Trang tiếng Anh

Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt   

   

...... ... ..  . ..  .  .
DUY-MA-CẬT SỞ THUYẾT KINH
Trực Chỉ Đề Cương

CHƯƠNG THỨ BẢY
QUÁN CHÚNG SANH

            1.- Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi ông Duy Ma Cật rằng: Đối với chúng sanh, Bồ tát quán chiếu và thấy như thế nào?

            Ông Duy Ma Cật nói: Bồ tát quán thấy chúng sanh như nhà huyễn thuật thấy người huyễn do huyễn thuật hóa ra. Lại ví như như người trí thấy trăng trong nước, như bóng trong gương, như sóng nắng lúc trời nắng gắt của ngày hè, như vang của tiếng, như mây trong không, như bọt trên mặt nước, như bong bóng dưới cơn mưa, như sự bền chắc của cây chuối, như sự dừng lâu của tia chớp lưng trới, như đại thứ tám, như ấm thứ sáu, như nhập thứ mười ba, như giới thứ mười chín.

            Bồ tát quán chúng sanh như thế đấy.

            Lại nữa, Bồ tát quán thấy chúng sanh: như sắc chất trong cõi vô sắc, như mầm của thóc ran, như thân kiến của người được quả Tu Đà hoàn, như sự nhập thai của người được quả A la hán, như tham, sân, si của Bồ tát được chứng pháp vô sanh nhẫn, như phiền não tập khí của Phật, như sự thấy màu sắc của người mù, như dấu chim trong hư không, như con của thạch nữ, như phiền não của huyễn nhơn, như chiêm bao lúc thức, như lửa không khói.

            Bồ tát quán thấy chúng sanh như thế đấy. Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi!

            2.- Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi: Bồ tát đã khởi quán chúng sanh như vậy, thế còn hạnh từ bi Bồ tát phải thực hiện hạnh từ bi của mình đối với chúng sanh bằng cách nào?

            Ông Duy Ma Cật nói: Bồ tát khởi quán như thế rồi tự nghĩ rằng ta sẽ vì chúng sanh mà nói pháp như thế đó là hành chơn thật từ. Tiếp đến, Bồ tát vận dụng: hành tịch diệt từ biết rõ các pháp vốn không sanh. Hành bất nhiệt từ không để cho phiền não sanh khởi trong lòng. Hành bình đẳng từ với quá khứ, hiện tại, vị lai thời nào tâm cũng bình đẳng. Hành vô tránh từ không khởi ý tranh cải thị phi. Hành bất nhị từ cắt đứt ý phân biệt ngoại cảnh nội tâm. Hành bất hoại từ biết rõ tánh rốt ráo không của các pháp. Hành kiên cố từ tâm thâm tín chánh pháp không gì lay động nổi. Hành thanh tịnh từ biết rõ tánh của vạn pháp vốn thanh tịnh. Hành vô biên từ tâm rỗng lặng cởi mở như hư không. Hành La hán từ đề cao cảnh giác hóa giải hết những phiền não kiết sử. Hành Bồ tát từ sẳn sàng đem lại mọi an ổn hạnh phúc cho chúng sanh. Hành Như lai từ thể nhập cái tướng như của vạn pháp. Hành Phật đà từ đem hết cuộc đời mình truyền bá tư tưởng tỉnh thức giác ngộ cho chúng sanh. Hành tự nhiên từ biết rõ quả sở chứng không hề có đắc. Hành Bồ đề từ biết rõ tất cả giáo pháp Phật chỉ có một vị đó là vị giải thoát. Hành vô đẳng từ cắt đứt trọn vẹn các ái tưởng nhiễm tâm. Hành đại bi từ dắt dẫn mọi người vào đại thừa đạo. Hành vô yểm từ tâm luôn luôn trụ trong quán trí vô ngã và không. Hành pháp thí từ không dấu diếm chúng sanh về sự hiểu biết chánh pháp của mình. Hành trì giới từ sẳn sàng giúp đở, cảm hóa những ai phạm giới. Hành nhẫn nhục từ giúp đở người khác như giúp đở cho chính ta. Hành tinh tấn từ gánh vác trọng trách giáo hóa chúng sanh. Hành thiền định từ không đam mê vị khinh an của thiền định. Hành trí tuệ từ luôn luôn biết việc, biết thời, biết tà, biết chánh. Hành phương tiện từ tất cả thi vi hành động đều là việc làm của thị hiện. Hành vô ẩn từ tâm lúc nào cũng trực và luôn luôn thanh tịnh. Hành thâm tâm từ dù hành các hạnh mà không có tạp hạnh. Hành vô cuống từ khônglàm những gì có tánh dối gạt phỉnh phờ. Hành an lạc từ bằng mọi cách khiến cho mọi người thọ dụng được cái vui của Phật đạo.

