- Đại cương về
Luận Câu Xá
- Học viện Phật giáo Việt Nam
tại Huế,
PL. 2543 - TL. 1999
1a
LUẬN BẢN
I. PHẨM PHÂN BIỆT GIỚI
A. BA PHẦN CỦA LUẬN
Trừ phẩm Phá ngã, Luận có 600 bài tụng
và văn trường hàng, gồm trong 8 phẩm 29 quyển, được chia làm ba phần:
phần Tự, phần Chánh tông và phần Lưu thông.
- Phần Tự, từ câu "Chư
nhất thiết chủng chư minh diệt" cho đến hết ba bài tụng thất
ngôn đầu sách và văn trường hàng.
- Phần Chánh tông, từ câu "Hữu
lậu vô lậu pháp" cho đến hết 600 bài tụng căn bản và văn trường
hàng.
- Phần Lưu thông, từ câu "Ca-thấp-di-la
nghĩa lý thành" cho đến hết bài tụng thất ngôn cuối sách.
Ở đây, lược giảng luận này chỉ
dựa vào văn trường hàng để lần lượt giải thích một số bài tụng
chủ yếu trích trong 600 bài tụng căn bản và các bài tụng thất ngôn ở
đầu và cuối sách mà thôi.
B. PHẦN TỰA (4 tiết)
* TIẾT 1: QUY KÍNH VÀ PHÁT KHỞI.
Quy kính bậc hữu đức và phát khởi
phần Chánh tông như thế nào? Tụng đáp:
* Nguyên văn Hán:
"Chư nhất thiết chủng chư minh
diệt,
Bạt chúng sanh xuất sanh tử nê,
Kính lễ như thị như lý sư,
Ðối pháp tạng luận ngã đương thuyết". (I)
* Dịch nghĩa:
Các đấng đã diệt trừ nhất thiết
chủng minh và chư minh, cứu vớt chúng sanh ra khỏi bùn sinh tử. Kính lễ bậc
thầy Như lý như thế, tôi sẽ nói luận Ðối pháp tạng.
* Giải thích:
Trong bài tụng này, ba câu đầu là phần
quy kính, câu thứ tư là phần phát khởi.
Chư: Chỉ các đức Phật.
Nhất thiết chủng chư minh diệt:
Hai chữ "minh diệt" gồm tán thán hai phương diện: nhất thiết
chủng minh diệt và chư minh diệt. Vì minh (sự mờ ám) có hai thứ:
1. Nhất thiết chủng minh: tức
liệt tuệ. Liệt tuệ này đối với sự lý không hiểu biết rõ ràng, nó
thường làm cho tư tưởng chúng ta hôn ám. Ðối với sự vật, lẽ ra
chúng ta có thể hiểu biết trọn vẹn, nhưng vì không có trí tuệ viên
mãn cao thượng, nên chúng ta không hiểu, hoặc hiểu biết mù mờ. Sở dĩ
như thế vì chính liệt tuệ làm chướng ngại.
2. Chư minh: tức phiền não. Phiền
não chính là động cơ làm nhiễu loạn thân tâm, khiến chúng ta mờ ám đối
với tất cả sự lý.
Nhất thiết chủng minh còn được gọi
là "bất nhiễm ô vô tri"; chư minh còn được gọi là "nhiễm
ô vô tri". Sự khác nhau giữa bất nhiễm ô vô tri và nhiễm ô vô
tri như thế nào?
Tánh chất của tâm có hai cách chia:
chia làm ba tánh thì có thiện, ác và vô ký; chia làm hai tánh
thì có nhiễm ô và bất nhiễm ô. Nhiễm ô chính là tánh ác
và hữu phú vô ký trong ba tánh; bất nhiễm ô là tánh thiện và vô phú vô
ký trong ba tánh. Nhất thiết chủng minh là tánh thiện vì là liệt tuệ, nhưng
có một phần vô ký, nên gọi là nhiễm ô vô tri. Chư minh tức phiền não,
tánh chất là ác và cũng có một phần vô ký, nên gọi là nhiễm ô vô
tri. Ðức Phật đã diệt trừ tất cả liệt tuệ, tức dứt hết nhất thiết
chủng minh, chứng đắc trí tuệ vô thượng viên mãn, hiểu biết cùng tột
các pháp một cách như thật, nên thành tựu trí đức. Ngài lại đoạn
trừ tất cả phiền não, tức dứt hết chư minh nên thành tựu đoạn đức.
Trí đức, đoạn đức là phần tự lợi.
Bạt chúng sanh xuất sanh tử nê:
Chúng sanh bị chìm đắm trong sinh tử thật khó ra khỏi, như người bị
sa trong bùn lầy, nê gọi là bùn sinh tử. Ðức Phật thương xót truyền
trao Chánh pháp để cứu độ. Ðó là đức lợi tha của Ngài, nói cách
khác, Ngài là ân nhân của chúng sanh, đã thành tựu được ân đức.
