia làm Sa-môn vào núi tu hạnh Đầu-đà (Dhuta). Một hôm,nhơn nghe trong hư không có tiếng bảo: 

─ Phật đã ra đời, nên đến đó thọ giáo. 

Ngài liền tìm đến tịnh-xá Trúc-Lâm, chí thành đảnh lễ Phật. 

Phật bảo: 

─ Lành thay Tỳ-kheo đến đây, hãy cạo bỏ râu tóc đi. 

Ngài liền cạo bỏ râu tóc, thọ giới Tỳ-kheo, mặc y cà-sa. Từ đây, ngài theo Phật hiểu sâu giáo Pháp, tinh tấn tu hành không lúc nào lơi lỏng, cho đến chứng quả A-La-Hán. Có lần ngài từ xa đến ra mắt Phật. Các chúng Tỳ kheo ngồi vây quanh Phật, trông thấy ngài mặc y bằng vải rách, thân hình tiều tụy, có ý thầm khi. Phật biết, bèn bảo:

─ Ca-Diếp đến đây! Ta nhường nửa tòa cho ngồi. 

Ngài vẫn không dám ngồi. Phật bảo các Tỳ-kheo: 

Ta có đại từ đại bi, các thiền-định tam-muội và vô lượng công đức để tự trang nghiêm. Tỳ-kheo Ca-Diếp cũng như thế. Do đó,ta nhường nửa tòa cho Ca-Diếp ngồi. Chúng Tỳ-kheo đều dứt tâm ngạo mạn, lại thầm cung kính ngài.

Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu ). Phật bảo :

─ Ta có chánh Pháp nhãn tạng, Niết-bàn diệu-tâm, pháp môn mầu nhiệm, chẳng lập văn-tự, ngoài giáo lý truyền riêng, nay giao phó cho ngươi. Ngươi khéo gìn giữ chánh pháp nầy, truyền trao mãi đừng cho dứt, đến sau sẽ truyền cho A-Nan. Thế-Tôn đến trước tháp Đa-Tử gọi Ma-Ha-Ca-Diếp đến chia nửa tòa cho ngồi, lấy y Tăng-Già-Lê quấn vào mình Ca-Diếp, rồi nói kệ phó pháp :

Pháp bổn pháp vô pháp 
vô pháp pháp diệc pháp 
Kim phó vô pháp thời 
Pháp pháp hà tằng pháp. 

 Dịch: 

Pháp gốc pháp không pháp 
Pháp không pháp cũng pháp 
Nay khi trao không pháp 
Mỗi pháp đâu từng pháp. 
Ngài già yếu, Phật nhiều lần khuyên: 

─ Ca-Diếp tuổi đã già, nên ở một chổ nhận những thức cúng dường của thí chủ, chớ đi khất thực nhọc nhằn.

Ngài bạch Phật :

─ Con tuy già yếu, song không dám ở một chổ thọ sự cúng dường của thí chủ. Vì sợ e sau này, các Tỳ kheo đời sau sẽ nói :

─ Đệ tử lớn của Phật trước kia vẫn ở một chỗ thọ sự cúng dường, rồi họ sanh phóng túng. 
Lúc Phật Niết-bàn tại thành Câu-Thi-Na trong rừng Sa-La, thì ngài đang ở trong động Tất-Bát-La (SthaviRa) trên núi Kỳ-Xà-Quật. Nghe tin Phật Niết-bàn, ngài và 500 đệ tử vội vã hướng về thành Câu-Thi-Na.  Đến nơi, đã đễ Phật vào kim-quan, ngài buồn bã. Thầy trò đi nhiễu kim-quan ba vòng, rồi đảnh lễ Phật. Khi ấy, hai bàn chân Phật duỗi ra ngoài kim-quan để an ủi ngài. Ngài vuốt ve hai bàn chân Phật, lòng rất bi thảm.

Sau khi thiêu thân Phật xong,ngài tuyên bố với chúng Tỳ-kheo: 

─ Xá-lợi của Phật giao cho trời, người xây tháp thờ làm ruộng phước, còn trách nhiệm Tỳ-kheo chúng ta phải lo kết tập kinh điển để lưu lại đời sau.

Ngài bèn nói kệ : 

Như-Lai đệ tử 
Thả mạc Niết-bàn
Đắc thần thông giả 
Đương phó kiết tập 

Dịch: 

Đệ tử Như-Lai 
Chớ vội Niết-bàn 
Người được thần thông 
Nên đến kiết tập . 

Thế là, sau Phật Niết-bàn 7 ngày, Ngài triệu tập 500 vị đại A-La-Hán tụ hợp tại núi Kỳ-Xà-Quật, trong động Tất-Bát-La kiết tập.nChỉ có tôn giả A-Nan không được dự hội, vì chưa sạch các lậu, Tôn-giả A-Nan buồn bả, suốt đêm chuyên tâm thiền-định, đến gần sáng liền chứng ngộ, các lậu dứt sạch được quả A-La-Hán .

Sau đó,tôn giả được mời dự hội. Ngài thưa toàn chúng:

─ Tỳ-kheo A-Nan nhớ giỏi bậc nhất, thường theo hầu hạ Như-Lai, nghe pháp Phật nói ghi nhớ không sót, như nước rót vào bình không rơi ngoài một giọt, nên mời kiết-tập tạng Kinh và tạng Luận . Mời Tỳ-kheo Ưu-Ba Ly kiết tập tạng Luật. Toàn chúng đều hoan-hỷ chấp thuận.

Hội kiết-tập nầy, Ngài là chủ-tịch. Sau cuộc kiết tập đã viên mãn,nhơn duyên độ sanh đã xong xuôi, Ngài thấy tuổi đã già yếu lắm, bèn gọi tôn giả A-Nan đến bảo:

─ Khi Như-Lai sắp vào Niết-bàn có dặn ta đem chánh pháp nhãn tạng giao phó cho ông. Nay ta sắp ẩn, đúng lúc giao phó cho ông, ông phải khéo gìn giữ chớ để đoạn dứt.

Ngài nhớ lời Phật dặn giữ gìn y bát của Phật đợi đến Phật Di-Lặc ra đời sẽ trao lại, nên dự bị vào núi Kê-Túc nhập định. Liền đó, Ngài đi từ giả vua A-Xà-Thế và những người thân thuộc, rồi vào núi Kê-Túc trải tòa cỏ ngồi an nhiên nhập định

 


 

2. Tổ A-Nan (Ananda) 
Sanh sau Phật 30 năm

 

 

Ngài con vua Hộc-Phạn, dòng Sát-đế-lợi, ở thành Ca-tỳ-la-vệ, em ruột Đề-bà-đạt-đa, em con nhà chú của Phật Thích Ca. Thuở nhỏ, ngài có nhiều tướng tốt và thông minh tuyệt vời. Đến 25 tuổi xin theo Phật xuất gia. 

Một hôm, Phật cần chọn người làm thị giả, tất cả hội chúng lần lượt đứng ra xin làm thị giả, mà Phật không bằng lòng. Sau cùng, Tôn-giả Đại-Mục-Kiền-Liên nhập định biết tôn ý Phật muốn A-Nan làm thị giả. 

Đại chúng cử Tôn- giả Mục-Kiền-Liên, Xá-Lợi-Phất, v, v…. đến yêu cầu Ngài làm thị giả. Ngài nhiều lần từ chối, song các Tôn-giả một bề nài nỉ buộc lòng Ngài phải xin Phật ba điều, nếu Phật ưng cho, Ngài mới dám làm thị giả. 

1/ Không theo Phật thọ trai riêng, nếu thí chủ không mời ngài. 

2/ Không mặc y thừa của Phật. 

3/ Không đến Phật phi thời. Thế-Tôn chẳng những chấp thuận lời xin của Ngài, mà còn khen ngợi Ngài thông minh biết dự đoán trước những điều sẽ xẩy ra. Thế là, Ngài theo làm thị giả Phật ngót 25 năm.

Hôm nọ, Ngài đi khất thực về đến tịnh-xá Phật, thấy Di mẫu Ma-ha Ba-Xà-Ba-Đề đang đứng tựa cửa khóc. Di mẫu quần áo bụi bặm, chân dính bùn nhơ, vẻ người bi thảm. Ngài đến gần hỏi duyên cớ. Biết Bà từ xa tìm đến xin Phật xuất gia, đôi ba phen năn nỉ mà Phật quyết định không cho. Ngài cảm động, vào đảnh lễ Phật xin cho Bà được xuất gia. Phật vẫn nhiều lần từ chối, Ngài vẫn kiên chí xin kỳ được mới thôi. Thế là mở đầu cho phái nữ xuất gia, chính Ngài là người tích cực khai đường vậy.

Chính đức Phật đã từng khen Ngài: 

─ Thị giả của các đức Phật đời quá khứ, không ai hơn A-Nan, thị giả các đức Phật đời vị lai cũng không ai hơn A-Nan. 