            Thưa ngài đại trí Văn Thù! Thực hiện hạnh từ của Bồ tát là như thế đấy.

            - Bồ tát Văn Thù hỏi: Thưa cư sĩ! Thế nào là Bi tâm của Bồ tát?

            - Ông Duy Ma Cật đáp: tất cả công đức của Bồ tát làm đều cho chúng sanh hết.

            - Hỉ tâm của Bồ tát thế nào?

            - Chúng sanh được những lợi lạc gì, Bồ tát đều tán thán vui mừng không có hối tiếc.

            - Xả tâm của Bồ tát thế nào?

            - Bồ tát làm bao nhiêu việc phước đức, cứu độ cho chúng sanh được những gì không có niệm ta là kẻ thi ân và đăït hy vọng chờ ngày đền trả.

            3.- Đường sanh tử rất đáng sợ, Bồ tát phải nương tựa nơi gì để được an ổn?

            - Nương nơi nghị lực và công đức Như Lai.

            - Bồ tát muốn nương tựa nghị lực và công đức Như lai cần phải trụ tâm ở nơi nào?

            - Trụ ở tâm độ thoát tất cả chúng sanh.

            - Muốn độ thoát tất cả chúng sanh, Bồ tát phải trừ bỏ những gì?

            - Phải trừ bỏ tất cả những phiền não.

            - Muốn trừ bỏ phiền não, Bồ tát phải thực hành những gì?

            - Phải thực hành chánh niệm.

            - Thực hành chánh niệm phải làm sao?

            - Muốn thực hành chánh niệm phải hành bất sanh, bất diệt.

            - Pháp nào bất sanh, pháp nào bất diệt?

            - Pháp bất thiện bất sanh. Pháp thiện bất diệt.

            - Pháp thiện và bất thiện lấy gì làm gốc?

            - Thân làm gốc.

            - Thân lấy gì làm gốc?

            - Dục và tham làm gốc.

            - Dục và tham lấy gì làm gốc?

            - Hư vọng phân biệt làm gốc.

            - Hư vọng phân biệt lấy gì làm gốc?

            - Tướng điên đảo làm gốc.

            - Tướng điên đảo lấy gì làm gốc?

            - Vô trụ làm gốc.

            - Vô trụ lấy gì làm gốc?

            - Vô trụ thì không có gốc.

            Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi! Ông Duy Ma Cật nói: Từ chỗ vô trụ mà an lập tất cả pháp.

            4.- Trong tịnh thất của ngài Duy Ma Cật có vị thiên nữ. Thấy hàng nhơn thiên nghe pháp, thiên nữ bèn hiện thân và dùng hoa cõi trời tung rải trên các hàng Bồ tát và đại đệ tử Thanh văn cúng dường. Hoa rơi đến các Bồ tát, rớt xuống bình thường. Những hoa rơi nhằm các đại đệ tử thì dính trên người không rớt. Các đại đệ tử dùng hết thần lực phủi bỏ những hoa kia nhưng phủi mãi mà hoa không rớt được.

            Thiên nữ hỏi ông Xá Lợi Phất: Vì sao ngài Xá Lợi Phất lại phủi hoa như thế?