Kính lễ như thị Như lý sư: Ðức
Phật khéo léo nói pháp đúng như lý để cứu vớt chúng sanh. Ngôn giáo như
lý ấy nhằm chỉ cho chúng sanh sự thật không điên đảo; lại hợp lý, hợp
thời, hợp cơ, làm lợi lạc hữu tình. Vì vậy, để nhớ ân Phật, để
chứng tỏ việc làm không quên gốc và để cầu Phật trợ lực cho việc
tạo luận được viên mãn, hợp lý, hợp thời, hợp cơ như Phật, nên
cúi đầu đảnh lễ bậc thầy như lý và đầy đủ ba đức như thế.
Ðối pháp tạng luận ngã đương thuyết:
Câu này là phần phát khởi. Lý do ở đây kính lễ Phật là gì? Là để
nói luận Câu-xá, tức Ðối pháp tạng.
* TIẾT 2: DANH VÀ THỂ CỦA ÐỐI PHÁP
Ðối pháp là gì? Thể của nó ra sao?
Tụng đáp:
* HÁN VĂN:
"Tịnh huệ tùy hành danh đối
pháp,
Cập năng đắc thử chư huệ luận".(II)
* Dịch nghĩa:
Tịnh huệ, tùy hành gọi là Ðối
pháp, và các huệ các luận có công năng đưa đến tịnh huệ và
tùy hành ấy cũng đều gọi là Ðối pháp.
* Giải thích:
Chữ Ðối có hia nghĩa: đối
quán và đối hướng. Ðối quán là tâm và cảnh đối nhau, tức
đem tâm chủ quan quan sát cảnh khách quan. Ðối hướng là nhân và quả
đối nhau, tức từ nguyên nhân này hướng đến kết quả kia để tiến
bước tu hành.
Chữ Pháp có hai nghĩa: nhậm
trì tự tánh và quỹ sanh vật giải. Bất cứ một tồn tại nào,
hữu hình hay vô hình, hiện tượng cụ thể hay tư duy trừu tượng, đều
có tự tánh riêng, không mảy may lẫn lộn. Nhờ nó giữ gìn khuôn khổ,
quy cách nhất định của nó, nên khi tiếp xúc nó, ta biết đó là vật
gì. Ðó là nghĩa quỹ sanh vật giải. Nhưng chữ Pháp ở đây
được nói là lý pháp: Khổ, Tập, Diệt, Ðạo và quả pháp: Niết-bàn.
Lý pháp Tứ đế là tánh và tướng của tất cả pháp, nên được gọi là
"pháp tướng pháp"; quả pháp Niết-bàn có tánh là thiện,
là thường nên gọi là thắng; và vì có thật thể nên gọi là nghĩa;
gọi chung là Thắng nghĩa pháp.
Nhưng cái khả năng đối quán lý Tứ
đế và đối hướng quả Niết-bàn ấy như thế nào? Tụng đáp:
* Nguyên văn:
"Tịnh huệ tùy hành danh đối pháp
Cập năng đắc thử chư huệ luận".(II)
Ðây là hai câu nêu lên thể của đối
pháp. Thể ấy có hai: 1. Thắng nghĩa đối pháp thuộc vô lậu (tức câu: Tịnh
huệ tùy hành danh đối pháp). 2. Thế tục đối pháp thuộc hữu lậu (tức
câu: Cập năng đắc thử chư huệ luận).
Tịnh huệ: Trí huệ vô lậu thanh
tịnh, có thể giản trạch sự lý các pháp một cách rõ ràng.
Tùy hành: Tâm, tâm sở, đắc, tứ
hướng hữu vi (sanh, trụ, dị, diệt) và vô biểu sắc tương ứng với tịnh
huệ mà sanh khởi. Tịnh huệ ví như chủ; tùy hành ví như tớ. Khi chủ dấy
khởi thì tớ cũng dấy theo. Bộ phận tôi tớ ấy được gọi là tùy
hành. Tịnh huệ và tùy hành được gọi chung là Thắng nghĩa đối pháp.
Nhưng không phải chỉ tịnh huệ và
tùy hành mới được gọi là đối pháp, mà các phương tiện tư lương cần
có như các huệ và các luận để đạt tịnh huệ ấy cũng gọi là đối
pháp, đó là thế tục đối pháp.
Các huệ là sanh đắc huệ, văn huệ,
tư huệ, tu huệ; còn các luận là chỉ cho luận Lục túc và luận
Phát trí, được liệt kê dưới đây:
* Lục túc:
1) Tập Dị Môn Túc luận (Sangtiparyaya-pada),
thời Phật, Xá-lợi-phất tạo, Huyền Trang dịch, 20 cuốn.
2) Pháp Uẩn Túc luận (Dharma-Skandha-pada), thời Phật, Mục-kiền-liên
tạo, Huyền Trang dịch, 12 cuốn.