Và Phật khen A-Nan được tám điều chưa từng có v.v…

Sau khi Phật Niết-bàn, Tổ Ca-Diếp triệu tập các đại Tỳ-kheo kiết tập kinh điển, Ngài là người được toàn hội đề cử kiết tập tạng kinh… Khi sắp tụng lại lời Phật, Ngài nhìn qua đại chúng nói kệ: 

Tỳ-kheo chư quyến thuộc 
Ly Phật bất trang nghiêm !
Du như hư không trung
Chúng tinh chi vô nguyệt.

Dịch: 

Tỳ-kheo các quyến thuộc
Vắng Phật chẳng trang nghiêm ! 
Ví như trong hư-không ,
Nhiều sao mà không trăng. 

Nói kệ xong, Ngài đảnh lễ đại chúng, lên pháp tòa mở đầu:

─ Tôi nghe như vầy, một lúc nọ Phật ở tại xứ….nói kinh…. cho đến trời người v.v…đều kính lễ vâng làm . 

Ngài kiết tập kinh xong Tổ Ca Diếp hỏi đại chúng: 

─ Đại-Đức A-Nan tụng đọc lại có chỗ nào sai lầm chăng ?

Đại chúng đồng thinh đáp:

Chẳng khác những lời đức Thế-Tôn đã nói. 

Một hôm Ngài hỏi Tổ Ca-Diếp:

─ Khi Thế-Tôn phú chúc và truyền y kim-tuyến cho sư-huynh, còn có truyền pháp gì riêng nữa chăng ? 

Tổ Ca-Diếp liền gọi:

─ A-Nan ! 

Ngài ứng thinh:

─ Dạ.! 

Tổ Ca-Diếp bảo:

─ Cây cột phướng trước chùa ngã. Ngài nhơn đây tỏ ngộ. 

Tổ Ca-Diếp bèn ấn chứng và đem chánh pháp nhãn-tạng truyền lại cho Ngài. Tổ nói kệ: 

Pháp pháp bổn lai pháp, 
Vô pháp vô phi pháp. 
Hà ư nhất pháp trung, 
Hữu pháp hữu phi pháp 

Dịch: 

Các pháp,pháp xưa nay, 
Không pháp,không phi pháp .
Tại sao trong một pháp, 
Có pháp,có phi pháp ? 

Ngài đảnh lễ thọ nhận. Môn đệ của Ngài có hai vị xuất sắc, Thương-Na-Hòa-Tu và Mạc-Điền-Để Ca (Mạc-Điền-Địa). Ngài chọn Thương Na Hòa Tu làm người kế thừa tổ vị và truyền trao y bát lại. 

Cảm thấy thân bèo bọt đã đến thời kỳ hoại diệt, đã tìm được người kế.thừa, Ngài dự định vào Niết-bàn, Ngài đến từ giả vua A-Xà-Thế, song không gặp vua. Ngài liền đi thẳng đến bờ sông Hằng, lên một chiếc thuyền ngồi kiết-già thả trôi lơ lửng giữa dòng sông. Vua A-Xà-Thế hay tin Ngài sắp vào Niết-bàn ở sông Hằng, liền cùng quan quân tùy tùng tìm đến bờ sông. Vua thấy Ngài ngồi trên thuyền ở giữa dòng sông bèn đảnh lễ nói kệ: 

Khể thủ tam giới tôn, 
Khí ngã như chí thử. 
Tạm bằng bi nguyện lực, 
Thả mạc Bát-niết-bàn. 

Dịch: 

Lạy đấng tôn tam giới, 
Bỏ con đến nơi nầy. 
Tạm nương sức bi nguyện, 
Xin chớ vội Niết-bàn. 

Vua nước Tỳ-Xá-Ly nghe tin cũng đến bên bờ kia sông Hằng, đảnh lễ và nói kệ: 

Tôn giả nhất hà tốc, 
Nhi qui tịch diệt trường ! 
Nguyện trụ tu du gian, 
Nhi thọ ư cúng dường. 

Dịch: 

Tôn giả sao quá nhanh, 
Sớm vào nơi tịch diệt ! 
Xin tạm dừng chốc lát, 
Để nhận con cúng dường. 

Ngài thấy hai vua đồng đến khuyến thỉnh, bèn nói kệ: 

Nhị vương thiện nghiêm trụ, 
Vật vi khổ bi luyến. 
Niết-bàn đương ngã tịnh, 
Nhi vô chư hửu cố. 

Dịch:

Hai vua ở an vui, 
Chớ vì thương buồn khổ. 
Niết-bàn, tôi an tịnh, 
Vì không còn các nghiệp.

Ngài giữ tâm bình đẳng ở giữa dòng sông vào Niết-bàn. Hai vua họp nhau làm lễ thiêu thân Ngài và phân chia xá-lợi xây tháp cúng dường.

 


 

 

3. Tổ Thương-Na-Hòa-Tu ( Sanakavasa)
Thế kỷ đầu sau Phật Niết-bàn

 

 

Ngài dòng Tỳ-Xá-Đa nước Ma-Đột-La, cha tên Lâm-Thắng, mẹ là Kiều-Xa-Da. Ngài ở trong thai mẹ sáu năm mới sanh. Tục truyền ở Ấn-Độ khi nào cỏ Thương-Nặc-Ca sanh là có một vị thánh nhơn ra đời. Chính khi Ngài lọt lòng mẹ thì thứ cỏ ấy cũng mọc lên, vì thế cha mẹ Ngài đặt tên là Thương-Na-Hòa-Tu. 

Lúc đầu, Ngài xuất gia làm đồ đệ vị tiên ở núi Tuyết. Chính Ngài tu theo pháp tiên đã được thần thông, sau gặp Tổ A-Nan, Ngài hồi đầu trở về chánh pháp. Tổ A-Nan, thấy Ngài đã thâm ngộ diệu tâm nên truyền pháp kệ rằng : 

Bổn lai truyền hửu pháp, 
Truyền liễu ngôn vô pháp 
Các các tu tự ngộ 
Ngộ liễu vô vô pháp.

Dịch : 

Xưa nay truyền có pháp 
Truyền rồi nói không pháp. 
Mỗi mỗi cần tự ngộ 
Ngộ rồi không không pháp.

Tổ lại dặn: 

─ Xưa Đức Như-Lai đem đại pháp nhãn nầy trao cho Ngài Ca-Diếp, Ngài Ca-Diếp trao lại cho ta, nay ta sắp vào Niết-bàn đem trao lại cho ngươi, Ngươi phải khéo gìn giữ truyền trao không để dứt mất.

Sau khi đắc pháp nơi Tổ A-Nan, Ngài đi đến khu rừng Ưu-Lưu-Trà cất tịnh-xá hoằng hóa Phật-pháp rất hưng thịnh. Chính nơi đây, khi Phật còn tại thế có lần đi giáo hóa ngang khu rừng nầy, Phật nói với A-Nan: 

Sau khi ta Niết-bàn, khoảng 100 năm, có một Tỳ-kheo tên Thương-Na-Hòa-Tu ở tại khu rừng nầy hoằng truyền chánh pháp

Thấy cơ duyên hóa đạo đã viên mãn, Ngài đem chánh pháp nhãn tạng truyền lại cho đệ tử là Ưu-Ba-Cúc-Đa. Ngài vào núi Bạch-Tượng phía Nam nước Kế-Tân sắp vào Niết-bàn. Nhơn trong chánh định Ngài thấy nhóm 500 người đệ tử của Ưu-Ba-Cúc-Đa thường hay lười biếng và khinh mạn, Ngài liền đến cảnh tỉnh họ, khi Ngài đến, Ưu-Ba-Cúc-Đa đi vắng. Ngài lại tòa của Ưu-Ba-Cúc-Đa ngồi, đệ tử Cúc-Đa không biết Ngài là người gì ? Tất cả đều bực tức không phục. Họ chạy báo cho Cúc-Đa hay. Cúc-Đa về đến thấy thầy mình liền đảnh lễ. Song đệ tử vẫn còn tâm khinh mạn chẳng kính. Ngài lấy tay mặt chỉ lên hư không liền có sữa thơm chảy xuống, 

Ngài bảo Cúc-Đa.:

─ Ngươi biết gì chăng . 

Cúc-Đa thưa: 

─ Chẳng biết. Cúc-Đa bèn nhập chánh định để xem xét, cũng không thể hiểu. 

Cúc-Đa thưa: 

─ Điềm lành nầy do chánh định gì xuất hiện ?

─ Đây là chánh định Long-Phấn-Tấn. Còn cả năm trăm thứ chánh định như thế mà ngươi chưa biết. Chánh định của Như-Lai, hàng Bích-Chi không thể biết. Chánh định của Bích-Chi, hàng La-Hán không thể biết. Chánh định thầy ta là A-Nan, ta cũng không biết. Nay chánh định của ta, ngươi đâu thể biết. Chánh định ấy là tâm không sanh diệt, trụ trong sức đại từ, cung kính lẫn nhau, được thế đó mới có thể biết.

─ Đệ tử của Cúc-Đa trông thấy những kỳ-diệu ấy đều kính phục, chí thành sám hối. Ngài lại nói kệ : 

Thông đạt phi bỉ thử 
Chí thánh vô trường đoản 
Nhữ trừ khinh mạn ý
Tất đắc A-La-Hán.