            Ông Xá Lợi Phất đáp: Vì hoa này không đúng pháp đối với một tu sĩ như chúng tôi.

            Thiên nữ nói: Đừng cho rằng hoa này không đúng pháp. Vì sao? Vì hoa không có phân biệt, tại vì Xá Lợi Phất  ngài có cái tướng phân biệt đấy thôi. Ở trong Phật pháp, xuất gia mà còn có phân biệt đó là không đúng pháp. Nếu không phân biệt thế mới là đúng pháp.

            Xá Lợi Phất! Ngài hãy xem kia, các Bồ tát hoa không dính các ngài vì Bồ tát đã dứt hết tướng phân biệt. Ví như người hay sợ thì quỷ mị mới có dịp khuấy phá khủng bố. Các hàng đệ tử Thanh văn sợ sanh tử cho nên sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp trở thành đối tượng nhiễu loạn cõi lòng. Nếu đã ly sự sợ hãi thì ngũ dục không làm gì được. Chỉ vì tập khí kiết sử của ngài chưa hết cho nên hoa dính mắc vào thân, khi nào tập khí hết hoa sẽ không còn dính nữa.

            5.- Ông Xá Lợi Phất hỏi: Thiên nữ ở tại tịnh thất này đã lâu rồi chứ?

            - Thiên nữ đáp: Tôi ở tại tịnh thất này như sự giải thoát của bậc kỳ cựu cao niên.

            - Vậy có lâu chưa?

            - Sự giải thoát của bậc kỳ cựu cao niên há cũng có lâu sao?

            Ông Xá Lợi Phất lặng thinh không biết phải nói gì.

            Thiên nữ nói: Bậc kỳ cựu đại trí như ngài Xá Lợi Phất sao lại lặng thinh?

            - Sự giải thoát vượt ngoài ngôn thuyết văn tự cho nên tôi không biết phải nói gì!

            - Văn tự ngôn thuyết là tướng giải thoát đấy chứ! Vì sao? Vì giải thoát không ở trong, không ở ngoài, không ở trung gian. Văn tự cũng không ở trong, không ở ngoài, cũng không ở trung gian.

            Thế cho nên không rời văn tự mà nói giải thoát thưa ngài Xá Lợi Phất! Bởi vì sao? Vì tất cả các pháp là tướng giải thoát.

            - Không xa lìa dâm nộ si vẫn được giải thoát nữa sao?

            - Đúng vậy, Phật vì hạng người tăng thượng mạn nói: Phải xa lìa dâm nộ si để được giải thoát. Nếu không phải hạng tăng thượng mạn, Phật nói tánh của dâm nộ si là tánh giải thoát.

            6.- Ông Xá Lợi Phất tán thán: Quí hóa thay! Quí hóa thay Thiên nữ! Cô đắc gì? Cô chứng được gì mà cô có được sức biện tài như thế?

            - Tôi không đắc gì hết cũng không chứng gì hết nên tôi mới có được biện tài như thế. Vì sao? Bởi vì có chứng có đắc ở trong Phật pháp là người tăng thượng mạn.           7.- Ông Xá Lợi Phất hỏi thiên nử: Ở trong ba thừa cô cầu thừa nào?           

            -  Thiên nữ đáp: Khi cần pháp Thanh văn giáo hoá chúng sanh tôi cầu Thanh văn thừa. Khi cần pháp nhân duyên giáo hóa chúng sanh tôi cầu Bích chi Phật thừa. Khi cần pháp đại bi giáo hóa chúng sanh tôi cầu Đại thừa.

            - Thưa ngài Xá Lợi Phất! Ví như người vào rừng chiêm bặc chỉ ngửi hương chiêm bặc, không ngửi hương khác. Cũng vậy, nếu người vào tịnh thất này chỉ nghe hương công đức của chư Phật, không ưa nghe hương công đức của Bích chi Phật, của Thanh văn.