3) Thi Thiết Túc luận (Prajnapati-pada), thời Phật, Ca-chiên-diên tạo,
Huyền Trang đem về chưa dịch
4) Thức Thân Túc luận (Vijnanakaya-pada), 100 năm sau Phật Niết-bàn, Ðề-bà-thiết-na
tạo, Huyền Trang dịch, 16 cuốn.
5) Phẩm Loại Túc luận (Prakarama-pada), 300 năm sau Niết-bàn, Thế Hữu
tạo, Huyền Trang dịch, 18 cuốn.
6) Giới Thân Túc luận (Dhatukaya-pada), 300 năm sau Niết-bàn, Thế Hữu
tạo, Huyền Trang dịch, 3 cuốn.
* Phát Trí luận (Jnanaprasthana), 300
năm sau Niết-bàn, Ca-đa-diễn-ni Tử tạo, Huyền Trang dịch, 20 cuốn.
Lục túc là sáu bộ luận làm chân;
Phát trí là bộ luận làm thân, nên cũng gọi là Thân luận. Bởi do
luận Phát Trí mà Hữu bộ bộc phát, tách khỏi bộ phái mẹ là Thượng tọa
bộ.
Các huệ và các luận không
phải là đối pháp của thắng nghĩa vô lậu, mà là phương tiện tư
lương cần có để đạt thắng nghĩa đối pháp, cho nên gọi chúng là thế
tục đối pháp. Hai loại thắng nghĩa và thế tục đối pháp này nếu
phân tích tỉ mỉ thì có bốn loại:
1. Tự tánh đối pháp: tức tịnh
huệ (huệ tâm sở).
2. Tùy hành đối pháp: tức quyến thuộc của tịnh huệ (các tâm sở
cùng khởi).
3. Phương tiện đối pháp: tức bốn huệ hữu lậu (sanh đắc huệ,
văn huệ, tư huệ, tu huệ).
4. Tư lương đối pháp: Tức các lậu (lục túc, phát trí).
Trên đây chỉ mới giải thích khái
quát về tụng văn, còn thể của tùy hành, tức là tâm, tâm sở, đắc, bốn
tướng hữu vi và vô biểu sắc của đạo cọng giới tương ưng với tịnh
huệ như thế nào? Bởi vì tịnh huệ không thể sanh khởi một mình mà
còn phải có tâm vương, tâm sở... cùng khởi theo nữa. Xem bản đồ biểu
dưới đây:
TÙY HÀNH (bốn nhóm):
1. Sắc pháp: đạo cọng giới vô
biểu.
2. Tâm pháp: Ðệ lục ý thức.
3. Tâm sở pháp:
Chín đại địa pháp: thọ, tưởng,
tư, xúc, dục, niệm, tác ý, thắng giải, tam-ma-địa.
Mười đại thiện địa pháp: tín, cần, hành, xả, tàm, quý, vô
tham, vô sân, vô si, bất hại, khinh an.
Hai bất định địa pháp: tầm, tứ.
4.Tâm bất tương ưng hành pháp:
đắc, sanh, trụ, dị, diệt.
* TIẾT 3: GIẢI THÍCH CHỮ TẠNG
Từ Ðối pháp đã giải thích, còn Ðối
pháp tạng là gì? Tụng đáp:
* Nguyên văn:
Nhiếp bỉ thắng nghĩa y bỉ cố
Thử lập Ðối pháp Câu-xá danh.(III)
* Dịch nghĩa:
Vừa thâu (nhiếp) thắng nghiã kia, vừa
căn cứ vào đó. Vì thế bản luận được mệnh danh là "Ðối pháp tạng".
Như vậy, chữ tạng có hai nghĩa:
1. Năng nhiếp: Luận này bao
hàm, thâu chứa giáo nghĩa đặc thù (thắng nghĩa) của đối pháp như đã
được thuyết minh trong các luận Lục Túc và Phát Trí, nên gọi là tạng.
Ví như cái hầm, cái kho, có công năng chứa giữ các giống lúa và tài sản.
2. Sở y: Giáo nghĩa Ðối pháp
được thuyết minh trong các luận Lục Túc và Phát Trí là chỗ dựa, là nơi
căn cứ cho luận này, mặc dù có vài chỗ bị bài bác nhưng nguyên văn vẫn
là chỗ dựa. Ví như cái bao đựng gươm là chỗ dựa của gươm, nên gọi
là bao gươm.
Nếu căn cứ nghĩa năng nhiếp thì
"Ðối pháp tạng" là chỉ riêng cho luận này. Theo văn pháp
Sanskrit, đây là giải thích tập hợp danh từ theo luật y chủ thích
(Tat-purusa). Nhưng nếu cứ theo nghĩa sở y thì " Ðối pháp tạng" cũng
chỉ chung cho các luận Lục Túc và Phát Trí chứ không riêng cho luận
này... Ðây là giải tập hợp danh từ theo luật hữu tài thích
(Bahuvrihi).