Dịch : 

Thông suốt không kia đây 
Chí thành không hay dở 
Ngươi trừ tâm khinh mạn 
Chóng được A-La-Hán.

Sau đó, Ngài thị tịch bằng cách dùng hỏa quang tam muội thiêu thân. Thầy trò Ưu-Ba-Cúc-Đa thu nhặt xá-lợi xây tháp cúng dường .

 


 

4. Tổ Ưu-Ba-Cúc-Đa (Upagupta)
Cuối thế kỷ thứ nhất sau Phật Niết-bàn

 

 

Ngài dòng Thủ-Đà-La ở nước Sất-Lợi, cha tên Thiện-Ý. Trước khi sanh Ngài, thân phụ nằm mộng thấy mặt trời vàng xuất hiện trong nhà. Thưở bé Ngài mặt mũi khôi ngô, tánh tình thuần hậu, trí huệ minh mẫn

Khoảng 12 tuổi, Ngài được gặp Tổ Thương-Na-Hòa-Tu đến tận nhà và dạy cho Ngài phương pháp buộc niệm. Nghĩa là mỗi khi khởi nghĩ ác liền bỏ một hòn sỏi đen vào hũ, khi khởi nghĩ lành liền bỏ một hòn sỏi trắng vào hũ. Mỗi tháng đem ra xem xét coi đen nhiều hay trắng nhiều ; nếu đen nhiều phải cố gắng sửa đổi. Ngài vâng làm như vậy, ban đầu sỏi đen nhiều, dần dần bằng nhau và sau nầy trắng nhiều.

Năm 17 tuổi, Ngài xin Tổ Thương-Na-Hòa-Tu xuất gia. Tổ hỏi :

- Ngươi được bao nhiêu tuổi ?

Ngài thưa :

- Bạch thầy, con được 17 tuổi.

- Thân ngươi 17 tuổi hay tánh ngươi 17 tuổi ?

Ngài hỏi lại :

 - Đầu thầy tóc bạc, vậy tóc thầy bạc hay tâm thầy bạc ?

Tổ bảo :

- Tóc ta bạc không phải tâm ta bạc

- Con cũng thế, thân con được 17 tuổi, không phải tánh con 17 tuổi.

Tổ bèn hoan-hỉ nhận cho xuất gia làm thị giả. Đến 20 tuổi, Ngài thọ giới cụ túc và ngộ đạo. Tổ bảo :

Xưa Đức Thế-Tôn đem chánh pháp vô thượng truyền cho Tổ Ca-Diếp. Tổ Ca-Diếp truyền lại cho thầy của thầy ta là Đức A-Nan, thầy ta truyền cho ta và nay ta truyền lại cho ngươi chánh pháp nầy. Ngươi cố gắng hộ trì đừng để đoạn dứt. Hảy nghe bài kệ đây :

Phi pháp diệc phi tâm,
Vô tâm diệc vô pháp.
Thuyết thị tâm pháp thời,
Thị pháp phi tâm pháp

Dịch :

Phi pháp cũng phi tâm,
không tâm cũng không pháp ,
Khi nói tâm pháp ấy,
Pháp ấy phi tâm pháp.

Khi, Ngài đến nước Ma-Đột-La, Ngài cảm hóa rất đông dân chúng qui hướng Phật pháp, có nhiều người đã chứng đạo quả. Có những khi Ngài thuyết pháp, chư thiên rải hoa, quả đất rúng động, khiến cung ma cũng bị chấn động. Vua ma-ba-tuần sợ e Phật-giáo thạnh hành thì bè đảng của chúng bị tiêu diệt, nên quyết dùng hết thần lực phá hoại Phật-pháp. Ma bèn hiện các ngọc nữ đến làm nhiễu loạn tâm thính giả. Ngài liền nhập định để quán sát nguyên do, Được cơ hội thuận tiện, ma đem vòng chuỗi anh-lạc quàng vào cổ Ngài. Xuất định, Ngài dùng thần lực biến ba thây chết -người, chó, rắn – thành một tràng hoa đẹp. Ngài dùng lời diệu ngọt bảo ma :

Ngươi sẵn lòng tốt đem chuỗi anh-lạc rất quí tặng ta, giờ ta biếu lại ngươi tràng hoa đẹp nầy, gọi là thù tạc nhau. 

Vua ma nghe rất mừng, đưa cổ nhận tràng hoa. Tràng hoa tròng vào cổ giây lát hóa thành thây thúi, giòi tửa ghê tởm. Vua ma kinh sợ gớm chán, muốn cởi ra mà cởi không được, dùng hết thần lực cũng không cởi nổi. Túng thế, vua ma chạy lên cõi trời Dục cầu cứu với vua Trời, rốt cuộc không kết quả. Lần lượt vua ma cầu cứu đến Trời Phạm. Vua các Trời đều bảo :

- Pháp ấy là do đệ tử Phật biến hóa ra, chúng ta còn phàm lậu làm sao trừ được.

Vua ma nghe phán như vậy lại hỏi :

- Thế thì làm thế nào gỡ ra ?

Vua Trời nói kệ :

Nhược nhơn địa đảo,
Hoàn nhơn địa khởi.
Ly địa cầu khởi,
Chung vô kỳ lý.

Dịch :

Nếu nhơn đất ngã,
Phải nhờ đất dậy.
lìa đất muốn dậy,
Trọn không lý ấy.

Vua ma nhận lời dạy, rời khỏi cung Trời trở về chỗ Ngài Ưu-Ba-Cúc-Đa chí thành lễ tạ sám hối. Ngài bảo:

-Thánh trước dạy ta hàng phục ngươi. Tuy vậy, nếu ngươi biết cải thiện là được thờ phụng Phật, khỏi sa vào đường dữ.

Vua ma nghe dạy vui vẻ thưa:

- Tôn-giả vì con làm lợi ích lớn, cúi xin Tôn-giả cởi vòng thây thúi dùm con .

Ngài dạy:

- Vậy ngươi phải quỳ gối chấp tay tự xướng ba lần quy-y tam bảo đi. Vua ma quỳ gối chấp tay xướng ba lần quy-y tam bảo xong, thì vòng thây thúi biến mất. Vua ma vui mừng nhảy nhót đảnh lễ Ngài nói kệ:

Khể thủ tam muội tôn,
Thập lực đại từ túc.
Ngã kim nguyện hồi hướng,
Vật linh hữu liệt nhược.

Dịch :

Cúi lạy chánh-định tột,
Đủ mười lực đại từ.
Nay con xin hồi hướng,
Chớ còn tánh yếu hèn.

Sau khi quy-y tam bảo xong, Ngài bảo vua ma:

- Xưa ngươi thường thấy Như-Lai, giờ đây hiện thử cho ta xem.

Vua ma thưa:

- Hiện việc xưa không khó, chỉ xin Tôn-giả trông thấy đừng lễ.

Vua ma liền vào rừng ẩn mất. Chốc lát bỗng thấy Phật từ mé rừng đi ra oai nghi nghiêm chỉnh, theo sau đoàn Tỳ-kheo 1250 vị. Ngài vừa trông thấy, bất giác cúi mình đảnh lễ. Ma hoảng kinh biến mất. Lúc hóa đạo, mỗi khi giáo hóa một người thâm ngộ Phật-pháp Ngài để vào thất đá một thẻ tre. Ngôi thất ấy bề dài 18 thước tay bề ngang 12 thước tay. Thế mà một thời gian thẻ tre đầy ói cả thất. Sau cùng, Ngài độ ông Hương-Chúng con một vị trưởng giả và truyền chánh pháp lại cho ông nầy. Nhơn thân phụ ông Hương-Chúng mộng thấy mặt trời vàng xuất hiện trong nhà, nên Ngài đổi hiệu là Đề-Đa -Ca. Đã có người kế thế và nhơn duyên hóa đạo đã xong. Ngài từ biệt đại chúng, Ngồi kiết già thị-tịch. Đề-Đa-Ca và môn đệ mở cửa thất đá lấy thẻ tre làm vật liệu thiêu Ngài., thiêu xong lượm xá-lợi xây tháp cúng dường .

 


 

5. Tổ Đề-Đa-Ca (Dhrtaka)
Đầu thế kỷ thứ hai sau Phật Niết-bàn

 

Ngài tên Hương-chúng ở nước Ma-Già-Đà. Nhơn thân phụ Ngài nằm mộng thấy mặt trời vàng ánh xuất hiện trong nhà, chiếu sáng khắp cả. Lại thấy phía trước hiện ra một hòn núi lớn, trang nghiêm bằng bảy báu, trên đảnh núi có dòng suối, nước chảy trong veo, tràn khắp bốn phía. Sau đó, mẹ sanh ra Ngài.

Ngài gặp Tổ Ưu-Ba-Cúc-Đa bèn đem điềm mộng của cha thuật lại và nhờ giải hộ. Tổ giải: 

-Núi báu là thân ta, suối nước tuôn ra là pháp vô tận, mặt trời xuất hiện trong nhà là tướng ngươi vào đạo, ánh sáng chiếu khắp là trí tuệ siêu việt của ngươi.