            8.- Thưa ngài Xá Lợi Phất! Ở trong tịnh thất này, thỉnh thoảng có Đế Thích, Phạm Thiên, Tứ Thiên Vương, chư Thiên Long, quỷ thần vào và nghe Duy Ma Cật thượng nhơn thuyết chánh pháp. Tất cả đều vui ưa hương công đức Phật phát tâm rồi đi.

            Ngài Xá Lợi Phất này! Tôi ở tịnh thất này đã mười hai năm. Ngay từ ban đầu, không bao giờ nghe thuyết pháp Thanh văn, Bích chi Phật, tôi chỉ nghe pháp đại từ, đại bi của Bồ tát và pháp bất tư nghì của Phật.

            Thưa ngài Xá Lợi Phất! Tịnh thất này thường hiện tám pháp chưa từng có và khó được.

            Tịnh thất này thường dùng màu hoàng kim soi sáng ngày cũng như đêm mà không cần đến ánh sáng của nhật nguyệt. Đó là pháp chưa từng có, khó được thứ nhất.

            Người vào tịnh thất này không bị các sự cấu uế làm não loạn thân tâm. Đó là pháp chưa từng có, khó được thứ hai.

            Tịnh thất này thường có Đế Thích, Phạm Vương và chư Bồ tát ở mười phương đến nhóm họp thường xuyên. Đó là pháp chưa từng có, khó được thứ ba.

            Ở tịnh thất này thường có thuyết giảng về lục ba la mật và những pháp bất thối chuyển. Đó là pháp chưa từng có, khó được thứ tư.

            Ở tịnh thất này thường ngân vang những pháp âm vi diệu, tác động cho nhơn thiên tiếp nhận niềm vui thượng diệu. Đó là pháp chưa từng có, khó được thứ năm.

            Ở tịnh thất này có kho tàng tứ đại chứa đầy các báu vật, giúp cho những ai nghèo thiếu, cung cấp hoài không hết. Đó là pháp chưa từng có, khó được thứ sáu.

            Ở tịnh thất này khi Duy Ma Cật thượng nhơn khởi tưởng niệm thì Phật Thích Ca Mâu Ni, Phật A Di Đà, Phật A Súc, Phật Bảo Đức, Phật Bảo Viêm, Phật Bảo Nguyệt, Phật Bảo Nghiêm, Phật Nan Thắng, Phật Sư Tử Hướng, Phật Nhất Thiết Lợi Thành v.v...vô lượng chư Phật trong mười phương cùng đến nói hết những pháp yếu bí tàng của chư Phật. Nói xong rồi, chư Phật trở về bản quốc. Đó là pháp chưa từng có, khó được thứ bảy.

            Ở tịnh thất này tất cả cung điện lộng lẫy, đẹp đẽ của chư Thiên và các Tịnh độ của chư Phật đều hiển hiện ở tịnh thất này. Đó là pháp chưa từng có, khó được thứ tám.

            Thưa ngài Xá Lợi Phất! Tịnh thất này thường hiện tám pháp chưa từng có, khó được như vậy. Ai đã thấy biết những việc bất tư nghì như thế mà lại còn ưa thích những pháp Thanh văn!

            9.- Ông Xá Lợi Phất hỏi: Tại sao thiên nữ không chuyển đổi nữ thân?

            Thiên nữ nói : Từ mười hai năm, tôi tìm cái tướng nữ thân không có. Tôi biết phải chuyển gì? Ví như huyễn sư hóa làm người nữ huyễn. Nếu có người hỏi: "Vì sao không chuyển nữ thân". Câu hỏi đó có đúng lý không?

            Ông Xá Lợi Phất đáp: Không đúng. Đã huyễn thì không có tướng cố định. Biết chuyển cái gì!

            Thiên nữ nói: Tất cả các pháp cũng như vậy. Không có tướng cố định. Thế tại sao ngài hỏi tôi: "Vì sao không chuyển đổi nữ thân?"