* TIẾT 4: Ý NÓI VÀ NGƯỜI NÓI
Danh từ Ðối pháp tạng đã giải
thích xong. Song, vì sao cần phải có Ðối pháp? Và trước đó đã có ai đề
cập đếïn chưa? Tụng đáp:
* Nguyên văn:
Nhược ly trạch pháp định vô dư,
Năng diệt chư hoặc thắng phương tiện.
Do hoặc thế gian phiêu hữu hải,
Nhân thử truyền Phật thuyết Ðối pháp.(IV)
* Dịch nghĩa:
Nếu lìa trạch pháp thì nhất định
không còn phương tiện thù thắng nào có khả năng diệt trừ mê hoặc. Do
mê hoặc mà thế gian trôi nổi trong biển hữu. vì vậy mà truyền thuyết
cho rằng chính Phật đã nói Ðối pháp.
* Giải thích:
- Trạch pháp: Là trí tuệ, vì
trí tuệ có khả năng giản trạch các pháp, cũng có nghĩa của chữ Ðối
pháp nói trên.
- Chư hoặc: Phiền não làm phát
sinh và tăng trưởng các nghiệp, chính là loại phiền não mê lý và mê sự,
chỉ có địa vị Kiến đạo và Tu đạo mới đoạn trừ được.
-Thế gian: Có hai nghĩa là hữu
tình thế gian và khí thế gian. Ở đây đề cập đến hữu tình thế gian,
tức chúng sanh trong thế giới mê vọng.
- Hữu hải: Biển sanh tử của
ba cõi. Sự xoay vần trong ba cõi, nhân quả không mất, nên gọi là Tam hữu.
Chúng sanh sống và chết trong đó nên gọi là biển sanh tử.
Ðoạn này ý nói, nếu lìa trí tuệ
có công năng giản trạch các pháp, quyết định không có cách nào khác hơn
để đoạn trừ phiền não. Nếu phiền não chưa đoạn trừ thì sức mạnh
của nó làm cho chúng sanh trôi lăn trong biển sanh tử ba cõi. Ở đây, vì
muốn chúng sanh đạt được trí tuệ vô lậu có công năng biện biệt các
pháp để dứt trừ phiền não, ra khỏi biển sanh tử nên nói Ðối pháp.
Song, Ðối pháp này trước đã có ai
nói chưa? Có. Ðức Phật đã nói rải rác trong các kinh. Về sau các đệ
tư íkết tập thành Kinh tạng truyền lại cho đời. Chẳng hạn vào khoảng
300 năm sau Phật, có ngài Ðạt-ma-đa-la (Dharmatrata, Hán dịch là Pháp Cứu)
kết tập những bài tụng rải rác của Phật nói về vô thường thành
phẩm Vô thường, về không, vô ngã thành phẩm Không, Vô ngã.
-ooOoo-
BỐ CỤC PHẦN CHÁNH
TÔNG
Phần chánh tông có sáu trăm bài tụng
và văn trường hàng, biện giải nghĩa lý, trong ấy tuy bao la nhưng tóm tắt
có thể thu vào hai phần lớn:
1. Trình bày tổng quát toàn bộ luận,
gồm ba bài tụng đầu của phẩm Giới (từ câu "Hữu lậu vô lậu
pháp" đến câu: "Biệt đắc phi trạch diệt").
2. Giải thích riêng về ý nghĩa và
tông chỉ trong phần tổng quát ấy, gồm 597 bài tụng (từ câu "Hựu
chư hữu vi pháp" ở đầu phẩm Giới cho đến câu "Do thử
trú thế gian" ở cuối phẩm Ðịnh).
Trong ba bài tụng đầu:
- Câu1, nói tổng quát về pháp hữu lậu,
sẽ được quảng diễn trong hai phẩm Giới (42 tụng) và Căn (74tụng).
Trong đó phẩm Giới thuyết minh về bản thể của pháp hữu lậu và
vô lậu; Phẩm Căn thuyết minh tổng quát về tác dụng của pháp hữu
lậu và vô lậu.
- Ba câu kế, (từ"Trừ đạo dư hữu
vi...Cố thuyết danh hữu lậu" thuyết minh riêng về pháp hữu lậu, sẽ
được quảng diễn trong ba phẩm: Thế gian (39tụng), Nghiệp
(131tụng) và Tùy Miên (69 tụng). Trong đó phẩm Thế gian nói chi tiết
về quả của pháp hữu lậu, phẩm Nghiệp nói chi tiết về nhân và phẩm
Tùy Miên nói chi tiết về duyên của pháp hữu lậu.
- Hai bài tụng sau thuyết minh riêng về
pháp vô lậu, sẽ được quảng diễn trong ba phẩm: Hiền Thánh (83 tụng),
Trí (61 tụng) và Ðịnh (93 tụng).