Ngài nghe giải xong, vui mừng khắp khởi xướng kệ rằng : 

Nguy nguy thất bảo sơn,
Thường xuất trí huệ tuyền.
Hồi vi chân pháp vị,
Năng độ chư hữu duyên.

Dịch :

Vòi vọi núi bảy báu,
Thường tuôn suối trí huệ.
Chuyển thành vị chơn pháp,
Hay độ ngưòi có duyên

Tổ Ưu-Ba-Cúc-Đa cũng nói kệ đáp :

Ngã pháp truyền ư nhữ,
Đương hiện đại trí huệ .
Kim nhựt tùng ốc xuất,
Chiếu diệu ư thiên địa .

Dịch :

Pháp ta truyền cho ngươi,
Sẽ hiện trí-huệ lớn .
Mặt trời mọc trong nhà,
Chiếu sáng khắp trời đất .

Ngài nghe kệ rồi, xin theo Tổ xuất gia học đạo. Thấy Ngài ứng đối lanh lẹ, trí-huệ minh đạt, Tổ hoan hỷ chấp nhận cho xuất gia làm đệ-tử. Một hôm, Tổ gọi Ngài bảo: Như-Lai đem đại pháp nhãn tạng trao cho Đại-Ca-Diếp, lần lượt trao truyền cho đến ta, nay ta trao lại cho ngươi. Hãy nghe kệ đây: 

Tâm tự bổn lai tâm,
Bổn tâm phi hữu pháp.
Hữu pháp hữu bổn tâm,
Phi tâm phi bổn pháp.

Dịch :

Tâm tự xưa nay tâm,
Bổn tâm chẳng có pháp.
Có pháp có bổn tâm,
Chẳng tâm chẳng bổn pháp

Ngài thành kính nhận lãnh chánh pháp. Sau, Ngài sang Trung-Ấn giáo hóa. Nơi đây có tám ngàn vị đại tiên, dưới sự lãnh đạo của đại tiên Di-Dá-Ca. Nghe Ngài đến đây, Di-Dá-Ca vân tập tiên chúng đến yết kiến Ngài.

Gặp Ngài, Di-Dá-Ca thưa:

- Xưa tôi cùng Thầy đồng sanh cõi trời Phạm-Thiên. Tôi gặp tiên A-Tư-Đà truyền cho pháp tiên. Thầy gặp đệ tử Phật hướng dẫn tu tập thiền định. Từ đó, cách nhau đã đến sáu kiếp.

Ngài bảo:

- Lời tiên nhơn đã nói đúng như vậy. Song, ông chuyên về pháp tiên tột cùng sẽ đến đâu ? 

Di-Dá-Ca thưa:

- Tôi tuy chưa gặp bậc chí thánh, song tiên A-Tư-Đà thường thọ ký rằng: "Sáu kiếp về sau, tôi sẽ nhờ bạn đồng học mà được chứng quả giải thoát. Nay gặp nhau đây đâu không đúng như vậy ư ?"

Ngài bảo:

- Ông đã biết như vậy thì cần phải xuất gia, pháp tiên là đường nhỏ, không thể đưa người đến giải thoát. Ta hóa đạo đã lâu, cũng muốn dừng nghỉ. Nếu ông thật thú hướng về đại pháp thì không nên chậm trễ.

Di-Dá-Ca nghe nói vui mừng liền xin xuất gia. Ngài độ cho ông xuất gia thọ giới. 

Lúc đó, tiên chúng theo Di-Dá-Ca thấy vị tiên trưởng của mình làm như vậy, rất bất mãn. Họ nói thầm với nhau rằng: "Đề-Đa-Ca đâu đủ sức làm thầy mình mà theo xuất gia".

Ngài biết tâm họ, muốn gây cho họ có niềm tin, liền phóng quang sáng chiếu, chân đi trên hư không như người đi trên đất bằng, lại hóa cây dù báu che khắp chúng tiên, nơi ngón tay sữa thơm tuôn ra, trong sữa hiện lên một hoa sen, trong hoa sen hóa ra Đức Phật.

Chúng tiên trông thấy thần biến phi thường, bèn cuối đầu cầu xin xuất gia. Tôn giả hoan hỷ chấp nhận.

Thấy cơ duyên hóa độ đã viên mãn, Ngài truyền pháp lại cho Di-Dá-Ca, rồi thâu thần tịch diệt.

Di-Dá-Ca và đồ chúng thiêu hài cốt Ngài, thâu lượm xá-lợi xây tháp tại núi Ban-Trà thờ phụng cúng dường.

 


 

6. Tổ Di-Dá-Ca (Miccaka)
Đầu thế kỷ thứ ba sau Phật Niết-bàn

 

Ngài người Trung-Ấn, không rõ họ gì. Ngài cùng chúng tiên thọ giáo xuất gia với Tổ Đề-Đa-Ca. Sau đó, Ngài tu hành chứng được quả thánh. Khi sắp tịch, Tổ Đề-Đa-Ca gọi Ngài lại bảo:

-Xưa Như-Lai thầm trao đại pháp nhãn cho Đại-Ca-Diếp lần lượt truyền trao đến ta, nay ta trao cho ngươi, ngươi phải gìn giữ truyền trao chớ dứt. Nghe ta nói kệ :

Thông đạt bổn tâm pháp,
Vô pháp vô vi pháp .
Ngộ liễu đồng vị ngộ,
Vô tâm diệc vô pháp .

Dịch :

Thông đạt pháp bổn tâm,
Không pháp không phi pháp
Ngộ rồi đồng chưa ngộ,
Không tâm cũng không pháp .

Sau khi được pháp, Ngài du hóa các nơi tùy căn cơ giáo hóa chúng sanh. Một hôm, Ngài đến Bắc-Ấn chợt thấy trên thành có vầng mây màu vàng. Ngài ngó sang những người bên cạnh bảo :

-Đây là vượn khí đại thừa. Trong thành nầy sẽ có bậc chí nhơn nối pháp cho ta .

Khi đi vào trong thành đến chợ, quả gặp người tay ôm bầu rượu, đón Ngài hỏi :

- Tôn-giả từ phương nào đến, muốn đi về đâu ?

Ngài đáp :

-Ta từ tâm mình đến, muốn đi không chỗ.

– Tôn-giả biết vật trong tay tôi chăng ?

Đây là đồ đựng vật làm mất thanh tịnh.

– Tôn-giả biết tôi chăng ?

– Tôi thì chẳng biết, biết thì chẳng tôi

Ngài lại bảo :

- Ngươi hãy nói tên họ ra, ta sẽ chỉ nhơn đời trước cho ngươi. Người ấy bèn nói kệ :

Ngã kim sanh thử quốc,
Phục ức tích thời nhựt .
Bổn tánh Phả-La-Đọa,
 Danh tự Bà-La-Mật.

Dịch :

Nay tôi sanh nước nầy,
Lại nhớ ngày xa xưa
Dòng họ Phả-La-Đọa,
Tên là Bà-La-Mật

Ngài nghe rồi nhớ lại duyên trước, bèn bảo Bà-Tu-Mật :

- Thầy ta là Đề-Đa-Ca thường nói : "Xưa kia Như-Lai du hóa Bắc-Ấn có báo A-Nan: Sau khi ta diệt độ khoảng ba trăm năm, ở nước nầy sẻ có vị thánh nhơn ra đời, họ Phả-La- Đọa tên Bà-Tu-Mật, làm vị Tổ thứ bảy của Thiền-Tông . Đây là Như-Lai thọ ký cho ngươi, ngươi nên xuất gia."

Bà-Tu-Mật liền để bầu rượu xuống, đảnh lễ Ngài. Đảnh lễ xong, đứng qua một bên thưa :

- Con nhớ lại kiếp xưa thường làm thí chủ cúng dường Phật một bảo tòa. Như-Lai thọ ký cho con rằng : "Ngươi ở hiền kiếp sẽ được Phật-pháp làm Tổ thứ bảy". Nay gặp gỡ đây là cái duyên trước vậy, cúi xin Tôn giả đại từ thương xót độ thoát cho con. Ngài liền vì ông cho cạo tóc xuất gia và thọ đầy đủ giới pháp. Thấy tuổi đã già và cơ duyên hóa độ cũng xong,

Ngài truyền chánh pháp lại cho Bà-Tu-Mật. Truyền xong, Ngài thâu thần tịch diệt. Bà-Tu-Mật và môn đồ lượm xá-lợi để vào bình báu, xây tháp cao tôn thờ trên từng chót để mọi người cúng dường.
 