            Liền đó, thiên nữ dùng sức thần thông biến ông Xá Lợi Phất y như thiên nữ. Thiên nữ hóa mình y như ông Xá Lợi Phất và hỏi: "Vì sao ngài Xá Lợi Phất không chuyển nữ thân?"

            Trong dáng mạo Thiên nữ, ông Xá Lợi Phất đáp: "Tôi không biết chuyển thế nào mà biến làm thân nữ như vầy".

            Thiên nữ nói: Ngài Xá Lợi Phất mà có thể chuyển ra thân nữ như thế thì tất cả người nữ sẽ có thể chuyển được. Ngài Xá Lợi Phất không phải nữ mà hiện thân nữ thì tất cả người nữ không phải nam lại cũng có thể hiện thân nam. Ngài Xá Lợi Phất dù hiện thân nữ mà không phải nữ. Thế cho nên Phật nói: "Tất cả pháp phi nam phi nữ".

            Ngay bấy giờ, Thiên nữ thâu nhiếp thần lực, ông Xá Lợi Phất hoàn hình như cũ.

            - Thiên nữ hỏi: Hình mạo nữ thân của ngài ở đâu?

            - Xá Lợi Phất đáp: Hình mạo nữ thân của tôi không ở đâu, không đâu chẳng ở.

            - Tất cả các pháp cũng lại như vậy. Không ở đâu, không đâu chẳng ở. Cái đạo lý: không ở đâu, không đâu chẳng ở là chân lý đức Phật đã nói ra.

            - Thiên nữ! Người chết ở cõi này rồi sẽ sanh ở đâu?

            - Đức hóa Phật sanh đâu, tôi sanh ở đó.

            - Sự sanh của đức hóa Phật không có chết và cũng không có sanh.

            - Chúng sanh cũng vậy. Không có chết cũng không có sanh.

            - Chừng nào người được quả vô thượng Bồ Đề, thưa Thiên nữ?

            - Chừng nào ngài Xá Lợi Phất trở lại làm phàm phu thì tôi mới thành vô thượng Bồ đề.

            - Tôi không bao giờ trở lại làm phàm phu.

            - Thì tôi cũng không bao giờ được quả vô thượng Bồ đề. Vì sao? Vì Bồ đề "vô sở trụ". Thế nên Bồ đề không có cái được.

            - Chư Phật đã được, đang được và sẽ được vô thượng Bồ đề nhiều như số cát sông Hằng. Điều đó gọi là gì?

            - Đó là dựa trên văn tự và số mục của thế gian tục đế mà có ba đời, chứ không phải quả vô thượng Bồ đề có quá khứ, hiện tại, vị lai.

            - Thưa ngài Xá Lợi Phất! Ngài được quả A la hán chứ?

            - Không có được, mà được.

            - Chư Phật và Bồ tát cũng vậy. Không có được cho nên được.

           Ông Duy Ma Cật nói với ông Xá Lợi Phất: Thiên nữ này từng cúng dường chín mươi hai ức đức Phật, đã được thần thông du hí, đầy đủ sở nguyện Bồ tát được vô sanh nhẫn, trụ bất thối chuyển địa. Do bổn nguyện giáo hóa chúng sanh, có thể hiện thân tùy theo ý muốn.

TRỰC CHỈ

            1.- Quán tức là chữ Quan. Nếu đọc là Quan thì có nghĩa là quan sát.Quan sát là nhìn sự vật bằng cách đưa mắt mà trông mà nhìn. Nhìn đến đâu thấy đến đấy.Lệch khỏi tầm nhìn thì không thấy được. Khi đọc là Quán, có nghĩa là quán chiếu. Thấy bằng quán chiếu, cái thấy này không cần phải trông, nhìn ở nơi sự vật. Cái quán chiếu là thấy bằng trí tuệ và biết bằng trí tuệ.

            Chúng sanh, không riêng gì loài hữu tình mới gọi là chúng sanh. Với Phật pháp, tất cả vạn loại vô tình cũng là chúng sanh. Các loài hữu tình gọi là hữu tình chúng sanh. Vạn loại vô tình thì gọi là vô tình chúng sanh.