A. PHẦN CHÁNH TÔNG (2 phần)
I. PHẦN TỔNG NÊU ÐẠI CƯƠNG
Như giải thích trong phần tựa, trí
tuệ giản trạch là phương tiện thù thắng để đoạn trừ mê hoặc, nên
rải rác khắp nơi, Phật đã thuyết minh về Ðối Pháp, tức thuyết minh
trí tuệ vô lậu. Vậy những pháp nào là đối tượng của trí tuệ giản
trạch đó? Tụng đáp:
* Nguyên văn:
Hữu lậu vô lậu pháp.
Trừ đạo, dư hữu vi,
Ư bỉ lậu tùy tăng,
Cố thuyết danh hữu lậu.
Vô lậu vị Ðạo đế,
Cập tam chủng vô vi,
Vị hư không nhị diệt.
Thử trung không vô ngại,
Trạch diệt vị ly hệ,
Tùy hệ sự các biệt,
Tất cảnh ngại đương sanh
Biệt đắc phi trạch diệt. (V)
* Dịch nghĩa:
Các pháp gồm hữu lậu và vô lậu. Hữu
lậu là các pháp hữu vi, trừ Ðạo đế, vì nơi các pháp này, lậu hoặc
tùy thuận tăng trưởng, nên gọi là hữu lậu. Vô lậu là Ðạo đế và
ba pháp vô vi, tức hư không và hai thứ diệt. Trong ba pháp vô vi, hư không
vô vi có nghĩa là vô ngại (tụng 2); trạch diệt vô vi có nghĩa là ly hệ,
tùy theo hệ sự mà có sai khác; do các pháp hoàn toàn bị chướng ngại,
nên không thể sanh khởi mà đặc biệt đắc phi trạch diệt (tụng3).
Từ bài tụng này về sau là phần
chánh tông, có 600 tụng căn bản. Theo phân định của chương trên, chia
làm hai phần tổng tiêu (giới thiệu tổng quát) và biệt thích (giải
thích chi tiết), thì ba tụng này là phần tổng tiêu. Tám phẩm tiếp theo
phần này, như phẩm Giới, phẩm Căn v.v...là phần biệt thích. Vậy nên,
luận Câu-xá Quang ký 1 gọi phần này là tổng tiêu cương yếu.
Những pháp làm đối tượng giản trạch cho trí tuệ có phạm vi vô cùng rộng
rãi, bao gồm tất cả các pháp mê, ngộ, nhân, quả; nhưng kết lại chúng
không ngoài các pháp hữu lậu và vô lậu. Vì thế câu đầu của bài tụng
nói: "Các pháp hữu lậu và vô lậu".
Trong Tứ đế, trừ Diệt đế còn lại
là pháp hữu vi. Trong các pháp hữu vi đó, trừ Ðạo đế còn lại là Khổ
đế và Tập đế là thuộc pháp hữu lậu, vì rằng Khổ, Tập và Ðạo đế
là những pháp có biến dịch, có sanh diệt nên đều thuộc hữu vi
(Samskrità); chỉ có Diệt đế tức Niết-bàn là pháp thường trụ, bất biến
nên thuộc vô vi (Asamskrità).
Vì sao nói Khổ đế và Tập đế là
hưũ lậu? Lậu (Asravà), nghĩa là rỉ chảy, chỉ cho phiền
não, như sự rỉ chảy của nước, nó xoi mòn đê điều, ngập tràn ruộng
lúa, làm tổn hại giống mạ. Phiền não cũng vậy, nó phá hoại đê điều
thân tâm, làm tổn hại giống mạ thiện căn. Những phiền não này theo thuận
duyên mà tăng trưởng. Nơi các tâm, tâm sở, cảnh sở duyên đều thuận
theo nó tăng trưởng đều được gọi là hữu lậu (Sàsravà). Trường
hợp này, khi phiền não cùng tương ứng với tâm và tâm sở tùy thuận tăng
trưởng thì gọi là "tương ưng tùy tăng", khi phiền não
cùng với cảnh sở duyên tùy thuận tăng trưởng thì gọi là "sở
duyên tùy tăng".
Luận Chánh Lý 4 nói về tướng trạng
của hai thứ tùy tăng như sau. Như ở ngoài thành ấp có một đống uế tạp
do phẩn, đất và nước tạo thành. Trong đống uế tạp ấy, vì có phẩn
nên đất nước trở thành dơ bẩn. Ðồng thời,cũng vì pha trộn với đất
và nước nên phẩn càng dơ bẩn thêm.Ví dụ muốn nói, phẩn phiền não thường
làm cho đất, nước tâm, tâm sở trở thành dơ bẩn và đất, nước tâm,
tâm sở cũng tùy thuận phiền não càng làm cho nó trở thành dơ bẩn thêm.
Ðây là tướng trạng của "tương ưng tùy tăng".
Lại nữa, như con heo ở trong đống uế
tạp. Những con heo ăn, ngủ, đùa giỡn trên đó, thì không những toàn
thân của chúng trở thành dơ bẩn,vì toàn thân bám đầy phẩn uế mà đống
uế tạp kia cũng vì chúng mà trở nên càng dơ nhớp hơn. Ví dụ muốn
nói, uế phiền não làm cho heo sở duyên trở thành dơ bẩn, đồng thời
heo sở duyên cũng làm cho uế phiền não trở thành càng dơ bẩn hơn. Ðây
là tướng trạng của "Sở duyên tùy tăng".