 

7. Tổ Bà-Tu-Mật (Vasumitra)
Cuối thế kỷ thứ ba sau Phật Niết-bàn

 

Ngài họ Phả-La-Đọa sanh trưởng tại miền Bắc-Ấn. Khi còn tại gia, Ngài thường mặc đồ sạch sẽ, tay cầm bầu rượu, đi dạo chơi trong xóm làng, có khi Ngài ngâm thơ thổi sáo, người thường không sao hiểu nổi, họ bảo Ngài là người điên. Sau khi gặp Tổ Di-Dá-Ca nói lại lời huyền ký Như-Lai, Ngài liền tỉnh ngộ tiền duyên, ném bầu rượu phát nguyện xuất gia. Theo Tổ tu hành, Ngài ngộ được tâm tông. Một hôm,Tổ Di-Dá-Ca gọi Ngài căn dặn:

-Công hạnh của ta gần viên mãn,chánh pháp nhãn tạng nầy trao lại cho ngươi, ngươi phải ân cần gìn giữ chớ để đoạn diệt. Hãy nghe kệ đây :

Vô tâm vô khả đắc,
Thuyết đắc bất danh pháp.
Nhược liễu tâm phi tâm,
Thủy giải tâm tâm pháp.

Dịch :

Không tâm không thể được,
Nói được chẳng gọi pháp
Nếu rõ tâm phi tâm,
Mới hiểu tâm tâm pháp.

Sau khi Tổ Di-Dá-Ca nhập Niết-bàn, Ngài đi hoằng khắp nơi tuyên dương chánh pháp. Khi đến nước Ca-Ma-La

Ngài lên pháp tòa giảng đạo,có một trí sĩ đến dưới tòa lớn tiếng tự xưng:

-Tôi là Phật-Đà-Nan-Đề, hôm nay quyết luận nghĩa với thầy.

Ngài bảo:

- Nầy nhơn giả! Nếu luận thì chẳng phải nghĩa, nếu nghĩa thì chẳng phải luận. Nếu nghĩ luận nghĩa, trọn chẳng phải nghĩa luận.

Nan-Đề biết đây là người nói nghĩa thù thắng,khởi tâm kính phục,thưa rằng:

- Con nguyện cầu đạo,được thưởng thức vị cam lồ.

Ngài thương xót liền cho xuất gia thọ giới, không bao lâu truyền pháp cho Nan-Đề. Đã có người thừa kế, Ngài dự định vào Niết-bàn. Ngài liền nhập từ tam-muội để vào tịch định. Lúc đó,Đế-Thích,Phạm-Vương cùng chư thiên đồng đến đảnh lễ,nói kệ :

Hiền kiếp thánh chúng Tổ,
Nhi đương đệ thất vị.
Tôn giả ai niệm ngã,
Thỉnh vị tuyên Phật địa.

Dịch :

Hiền kiếp các thánh Tổ,
Ngài là vị thứ bảy,
Tôn giả thương xót con,
Thỉnh vì nói Phật địa . 

Ngài xuất định nói với họ rằng :

- Pháp ta đã được là không phải có. Nếu muốn biết Phật-địa phải lìa có và không.

Nói xong, Ngài vào tịch định thị hiện tướng Niết-bàn. Chư thiên nghe rồi hoan hỷ tán hoa trời,đảnh lễ. Nan-Đề cùng đồ chúng trà tỳ thân Ngài, rồi lượm xá-lợi xây tháp cúng dường .

 


 

8. Tổ Phật-Đà-Nan-Đề (Buddhanandi)
Đầu thế kỷ thứ tư sau Phật Niết-bàn

 

Ngài họ Cù-Đàm, người nước Ca-Ma-La. Thuở nhỏ trên đảnh Ngài có cục thịt nổi cao, thường phát ra hào quang

năm sắc xen lẫn. Ngài thông minh tuyệt vời, chữ nghĩa một phen xem qua là ghi nhớ. Năm 14 tuổi, Ngài phát tâm xuất gia chuyên dùng hạnh thanh tịnh để tự tu. Khi Tổ Bà-Tu-Mật đến nước Ca-Ma-La, Ngài đến vấn nạn, nhơn đó kính phục xin theo làm đệ tử. Tổ sắp Niết-bàn, gọi Ngài đến phó chúc rằng : 

-Chánh pháp nhãn tạng của Như-Lai, nay ta trao cho ngươi, ngươi phải truyền bá chớ để đoạn dứt, Nghe ta nói kệ:

Tâm đồng hư không giới,
Thị đằng hư không pháp.
Chứng đắc hư không thời,
Vô thị vô phi pháp

Dịch :

Tâm đồng hạn hư không,
Chỉ pháp bằng thái hư.
Khi chứng được hư không,
Không pháp, không phi pháp.

Ngài vâng giữ phụng trì. Sau khi đắc pháp,Ngài thống lãnh đồ chúng du hóa khắp nơi.Đến nước ĐềGià,Ngàiđi qua cổng nhà họ Tỳ-Xá-La,chợt thấy trên nóc nhà có hào quang trắng xông lên hư không.Ngài chỉ chúng xem và bảo:

-Trong nhà nầy hiện có một vị thánh nhơn, tuy miệng không nói một lời, chơn không đi một bước, mà thật là bậc căn khí đại thừa. Dù không ra ngoài đường mà biết việc xúc uế. Quả là người nối pháp cho ta, khiến Phật-pháp hưng thịnh. Vị nầy, sau sẽ độ được năm trăm người chứng quả thánh.

Ngài nói xong,có người trưởng giả trong nhà bước ra làm lể thưa:

- Tôn-giả cần điều gì dừng lại đây ?

Ngài bảo:

- Ta đến tìm người thị giả,chớ không cần gì.

Trưởng giả thưa:

-Nhà tôi đâu có người kỳ đặc mà Ngài tìm,chỉ có đứa con trai tên Phục-Đà-Mật-Đa không biết nói,không biết đi,tuổi đã năm mươi,nếu Ngài cần tôi cho,

không tiếc. Ngài bảo:

-Đứa con ông nói đó,chính là người tôi tìm.

Trưởng giả thỉnh Ngài vào nhà. Phục-Đà-Mật-Đa vừa trông thấy Ngài liền chổi dậy,chấp tay nói kệ:

Phụ mẫu phi ngã thân,
Thùy vi tối thân giả ?
Chư Phật phi ngã đạo,
Thùy vi tối đạo giả ?

Dịch :

Cha mẹ chẳng phải thân,
 Ai là người chí thân ?
Chư Phật phi đạo tôi,
Cái gì là tột đạo ?

Ngài nói kệ đáp:

Nhữ ngôn dữ tâm thân,
Phụ mẫu phi khả tỷ,
Nhữ hạnh dữ đạo hiệp,
Chư Phật tâm tức thị, 
Ngoại cầu hữu tướng Phật,
Dữ nhữ bất tương tợ,
Nhược thức nhữ bổn tâm,
Phi hiệp diệc phi ly .

Dịch :

Lời ngươi cùng tâm thân,
Cha mẹ không thể sánh,
Hạnh ngươi cùng đạo hiệp,
Chư Phật chính là tâm,
Ngoài cầu Phật có tướng,
Cùng ngươi không chút giống,
Nếu biết bổn tâm ngươi,
Chẳng hiệp cũng chẳng lìa .

Mật-Đa nghe bài kệ xong rất hoan hỷ, bước xuống đảnh lễ Ngài và đi bảy bước, một lòng thành khẩn xin xuất gia

Ngài chấp nhận cho xuất gia,liền triệu tập chúng hiền thánh làm lễ truyền giới cụ túc. Sau đó, Ngài lại dặn dò Mật-Đa:

- Pháp nhãn của Như-Lai thầm truyền đến đời ta, nay ta trao lại cho ngươi, ngươi nên truyền trao chớ đoạn dứt. 

Nghe ta nói kệ :

Hư không vô nội ngoại,
Tâm pháp diệc như thử,
Nhược liễu hư không cố,
Thị đạt chơn như lý.

Dịch :

Hư không chẳng trong ngoài,
Tâm pháp cũng như thế,
Nếu hiểu rõ hư không,
Là đạt lý chơn như .

Mật-Đa hân hạnh được truyền pháp vui mừng vô hạn, liền nói kệ khen ngợi : 

Ngã sư thiền Tổ trung,
Thích đương vi đệ bát,
Pháp hóa chúng vô lượng,
Tất hoạch A-La-Hán .

Dịch :

Thầy tôi trong thiền Tổ,
Hiện là vị thứ tám,
Giáo hóa chúng không cùng,
Thảy được quả La-Hán .

Ngài truyền pháp xong, sắp vào Niết-bàn. Hôm ấy đang ngồi trên bổn tòa, Ngài an nhiên thị tịch. Số chúng Ngài 

độ có đến năm trăm vị chứng nhị quả. Toàn chúng trà tỳ hài cốt Ngài, lượm xá-lợi xây bảo tháp tôn thờ .

 


 

9. Tổ Phục-Đà-Mật-Đa (Buddhamitra)
Cuối thế kỷ thứ tư sau Phật Niết-bàn

Ngài họ Tỳ-Xá-La ở nước Đề-Già. Từ lọt lòng mẹ đến năm mươi tuổi chưa từng nói một lời,chưa từng đi một bước. Cha mẹ nghi nhơn duyên gì mà Ngài thế ấy ? Đến gặp Tổ Phật-Đà-Nan-Đề nói duyên đời trước rằng :

- Đứa bé nầy đời trước thông minh lắm,ở trong Phật pháp do lòng đại bi muốn làm lợi ích lớn cho chúng sanh,cho nên thường nguyện :"Nếu tôi sanh chỗ nào không bị tình phụ tử ràng buộc, tùy duyên lành kia liền được giải thoát miệng nó không nói là tiêu biểu đạo không tịch. Chơn nó không đi là tiêu biểu pháp không đến đi."