            Quán chúng sanh ở chương này là quán cả hai loại chúng sanh.

            Dưới tuệ nhãn của một đại sĩ qua sự quán chiếu của mình, Bồ tát thấy chúng sanh:

            - Như người huyễn.

            - Như trăng trong nước.

            - Như sóng nắng trưa ngày hè.

            - Như vang của tiếng.

            - Như mây trên không trung.

            - Như bọt trên mặt nước.

            - Như bong bóng dưới cơn mưa.

            - Như sụ cứng chắc của cây chuối.

            - Như sự dừng lâu của tia chớp.

            - Như đại thứ tám, ấm thứ sáu, nhập thứ mười ba, giới thứ mười chín.

            Tất cả những thứ đó, ý muốn nói: đó là những thứ không có. Không hề có từ trước tới nay và từ nay về sau cũng vĩnh viễn không có.

            - Sắc trong cõi vô sắc.

            - Mầm của hạt thóc ran.

            - Thân kiến của Tu dà Hoàn.

            - Đầu thai của A na Hàm.

            - Tam độc của A la Hán.

            - Tham, sân, si của Bồ tát.

            - Phiền não của Phật.

            - Sự thấy sắc của người mù.

            - Dấu chim trong hư không.

            - Con của người thạch nữ.

            - Sự phẩn nộ của hóa nhơn.

            - Chiêm bao lúc thức.

            Tất cả những thứ đó là những thứ chỉ có danh mà không hề có thật. Bồ tát quán chúng sanh như tất cả những thứ đó. Thế thì qua tuệ nhãn của Bồ tát, tất cả chúng sanh có, nhưng không thật có, vì nó không trường cữu, không bền chắc. Nó chỉ là hiện tượng. Nó là hiện tượng trong vô vàn hiện tượng vạn pháp mà thôi.

            Do vậy, trước nhãn quang của đại sĩ: Vạn pháp giai không. Cho nên chúng sanh cũng không có thật.

            2.- Đáp câu hỏi của Đại trí Văn Thù, Trưởng giả Duy Ma Cật nói:

            Thực hiện hạnh từ có thể biểu thị nhiều cách từ ý nghĩ đến hành động cụ thể giúp cho chúng sanh có an vui hạnh phúc trong đời sống của họ. Tuy nhiên sự hạnh phúc an vui trong cuộc sống vật chất chưa có giá trị chơn thật, nếu nguồn sáng trí tuệ của họ chưa được phát huy.

            Bồ tát thực thiện hạnh từ, phải quán triệt những chân lý vô thường, khổ, không, vô ngã như thế mà khai thị, khiến cho chúng sanh tỏ ngộ thâm sâu. Chừng đó chúng sanh có được sự an vui hạnh phúc thật sự và lâu dài.

            Đó là cách Bồ tát thực hành hạnh từ chơn thật. Và chỉ có cách đó mới đuợc xem là chơn thật từ.

            Triển khai rộng về lòng từ, Bồ tát vận dụng:

            Tich diệt từ. Bất nhiệt từ. Bình đẳng từ. Vô tránh từ. Bất hoại từ. Kiên cố từ. Thanh tịnh từ. Vô biên từ. La hán từ. Bồ tát từ. Vô đẳng từ. Đại bi từ. Vô yếm từ. Pháp thí từ. Trì giới từ. Nhẫn nhục từ. Tinh tấn từ. Thiền định từ. Trí tuệ từ. Phương tiện từ. Vô ẩn từ. Thâm tâm từ. Vô cuống từ. An lạc từ.

            Qua bao nhiêu danh tự ấy, người đệ tử Phật thấy rằng, lòng từ trong đạo Phật có thể vận dụng trong cuộc sống ở khắp mọi nơi chốn, mọi thời gian. Lòng từ của đạo Phật không gói gọn trong ý niệm của một tiếng làm lành trừu tượng ấy.