VÌ rằng, nếu chấp nhận nghĩa "tùy
sanh" là pháp hữu lậu thì khi duyên các pháp vô lậu như Ðạo đế
hay Diệt đế mà sanh phiền não thì Ðạo đế và Diệt đế đó cũng phải
được gọi là pháp hữu lậu hay sao? Thế nhưng, khi duyên Ðạo đế, Diệt
đế dù có sanh phiền não, cũng vẫn không thể gọi Ðạo đế và Diệt đế
là hữu lậu pháp, vậy nên nghĩa "tùy sanh" là không đúng.
Ngược lại, theo nghĩa tùy tăng,
khi duyên dù có sanh phiền não, nhưng đối tượng sở duyên đó không làm
tăng thêm, thì gọi là pháp hữu lậu. Ví như ruộng phì nhiêu thường sanh
lúa mạ, và cũng làm cho lúa mạ tăng trưởng, nên gọi là ruộng lúa. Còn
ruộng muối dù có sanh lúa mạ, cũng không thể làm cho lúa mạ tăng trưởng,
nên không được gọi là ruộng lúa.
Tóm lại, vì tùy thuận tăng trưởng
theo các sở duyên tương ưng của Khổ đế và Tập đế, nên Khổ đế và
Tập đế được gọi là pháp hữu lậu (Sàsravà).
Pháp vô lậu (aàsravà) là Ðạo đế
trong Tứ đế và ba pháp vô vi. Ba pháp vô vi (Asamskrità) là hư không vô vi,
trạch diệt vô vi và phi trạch diệt vô vi, nên tụng văn nói: "Vô lậu
là Ðạo đế và ba pháp vô vi: hư không và hai thứ diệt (vô lậu vị Ðạo
đế cập tam chủng vô vi, vị hư không nhị diệt"). Ðạo đế và ba
pháp vô vi vì sao được gọi là vô lậu? Vì đối với các pháp này phiền
não không tùy thuận tăng trưởng.
Bây giờ hãy nêu rõ về hư không vô
vi và hai thứ diệt:
-Hư không vô vi: (àkàsa-
asamskrità) tụng văn dịch là vô ngại (anàvrti), vì lấy sự không chướng
ngại làm tánh. Thế nào là không chướng ngại? Ðối với bất kỳ vật
nào trong không gian, dù tồn tại hay không tồn tại, pháp vô vi này vẫn trải
khắp trong mọi sự mọi vật mười phương thế giới, mà không làm chướng
ngại vật khác, cũng không bị vật khác làm chướng ngại, nên vạn vật
trong hư không khi sanh thì hiện đến, khi diệt thì bỏ đi, tuy hiện tượng
tùy thời gian mà biến hóa, vị trí tùy không gian mà thay đổi, nhưng hư
không ấy không hề bị biến đổi chuyển dời, nó thường trú bất động.
Do đó, nói hư không là vô vi. Hư không trong quan niệm thông thường, tuy
tương tự với hư không này, nhưng thật ra đó chỉ là sắc pháp hiện hữu
trong không gian mà thôi, không những nó làm ngăn ngại vật khác, mà trên mặt
hiện tượng nó vẫn chịu sự thay đổi. Ví như ném viên đá vào nước,
nước chướng đá, nhường chỗ cho đá chiếm cứ rồi bao quanh phía ngoài
viên đá, nên thuộc hưũ vi, khác với hư không vô vi này.
Làm thế nào để biết được trong
pháp vô vi có hư không vô vi? Vạn vật trong vũ trụ mỗi cái đều có thể
phô bày tướng dạng của nó theo một trình tự nhất định, không hề rối
loạn. Cố nhiên, ấy là nhờ năng lực nhân duyên của chúng, nhưng cũng nhờ
vào cái "không" (không chướng ngại) để hoàn thành tự thể.
Nhân duyên hòa hợp thì hốt nhiên mà sanh, nhân duyên tan rã thì hốt nhiên
mà diệt. Khi sanh thì đến mà không bị chướng ngại, khi diệt thì đi
cũng không bị ngăn cản. Như thế ắt phải có pháp hư không vô vi không
chướng ngại này mới có thể dung chứa vạn vật để cho tự tánh của
chúng được hiển nhiên. Vì vậy, văn trường hàng giải thích: "Nhờ
vô ngại nên sắc pháp luân lưu trong đó".
- Trạch diệt vô vi: (Pratisamkhyànirodha),
được tụng văn định nghĩa là ly hệ (Visamyoga), do xa lìa các hệ phược,
trói buộc của phiền não vô minh mà hiển bày chân lý các tướng. Chân
lý này là diệu lý không tịch của các tướng được chứng đắc bởi trí
lực có khả năng giản trạch để diệt trừ hệ lụy. Vậy nếu nói đủ
thì phải nói: "trạch lực sở sắc diệt" (sự diệt trừ
phiền não hệ lụy được thành tựu bởi năng lực giản trạch), và nói
tắt là "trạch diệt".