Cha mẹ Ngài nghe lời giải thích của Tổ sạch hết nghi ngờ,vui vẻ cho theo Tổ xuất gia.

Sau khi đắc pháp, Ngài du hóa khắp nơi, sang Trung-Ấn giáo hóa. Nơi đây có ông trưởng-giả tên là Hương-Cái. Ông nầy có người con trai tên Nan-Sanh. Ông trưởng-giả Hương-Cái dẫn con đến yết kiến Ngài. Đảnh lễ xong,ông trưởng-giả thưa :

- Thằng bé nầy ở trong thai mẹ ngót sáu mươi năm,do đó tôi đặt tên là Nan-Sanh. Có một tiên đến xem tướng nó,rồi nói: "Thằng nhỏ nầy hẳn là tướng phi phàm,sẽ làm pháp khí đại thừa,sau gặp Bồ-Tát hóa độ". Bởi có duyên lành nên nay được gặp Ngài,tôi nguyện cho nó theo Ngài xuất gia học đạo.

Ngài hoan hỷ nhận cho Nan- Sanh xuất gia thọ giới. Trong buổi lễ xuất gia thọ giới bỗng có ánh sáng mát chiếu khắp chổ Nan-Sanh ngồi. Cơ duyên hóa độ sắp viên mãn, Ngài kêu Nan-Sanh lại dặn dò :

- Đại pháp nhãn tạng của Như-Lai,nay ta trao cho ngươi,

Ngươi phải gìn giữ truyền trao đừng cho đoạn dứt. Ngươi nhận lời ta dạy,hãy nghe kệ đây : 

Chơn lý bổn vô danh,
Nhơn danh hiển chơn lý,
Thọ đắc chơn thật pháp,
Phi chơn diệc phi ngụy.

Dịch :

Chơn lý vốn không tên,
Nhơn tên bày chơn lý,
Nhận được pháp chơn thật,
Chẳng chơn cũng chẳng ngụy. 

Nói kệ xong, Ngài bèn vào chánh định hiện tướng Niết-bàn. Chư thiên trổi nhạc cúng dường. Nan-Sanh cùng đồ chúng dùng dầu thơm gỗ chiên đàn làm lễ hỏa táng chơn thể của Ngài. Hỏa táng xong lượm xá-lợi về tôn thờ nơi chùa Na-Lan-Đà .

 


 

10. Tổ Hiếp-Tôn-Giả (Parsvika) 
Đầu thế kỷ thứ năm sau Phật Niết-bàn

 

Ngài tục danh là Nan-Sanh, người Trung-Ân. Thân mẫu mang thai đến 60 năm mới sanh ra Ngài. Lúc Ngài sắp sanh,

Thân phụ nằm mộng thấy một con voi trắng to trên lưng có chở một bảo tọa, trong bảo tọa có hạt minh châu, từ ngoài cửa đi vào chiếu sáng khắp nhà. Ông giựt mình tỉnh giấc thì Ngài ra đời.

Sau gặp Tổ Phục-Đà-Mật-Đa độ cho xuất gia. Được xuất gia rồi Ngài cần mẫn tu học cho đến quên ăn bỏ ngủ, suốt ngày đêm chưa từng đặc lưng xuống chiếu,như thế mãi cả đời. Vì thế thời nhơn gọi Ngài là Hiếp-Tôn-Giả (Tôn-giả hông không dính chiếu ). Lãnh thọ chánh pháp xong, Ngài đi vân du các nơi tùy cơ giáo hóa. Đến nước Hoa-Thị, Ngài

tạm nghỉ dưới cây đại thọ. Khi ấy, Ngài lấy tay chỉ xuống đất bảo chúng :

- Khi nào đất này biến thành màu vàng, sẽ có một thánh nhơn vào hội. Ngài vừa nói dứt lời, đất liền biến thành màu vàng. Chốc lát có một thanh niên con nhà giàu tên Phú-Na-Dạ-Xa đến trước Ngài đứng chắp tay, Ngài hỏi :

- Ngươi từ đâu đến ?

Thanh niên thưa :

- Tâm con chẳng phải đến.

 –Ngươi dừng chổ nào ?

–Tâm con chẳng phải dừng.

- Ngươi chẳng định sao ?

– Chư Phật cũng thế.

–Ngươi chẳng phải chư Phật.

 –Chư Phật cũng chẳng phải.

Ngài nhơn đó nói bài kệ :

Thử địa biến kim sắc,
Dự tri ư thánh chí,
Đương tọa bồ-đề thọ,
Giác hoa nhi thành dỉ.

Dịch :

Đất này hóa sắc vàng,
Biết có thánh nhơn sang,
Ngồi dưới cây bồ-đề,
Hoa giác nở hoàn toàn .

Phú-Na-Dạ-Xa cũng đọc bài kệ: 

Sư tọa kim sắc địa,
Thường thuyết chơn thật nghĩa,
Hồi quang nhi chiếu ngã,
Linh nhập tam-ma-đề .

Dịch :

Thầy ngồi đất sắc vàng,
Thường nói nghĩa chơn thật,
Xoay ánh sáng chiếu con,
Khiến vào nơi chánh định .

Ngài biết ý Phú-Na-Dạ-Xa lòng cầu đạo rất thiết tha, nên độ cho xuất gia và truyền giới cụ túc. Một hôm, Ngài gọi Phú-Na bảo :

-Đại pháp nhãn tạng của Như-Lai, nay trao cho ngươi, ngươi phải khéo lưu truyền chớ để dứt mất. Hãy nghe ta nói kệ :

Chơn thể tự nhiên chơn,
Nhơn chơn thuyết hữu lý,
Lãnh đắc chơn chơn pháp,
Vô hành diệc vô chỉ

Dịch :

Chơn thể đã sẵn chơn,
Bởi chơn nói có lý,
Hội được pháp chơn nhơn,
Không đi cũng không dừng .

Truyền pháp xong, Ngài ngay nơi chỗ ngồi thị hiện các tướng rồi vào Niết-bàn. Hỏa táng thân Ngài xong có xá-lợi nhiều vô số, chúng phải lấy y bọc đem về kính thờ cúng dường .

 


 

11. Tổ Phú-Na-Dạ-Xa ( Punyayasas )
Giữa thế kỷ thứ năm sau Phật Niết-bàn .

 

Ngài dòng Cù-Đàm ở nước Hoa-Thị, thân phụ là Bảo-Thân. Thân phụ sanh được bảy người con trai, Ngài là con út. Thuở nhỏ. Ngài tâm tư bình thản không tịnh không loạn. Ngài thường nói với các anh :

- Nếu gặp bực đại-sĩ ngồi nơi đạo tràng thuyết pháp, em quyết đến đó gần gũi tùy hỷ. 

Khi Tổ Hiếp-Tôn-Giả đến nước nầy chấn hưng Phật pháp, Ngài liền đến dự trong hội ấy. Thấy Ngài ứng đối mẫn tiệp, ngôn ngữ hợp lý, Tổ độ cho xuất gia. Sau khi đắc pháp nơi Tổ Hiếp-Tôn-Giả, Ngài một lòng tinh tấn,lấy sự giáo hóa làm trọng trách. Đạo đức Ngài vang khắp, số chúng qui ngưỡng đến ngàn vạn, những người được quả thánh tới năm trăm vị. Về sau, Ngài đến nước Ba-La-Nại có một vị trưởng-giả vào hội. Ngài hỏi đồ chúng :

- Các ngươi có biết người mới vào đây chăng ?

Xưa Phật huyền ký rằng : "Sau khi ta diệt độ gần 600 năm,sẽ có một vị thánh nhơn ra đời hiệu Mã-Minh, sanh trong nước Ba-La-Nại, nói pháp nơi thành Hoa-Thị, bẻ dẹp các đạo khác, độ người vô lượng ". Mã-Minh nghe Ngài nói trúng tên mình thì thầm khen, bước ra đảnh lễ Ngài và hỏi :

- Tôi muốn biết Phật, thế nào là Phật ?

Ngài đáp :

- Ông muốn biết Phật, chẳng biết ấy là phải.

– Đã chẳng biết Phật thì đâu biết là phải ?

– Ông đã chẳng biết Phật, tại sao biết chẳng phải ?

– Đây thật là nghĩa cưa.

– Đó là nghĩa cây. Ông nói nghĩa cưa là thế nào ?

– Tôi cùng thầy phân ra bằng nhau. Nghĩa cây của thầy nói là sao ?

– Ngươi bị ta xẻ .