            Lòng từ bi của một Bồ tát là khi Bồ tát làm được bao nhiêu công đức lành đều cho hết chúng sanh.

            Thấy chúng sanh được lợi lạc, Bồ tát vui mừng khen ngợi không hề có ý tị hiềm. Đó là hỷ tâm của Bồ tát.

            Bồ tát làm tất cả việc lợi ích chúng sanh mà không thấy mình là kẻ thi ân và người thọ lãnh không có ý mong chờ hy vọng ở sự đền ơn. Xả tâm của Bồ tát là như thế.

            3.- Sanh tử, ưu bi, khổ não là việc đáng sợ, người trí phải tìm cho mình một con đường an ổn.

            Muốn được an ổn phải nương nơi nghị lực và công đức Như lai.

            Phải trụ tâm ở chỗ cứu độ chúng sanh thoát khổ.

            Muốn độ thoát chúng sanh phải từ bỏ phiền não.

            Muốn từ bỏ phiền não phải thực hành chánh niệm.

            Muốn thực hành chánh niệm phải thực hành bất sanh bất diệt.

            Muốn thực hành bất sanh bất diệt phải biết pháp bất thiện bất sanh, pháp thiện bất diệt.

            - Pháp thiện và bất thiện thân là gốc.

            - Thân thì do dục và tham lam làm gốc.

            - Dục và tham lam do hư vọng phân biệt làm gốc.

            - Hư vọng phân biệt do mộng tưởng điên đảo làm gốc.

            - Mộng tưởng điên đảo do vô trụ làm gốc.

            - Truy cứu đến cùng: Vô trụ thì không có gốc.

            Không có gốc tức là đồng nghĩa với chẳng có gì mà an bày tất cả pháp.

            Do vậy: Vạn pháp gốc của nó là chẳng có gì. Bản chất của vạn pháp là giai không.

            4.- Việc Thiên nữ rải hoa cúng dường, hoa rơi đến các Bồ tát, rồi hoa rớt xuống một cách bình thường. Hoa rơi trúng các đệ tử Thanh văn, hoa dính lại trên người đến nổi phủi cũng không rớt. Hàng Thanh văn thấy hoa vừa đẹp vừa thơm. Thưởng thức cái đẹp, cái thơm e rằng mình bị phạm giới.

            Bồ tát đối sắc đẹp hương thơm thọ dụng xuyên qua nhất thiết chủng trí. Cho nên với Bồ tát "Kiến sắc phi can sắc, văn hương bất nhiễm hương". Có hoa xem như không, thì cần gì phải phủi.

            Sự kiện này, do người bất tư nghì dàn dựng cảnh bất tư nghì nhằm nói pháp bất tư nghì để dạy cho mạt thế chúng sanh về trí tuệ và nghị lực của con người, nó hoàn toàn tùy thuộc ở mọi người.

            Ý chí bất khuất không sợ ma, không bao giờ có ma đối với chàng dũng sĩ kiên cường ấy.

            5.- Ông Xá Lỡi Phất hỏi Thiên nữ ở tại tịnh thất của ngài Duy Ma Cật lâu mau rồi? Qua trí tuệ của Đại thừa, nghe câu hỏi đó liền sanh tâm thương hại cho trí tuệ Tiểu thừa.

            Lấy cái gì làm tiêu chuẩn, đo đạt thời gian. Lấy sự cũ mới của ngôi nhà! Hay sự cao thấp của vườn cây?

            Nhà cũ là cũ của nhà. Cao thấp là cao thấp của vườn cây. Thời gian không vì cũ của nhà, không vì cao thấp của vườn cây mà cho rằng thời gian có lâu có mau!

            Phải học Thiền và Quán đề tài: Thập thế cách pháp dị thành môn, mới hiểu biết vấn đề thời gian không sai chân lý.