Trạch (Pratisamkhyarodha) là trí tuệ,
nhân của khả năng chứng đắc diệt lý. Diệt (nirodha) là diệt lý,
là quả của trí tuệ có khả năng chứng đắc diệt lý đó. Diệt lý này
phải do xa lìa các hệ phược của phiền não vô minh mới được hiển bày.
Thoạt nhìn, tưởng chừng như xưa không mà nay có. Nhưng khảo sát một
cách kỹ càng hơn thì không phải như vậy. Ví như mây tan trăng hiện.
Trăng vẫn sẵn ở trên hư không chứ không phải bây giờ nhờ mây tan mới
có. Mặt trăng diệt lý cũng vậy, chỉ vì từ vô thỉ đến nay bị mây
mù phiền não vô minh che khuất, nên không thể thấy được. Một khi gió lớn
chân trí thổi tan mây mù phiền não thì mặt trăng diệt lý sáng tỏ. Diệt
lý sẵn có tự nhiên chiếu hiện nên chúng ta thấy được. Cái diệt lý
do chúng ta chứng đắc diệt lý mà thấy đó, thật ra không phải xua không
mà nay có, mà là xưa nay vẫn thường hằng bất biến, bất sanh, bất diệt,
là pháp vô vi. Nếu vậy, diệt lý được nói trong Tiểu thừa có khác với
chân như được nói trong Ðại thừa chăng? Chân như được nói trong Ðại
thừa thể tánh của nó bình đẳng, không h? sai khác, không hai cũng không
ba. Còn diệt lý được nói trongTiểu thừa đây thì không phải như vậy.
Diệt lý này do xa lìa sự trói buộc của các pháp hữu lậu mà chứng đắc,
tùy theo số lượng bất đồng của các pháp hữu lậu trói buộc (hệ sự)
được xa lìa mà sự chứng đắc diệt lý cũng có khác nhau. Vì thế, tụng
văn nói:"tùy hệ sự các biệt", tức tùy theo số lượng sai
biệt của các hệ sự mà số lượng của sự ly hệ cũng khác nhau. Ðó
chính là hiển bày cái thể sai khác của nó. Cho nên, có thể biết trạch
diệt của Tiểu thừa và chân như của Ðại thừa không giống nhau.
- Phi trạch diệt vô vi (Apratisamkhyà):
Nếu chuẩn theo lý trạch diệt được nói ở trên, lẽ đáng phải nói đủ
là "phi trạch lực sở đắc diệt "(diệt lý được chứng đắc
không do sức giản trạch). Tức không như trạch diệt vô vi phải nhờ trí
lực giản trạch mới chứng đắc. Phàm vật được sanh ra đều bắt đầu
từ vị lai để đến hiện tại, rồi từ hiện tại đi về quá khứ. Ðó
là thứ lớp tất yếu. Không vật nào là không từ vị lai mà đến. Nhưng
cũng có vật vì bị thiếu duyên, nó phải dừng lại ở vị lai, không thể
sanh đến hiện tại. Nếu vĩnh viễn thiếu duyên thì nó vĩnh viễn ở vị
lai, hoàn toàn không sanh khởi. Không sanh khởi tức không có, đồng nghĩa với
cái đã sanh khởi mà bị diệt đi. Pháp không sanh như bị diệt này đạt
được không phải bằng trí tuệ giản trạch, nên được gọi "phi trạch
diệt". Nó đã vĩnh viễn không sanh thì cũng vĩnh viễn không diệt.
Pháp không sanh không diệt chính là tương phản với pháp hữu vi có sanh
có diệt nên gọi là vô vi. Vì thế, tụng nói: "Rốt ráo làm ngăn ngại
các pháp sẽ sanh, nên gọi là phi trạch diệt".
II. PHẦN BIỆT THÍCH
Sau phần tổng tiêu đại cương ở trên,
cần có phần biệt thích. Phần biệt thích này lấy phẩm Giới làm
đầu, và các phẩm kể tiếp.
* TIẾT I: DANH VÀ THỂ CỦA PHÁP HỮU
VI
Pháp hữu vi lấy gì làm thể? Và những
dị danh của nó là gì? Tụng đáp:
*Nguyên văn:
Hựu chư hữu vi pháp
Vị sắc đẳng ngũ uẩn
Diệc thế lộ, ngôn y
Hữu ly, hữu sự đẳng. (VI)
*Dịch nghĩa:
Lại nữa các pháp hữu vi,
Là năm uẩn, gồm sắc uẩn ...
Cũng còn gọi là thế lộ,
Ngôn y, hữu ly, hữu sự...
Trong tụng văn này hai câu đầu nêu
thể của pháp hữu vi, hai câu sau đề cập các dị danh của nó.