Mã-Minh liền ngộ được thắng nghĩa của Ngài, vui thích cầu xin xuất gia Ngài vì độ cho ông xuất gia và thọ giới cụ-túc

Số chúng được Ngài độ, có đến hai trăm vị chứng quả A-La-Hán, ngoài ra còn vô số người phát tâm qui kính Tam-bảo. Thấy cơ duyên giáo hóa sắp viên mãn, Ngài kêu Mã-Minh lại dặn dò :

-Ngươi nên chuyển bánh xe pháp làm vị Tổ thứ 12. Xưa đại pháp nhãn tạng của Như-Lai trao cho Tổ Ca-Diếp lần lượt truyền trao, nay ta trao cho ngươi, ngươi phải truyền tiếp . Nghe ta nói kệ :

Mê ngộ như ẩn hiển,
Minh ám bất tương ly,
Kim phó ẩn hiển pháp,
Phi nhất diệc phi nhị .

Dịch :

Mê ngộ như ẩn hiện,
Tối sáng chẳng rời nhau,
Nay trao pháp ẩn hiện,
Chẳng một cũng chẳng hai .

Ngài truyền pháp cho Mã-Minh xong ,liền hiện thần biến , rồi lặng lẽ viên tịch . Mã-Minh và đồ chúng xây tháp trùm trên chơn thân thờ Ngài .

 


 

12. Bồ-Tát Mã-Minh ( Asvaghosha )
Cuối thế kỷ thứ năm sau Phật Niết-bàn .

 

Bồ-Tát người nước Ba-La-Nại, hiệu Mã-Minh cũng có hiệu Công-Thắng. Vì khi Ngài sanh ra, các con ngựa đều ré lên, nên gọi là Mã-Minh. lại cũng có thuyết nói, mỗi khi Ngài thuyết pháp, các con ngựa trong chuồng ở gần đều lặng lẽ lóng nghe, khi thuyết xong chúng lại hý vang, nên gọi Ngài là Mã-Minh. Lúc chưa xuất gia, Ngài là một biện sĩ lỗi lạc, danh tiếng đồn đãi vang cả quốc nội và quốc ngoại.

Sau khi được Tổ Phú-Na-Dạ-Xa độ cho xuất gia và truyền tâm ấn, Ngài lại nổi tiếng là một nhà thuyết pháp tài tình.

Bao nhiêu tà thuyết ngoại đạo đều bị Ngài bẻ dẹp. Chính Ngài là người thắp sáng ngọn đuốc Đại-Thừa ở đầu thế kỷ thứ sáu sau Phật Niết-bàn. Ngài đi giáo hóa đến nước Hoa-Thị nơi đây ngọn đuốc pháp của Ngài càng sáng rực hơn.

Một hôm, có một ông già gầy ốm vào trong hội nghe pháp, bỗng nhiên ngã xuống đất. Ngài bảo chúng : 

-Đây là việc phi thường, sẽ có tướng lạ. Ông già kia liền biến mất. Chợt thấy dưới đất vọt lên một người con gái nhan sắc đẹp đẽ thân như màu vàng, dùng tay chỉ Ngài nói kệ :

Khể thủ trưởng lão tôn,
Đương thọ Như-Lai ký,
Kim ư thử địa thượng,
Nhi độ sanh tử chúng .

Dịch :

Cúi đầu lễ trưởng lão,
Hiện nhận lời Phật ghi,
Nay ở nơi xứ nầy,
Độ chúng khỏi sanh tử .

Nói kệ xong, trong chớp mắt không thấy cô nữa. Ngài bảo chúng :

- Giây lát đây sẽ có ngoại đạo đến đấu sức với ta.

Bỗng chốc gió mưa ầm ĩ xối xả kéo đến, khiến trời đất mịt mù. Ngài bảo :

- Đây là báo hiệu ngoại đạo sẽ đến. Ta sẽ trừ chúng. Nói xong, Ngài chỉ tay lên hư không, hiện ra con rồng vàng to lớn, phấn khởi oai thần, khiến pháp ngoại đạo tan biến .

Sau bảy ngày, có một con sâu nằm nép dưới tòa của Ngài. Ngài lấy tay nắm bắt con sâu ấy đưa cho đại chúng xem và nói :

- Con sâu nầy là trá hình của ngoại đạo, đến ẩn núp nơi đây đặng nghe trộm pháp của ta . Nói xong, Ngài ném con sâu ra bảo : " đi ngay ! ". Nhưng con sâu sợ hãi nằm im không động Ngài an ủi :

- Ta không có hại ngươi. Ngươi hãy hiện lại bổn hình. Ngoại đạo liền hiện bổn hình đảnh lễ xin sám hối. Ngài hỏi :

- Ngươi tên gì ?

Có bao nhiêu đồ đệ ?

Ngoại đạo thưa :

- Con tên Ca-Tỳ-Ma-La, có đến ba ngàn đồ đệ.

- Ngài hỏi :

- Tột thần lực của ngươi biến hóa thế nào.

Ngoại đạo thưa :

- Con hóa biển cả là việc chẳng khó.

- Ngài hỏi :

- Ngươi hóa tánh biển được chăng ?

 Ngoại đạo mờ mịt không biết, thưa :

- Lời nầy con không thể biết.

Ngài vì giải thích :

- Tánh biển là núi sông quả đất đều y cứ nơi đó mà lập, tam muội lục thông do đây phát hiện.

Ngoại đạo nghe pháp ấy, liền khởi lòng tin mạnh mẽ, cùng ba ngàn đồ đệ đều cầu xin xuất gia. Ngài vì họ cho cạo đầu xuất gia, rồi triệu tập năm trăm vị thánh tăng đến làm lễ thọ giới cụ túc. Ngài bảo giới tử :

- Các ngươi thú hướng Bồ-Đề sẽ thành đạo thánh. Ca-Tỳ-Ma-La quả nhiên được giới thể, phát hào quang sáng, có mùi hương lạ xông khắp.

Một hôm, Ngài gọi Ma-La đến bảo :

- Đại pháp nhãn tạng của Như-Lai, nay trao cho ngươi, truyền bá chớ để đoạn dứt. Nghe ta nói kệ :

Ẩn hiển tức bổn pháp,
Minh ám nguyên bất nhị,
Kim phó ngộ liễu pháp,
Phi thủ diệc phi khí.

Dịch :

Ẩn hiện vốn pháp này,
Sáng tối nguyên không hai,
Nay truyền pháp liểu ngộ,
Không lấy cũng chẳng bỏ .

Truyền pháp xong, Ngài vào chánh định hiện tướng viên tịch. Ca-Tỳ-Ma-La và đồ chúng đem chơn thể của Ngài để vào khám thờ. Ngài là vị Tổ thứ 12 của Thiền-Tông, cũng là một vị pháp sư làm sáng tỏ giáo pháp Đại-Thừa. Ngài sáng tác ba bộ luận:

1-Đại-Thừa Khởi Tín Luận.

2.-Đại Tông địa huyền văn bổn luận.

3.-Sự sư pháp ngũ thập tụng .

Nổi tiếng nhất là bộ Đại-Thừa Khởi Tín Luận, đến hiện giờ những nước Phật-giáo Đại-Thừa vẫn truyền dạy bộ luận nầy .

 


 

13. Tổ Ca-Tỳ-Ma-La (Kapimala)
Đầu thế kỷ thứ sáu sau Phật Niết-bàn.

 

Ngài người nước Hoa-Thị, ban đầu học theo ngoại đạo, giỏi các pháp huyễn thuật, đồ chúng có đến ba ngàn. Khi đến so tài với Mã-Minh, bị Tổ hàng phục,liền cùng đồ chúng phát tâm xuất gia. Tổ Mã-Minh độ cho Ngài xuất gia, sau truyền tâm pháp. Sau khi được truyền tâm pháp, Ngài đi giáo hóa khắp nơi. Lần lượt đến nước Tây-Ấn, nơi đây có Thái-tử tên Vân-Tự-Tại rất ngưỡng mộ Ngài.Thái-Tử thỉnh Ngài và đại chúng vào cung cúng dường,Ngài từ chối bảo

-Phật cấm Sa-môn không được gần gũi vua quan những nhà có thế lực, nên tôi không dám nhận lời. Thái-tử bạch:

-Thưa Tôn-giả ! phía Bắc thành nầy có một hòn núi lớn, trong núi có hang đá yên lặng bặt người thế tục, có thể ở nơi đó thiền định được. Tuy nhiên, trong đó có nhiều rắn và thú dữ, song tin tưởng đức cao dày của Tôn-giả sẽ chuyển hóa chúng. Ngài nhận lời, cung đồ đệ tiến thẳng đến núi ấy. Vừa đến núi nầy quả gặp một con rắn lớn dài gần một dặm, trợn mắt nhìn Ngài, Ngài vẫn đi thẳng không ngó đến nó. Ngài đi đến phía Nam chân núi dừng nghỉ chỗ đất bằng,con rắn ấy đến quấn chung quanh Ngài, Ngài cũng chẳng đoái hoài, giây lát con rắn bò đi. Ngài tìm lại chúng theo Ngài thì họ đã chạy tán loạn hết. Ngài một mình đi thẳng đến hang đá. Bỗng thấy một ông già mặc toàn đồ trắng đi ra chấp tay kính lễ Ngài, Ngài hỏi :

-Ông ở đâu ?