            6.- Thông thường, người ta cho rằng người có chứng đắc, mới có được biện tài. Sự hiểu biết của trình độ Tiểu thừa như ông Xá Lợi Phất cũng chưa vượt qua cái lẽ thông thường đó.

            Với tri kiến Đại thừa, dù được Bồ đề Niết bàn chỉ là sự trở về đến chỗ cũ của tự tánh mình.

            7.- Người đạt đến trình độ trí tuệ Đại thừa, thì lại xóa bỏ hết mọi ý tưởng câu nệ về thừa. Có vậy mới có thể làm lợi ích cho mọi tầng lớp chúng sanh. Cũng như người lái xe giỏi, có lúc cần phải vượt trái luật lệ giao thông, miễn là cứu được mạng người và tránh được sự thiệt hại vật chất.

            8.- Tịnh thất của ngài Duy Ma Cật, thỉnh thoảng có Đế Thích, Phạm Thiên, Tứ Thiên vương, Thiên long, quỷ thần đến nghe ngài Duy Ma Cật thuyết chánh pháp. Bởi vì ngài Duy Ma Cật lúc nào cũng nhớ chánh pháp, hành chánh pháp, nói chánh pháp và sống trong chánh pháp. Cũng như nhà của chúng sanh bạc địa phàm phu, ngày ngày sống trong vô minh, tam độc, trong lục đục thất tình thì nhà này thường có súc sanh, ngạ quỷ và người địa ngục...vào ra rộn rịp, không có lúc nào tạm vắng.

            9.- Xử dụng nhất thiết chủng trí, qua tánh tướng Thập như thị : Như thị tướng, như thị tánh, như thị thể, như thị lực, như thị tác, như thị nhơn, như thị duyên, như thị quả, như thị báo, như thị bổn mạt cứu cánh. Vạn pháp đều như. Mỗi pháp có tánh như của nó. Nghĩa là tánh của nó như vậy. Tướng của nó như vậy. Thể chất của nó như vậy. Lực dụng của nó như vậy. Tạo tác của nó như vậy. Nhơn cấu tạo ra nó như vậy. Duyên hình thành nó như vậy. Kết quả ra nó như vậy. Và chung qui như vậy mà thành ra nó và nó là nó như vậy.

            Nhìn vạn pháp qua trí tuệ đó, thì tướng nữ, nam không còn là vấn đề để bình luận. Nam hay nữ chỉ là nhơn duyên biến hiện như thị. Bản thể của cái tướng nữ, nam chung cùng không nam không nữ.

            Cũng không có vấn đề chết đâu,sanh đâu. Sống chết ví như sự nổi chìm của sóng bọt trên mặt đại dương. Sự nổi chìm đó không làm cho nước biển có tăng giảm chút nào. Còn quan tâm đến vấn đề "chết từ cõi nào, sanh đến cõi này", điều đó đủ nói rõ tầm hiểu biết của người Tiểu thừa cạn cợt, chỉ biết nước qua sóng bọt mà chưa biết được sóng bọt còn có nước biển tồn tại vĩnh cữu với thời gian. Dù vậy, sóng và nước đời đời vẫn bất ly mà bất tức.

            Chư Phật đã được, đang được và sẽ được vô thượng Bồ đề nhiều như số cát sông Hằng. Đó là dựa trên ngôn ngữ, văn tự và số mục của thời gian và tùy thuận thế gian mà nói chứ vô thượng Bồ đề không có quá khứ, hiện tại và vị lai.

            "Như Lai giả vô sở tùng lai, diệc vô sở khứ". Vô thượng Bồ đề là quả vị vô thỉ vô chung.

            Vô thượng Bồ đề tức là bản thể chơn như của vạn pháp. Sống đúng hợp với chân lý của vạn pháp tức là người trở về nguyên quán, về đến Bảo sở chơn như mà mình lưu lạc tự bấy lâu nay.

~~oOo~~
Thanh Sơn đánh máy

Giới thiệu | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14

 


Vào mạng: 11-12-2001

Trở về thư mục "Kinh điển"

Đầu trang