Thể của pháp hữu vi chính là năm uẩn
(Skandhapancakam) sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Trong 75 pháp, năm uẩn bao hàm
hết 72 pháp, trừ ba vô vi, đó là:
1. Sắc uẩn, 11 pháp (5 căn, 5 cảnh
và vô biểu sắc)
2. Thọ uẩn, 1 pháp là hai tâm sở thọ và tưởng
3. Tưởng uẩn, 1 pháp trong 46 tâm sở.
4. Hành uẩn, 58 pháp (44 tâm sở và 14 pháp bất tương ưng hành).
5.Thức uẩn, 1 pháp, tức tâm vương.
Chữ vi (Krtà) trong hữu vi (Samskrtà)
có nghĩa là tạo tác. Pháp do các duyên tạo tác mà có gọi là hữu vi. Nhưng
trong ba đời: quá khứ, hiện tại, và vị lai, các pháp quá khứ và hiện
tại, do các duyên tạo tác mà có, nên gọi là hữu vi đã đành. Còn các
pháp ở vị lai chưa có sự tạo tác, sao cũng gọi là hữu vi? VÌ những
pháp ở vị lai đồng loại với các pháp trong quá khứ và hiện tại, nên
cũng được gọi là hữu vi. Như gỗ bị lửa đốt thì gọi là củi, còn
những cỏ cây chưa bị lửa đốt nhưng vì đồng một loại với thứ đã
bị đốt nên cũng được gọi là củi.
Pháp hữu vi còn có các dị danh dưới
đây:
1.Thế lộ (Adhvà): Theo văn trường
hàng, có hai cách giải thích:
-Thế là tam thế, lộ là chỗ dựa,
đường đi. Các pháp hữu vi là cứ điểm chỗ dựa cho ba thời quá khứ,
hiện tại và vị lai đi qua. Ðây là giải thích tập hợp danh từ theo luật
Y chủ thích(Tat-purusa).
Trong Câu xá luận ký của ngài
Phổ Quang có hai lối giải thích tập hợp danh từ này, theo luật Hữu
tài thích và luật Y chủ thích. Câu-xá Luận Sớ của Pháp
Bảo thì theo luật y chủ thích.Ở đây dùng luật Y chủ thích của
ngài Phổ Quang.
-Thế, chỉ cho các pháp hữu vi
đều bị hoại diệt, lộ, là nó làm cứ điểm cho luật vô thường. Vậy,
thế tức lộ. Ðây là giải thích tập hợp danh theo luật Trì nghiệp
thích (Karma-dhàraya). Câu xá luận sớ của Pháp Bảo theo Y chủ thích.
Ở đây theo cách giải thích của Câu xá luận ký.
2. Ngôn y (Kàthàvastu) theo giải
thích trong văn trường hàng: ngôn là ngôn ngữ. Thể của nó là âm
thanh, chỗ dựa của nó là danh và nghĩa. Theo đó, danh là khả năng
diễn tả, nghĩa là cái được diễn tả. Cả hai đều là cứ điểm
cho âm thanh và ngôn ngữ dựa vào. Bởi vì các pháp hữu vi cùng với danh
và nghĩa trên đây cũng hiện hành trong ba thời gian, nên được gọi là
ngôn y. Như nói: Tùng, trúc, thì danh với khả năng diễn tả và thể
nghĩa được diễn tả của chúng đều có sanh diệt, biến ho?i và cũng hiện
hành trong ba thời gian, nên gọi là hữu vi.
Pháp vô vi mặc dù cũng có danh để
diễn tả, nhưng thể của nó không có sanh diệt như danh. Như nói: Trạch
diệt vô vi, thì cái danh xưng để diễn tả là pháp hữu vi có sanh diệt,
nhưng diệt lý được diễn tả trong đó thì thường trú bất biến, nên
không thuộc về pháp hữu vi như danh xưng của nó. Vì thế, ba chữ danh
câu nghĩa trong văn trường hàng cũng có để giải thích theo hai cách:
-Danh và nghĩa kia nói lên bản thể mà ngôn ngữ y cứ.
- Nghĩa và danh kia là để tách biệt
với nghĩa trong pháp vô vi, không đồng tính chất với danh.
3. Hữu ly (Sanihsàra): Ly là vĩnh ly
tức Niết-bàn.Tất cả các pháp hữu vi đều có tính chất vĩnh ly đó,
nên gọi là hưũ ly. Như có của cải thì gọi là hữu tài.
4. Hữu sự (Savastu): Sự là nguyên
nhân. Tất cả các pháp hữu vi đều có nguyên nhân để sinh ra, do đó
chúng được gọi là hữu sự.
Nói đẳng, tức vân vân, vì
pháp hữu vi còn có nhiều biệt danh khác nữa, như hữu quả, v.v...
Mục
lục | 1a | 1b | 2 | 3 | 4a | 4b | 5a | 5b |
6a | 6b | 7 |
8