Ông già thưa :

-Con xưa làm vị Tỳ-kheo rất thích vắng lặng, bực người mới học đến hỏi,nhơn đó nổi sân; bởi duyên cớ ấy khi chết đọa làm thân rắn ở trong hang nầy, đến giờ đã ngàn năm.Vừa gặpTôn-giả là bực thánh đức nên ra kính lễ. Ngài hỏi :

-Núi nầy còn có người nào ở nữa chăng?

Và họ theo đạo nào ?

Ngươi chỉ cho ta biết ?

Ông già thưa :

-Cách đây mười dặm về phía Bắc có một tàng cây thật to, dưới tàng cây có năm trăm vị nhân tài ẩn dật, vị lãnh tụ hiệu là Long-Thọ,thường vì chúng nói pháp, con cũng thường đến nghe. Ngài chờ đồ chúng tụ hội, cùng họ tiến đến phía Bắc. Vừa đến cây to,quả nhiên Long-Thọ ra nghinh tiếp Ngài. Long-Thọ vui vẻ đảnh lễ thưa Ngài :

- Chỗ núi sâu vắng vẻ, nơi hang ổ của thú dữ, đại đức chí tôn sao thương xót đến đây?

Ngài đáp :

-Ta không phải chí tôn, đến để phỏng vấn hiền giả.

Long-Thọ lặng thinh thầm nghĩ:

-Tôn-giả nầy được tánh quyết định, đạo nhãn đã sáng chưa ? Phải là người đại thánh,thừa kế chơn tông chăng ?

Ngài biết liền bảo:

-Tuy tâm niệm của ngươi,ta đã biết rồi,chỉ cần xuất gia,lo gì ta chẳng phải thánh ?

Bấy giờ Long-Thọ sám hối tạ tội. Ngài độ cho xuất gia. Một hôm,Ngài gọi Long-Thọ lại bảo:

-Nay ta đem đại pháp nhãn tạng của Như-Lai trao cho ngươi, ngươi phải truyền nối chớ dứt. Nghe ta nói kệ : 

Phi ẩn phi hiển pháp,
Thuyết thị chơn thật tế,
Ngộ thử ẩn hiển pháp,
Phi ngu diệc phi trí .

Dịch :

Pháp không ẩn không hiển,
Nói là mé chơn thật,
Ngộ pháp ẩn hiển nầy,
Chẳng ngu cũng chẳng trí .

Truyền pháp xong, Ngài trình thần biến rồi tịch diệt. Long-Thọ và đồ chúng hỏa táng thân Ngài, lượm xá-lợi xây tháp cúng dường .
 


 

14. Bồ-Tát Long-Thọ (Nagarjuna)
Giữa thế kỷ thứ sáu sau Phật Niết-bàn.

 

Ngài cũng có tên là Long-Thắng,dòng Phạm-Chí ở miền Tây-Ân. Thuở nhỏ, Ngài bẩm tánh thông minh;vừa nghe Phạm-Chí tụng bốn kinh Phệ-Đà là Ngài thuộc lòng văn nghĩa. Đến 20 tuổi, Ngài đi châu du khắp các nước tìm học các môn thiên văn, địa lý,toán số,sấm ký và các học thuật của ngoại đạo. Môn nào Ngài học đến đều xuất sắc hơn mọi người. Nhơn một cơ duyên chẳng lành. Ngài nhận thực được các pháp là vô thường đau khổ nên vào núi ở ẩn. Số người tìm đến cầu học với Ngài rất đông.

Sau khi gặp Tổ Ca-Tỳ-Ma-La cảm hóa, Ngài xin xuất gia được Tổ độ cho và truyền cả tâm ấn. Từ đó,Ngài vân du thuyết pháp khắp nơi,lần lượt đến miền Nam-Ấn. Dân chúng xứ nầy chỉ sùng phước nghiệp,từ Ngài đến đem pháp yếu chỉ dạy,họ tự bảo nhau : "Chỉ phước nghiệp nầy là việc tôi thắng,nói về Phật tánh thì đâu thể thấy".

Ngài nhơn đó bảo họ :

 -Các ngươi nếu muốn thấy được Phật tánh thì trước hết phải bỏ tâm ngã mạn đi,mới có thể thấy được. Họ hỏi Ngài :

-Phật tánh lớn hay nhỏ ?

Ngài đáp :

-Chẳng nhỏ chẳng lớn, không rộng không hẹp, không phước không báo, chẳng chết chẳng sống. Dân chúng nghe Ngài nói tột lý,vui mừng nguyện học pháp ấy. Ngài liền ngay trên tòa hóa thân như vầng mặt trăng. Dân chúng tuy nghe thuyết pháp mà không thấy có hình Ngài. Trong ấy có con một ông nhà giàu tên là Ca-Na-Đề-Bà, khi thấy thế liền cảm ngộ.

Đề-Bà bảo dân chúng :

-Biết tướng nầy chăng ?

Dân chúng thưa :

-Chúng tôi không thể phân biệt được.

Đề-Bà nói:

-Đây là Bồ-Tát thị hiện để biểu thị Phật tánh,muốn chúng ta hiểu rỏ vậy. Vô tướng tam muội giống như mặt trăng tròn là nghĩa Phật tánh rỗng rang sáng suốt .Đề-Bà nói dứt lời thì vầng trăng ẩn mất, Bồ-Tát hiện ngồi an nhiên chỗ cũ,nói kệ:

Thân hiện viên nguyệt tướng,
Dĩ biểu chư Phật thể,
Thuyết pháp vô kỳ hình,
Dụng biện phi thinh sắc.

Dịch :

Thân hiện tướng trăng tròn,
Để nêu thể các Phật,
Nói pháp không hình ấy,
Dùng rõ phi thinh sắc . 

Toàn chúng nghe xong, đều cảm ngộ,cầu xin xuất gia. Ngài triệu tập các bậc thánh tăng đến truyền giới. Trong số xuất gia nầy, Đề-Bà là người dẫn đầu. Một quốc gia ở gần miền Nam-Ấn,có đến năm ngàn người tu theo ngoại đạo được nhiều phép lạ, Vua và quốc dân đều thọ giáo nơi họ,khiến đạo Phật mờ tối. Ngài thấy thế cảm động,bèn đổi hình thức,mặc áo trắng đợi mổi khi vua ra thành, Ngài cầm cây cờ đi trước,hoặc ẩn hoặc hiện. Làm như thế đến bảy lần. Hôm nọ,vua lấy làm lạ kêu lại hỏi :

-Ngươi là người gì dám đi trước ta, mà bắt không được,thả chẳng đi ?

Ngài đáp :

-Tôi là người trí,biết tất cả việc.

Vua nghe ngạc nhiên,muốn thí nghiệm nói:

-Chư thiên nay đang làm gì ?

Ngài đáp :

-Chư thiên đang đấu chiến với A-Tu-La.

Vua hỏi :

-Làm sao được biết ?

Ngài đáp :

-Nếu bệ hạ muốn biết chốc lát sẽ thấy chứng nghiệm. Quả nhiên,phút chốc thấy gươm giáo tay chơn ở trên không rơi xuống. Vua và quốc dân rất kính phục Ngài,nhơn đó,Ngài chuyển họ trở lại quy y Tam-Bảo.Hôm nọ,Ngài gọi Ca-Na-Đề-Bà đến dặn dò.

-Như-Lai lấy đại pháp nhãn tạng trao cho Tổ Ca-Diếp,cho đến đời ta,nay ta trao cho ngươi. Hãy nghe kệ :

Vị minh ẩn hiển pháp,
Phương thuyết giải thoát lý,
Ư pháp tâm bất chứng,
Vô sân diệc vô hỷ.

Dịch :

Vì sáng pháp ẩn hiển,
 Mới nói lý giải thoát,
Nơi pháp tâm chẳng chứng,
 Không sân cũng không hỷ.

Dặn dò xong,Ngài nhập nguyệt luân tam muội rồi hiện tướng thần biến vào Niết-bàn. Ngài sáng tác rất nhiều bộ luận để xiển dương giáo pháp Đại-Thừa :

1-Trung luận,

2-Thuận trung luận,

3-Thập nhị môn luận,

4-Đại-Thừa phá hữu luận,

5-Lục thập tụng như lý luận,

6- Đại-Thừa nhị thập tụng luận,

7-Thập bát không luận,

8-Hồi tránh luận,

9-Bồ-đề tư lương luận,

10-Bồ-đề tâm ly tướng luận,

11-Bồ-đề hạnh kinh,

12-Thích ma ha diễn luận, 1

3-Khuyến phát chư vương yếu kệ,

14-Tán pháp giới tụng,

15-Quảng đại pháp nguyện tụng.

Bồ-Tát Mã-Minh là người khêu mồi ngọn đèn chánh pháp đại-thừa ; chính Ngài là người thắp sáng và truyền bá khắp nơi cho đến vô tận ngọn đuốc Đại-Thừa, Những tác phẩm của Ngài,bộ Trung-Luận có giá trị nhất, đến hiện nay đã dịch ra nhiều thứ chữ để truyền bá khắp thế giới.
 

 

http://www.buddhismtoday.com/viet/pgtg/33vitoan-hoa1.htm

 


Vào mạng: 18-9-2008

Trở về mục "Phật giáo năm Châu"

Đầu trang