Trang tiếng Anh

Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt   

   

...... ... ..  . ..  .  .
DUY-MA-CẬT SỞ THUYẾT KINH
Trực Chỉ Đề Cương

CHƯƠNG THỨ MƯỜI MỘT
VIỆC LÀM CỦA BỒ TÁT

            1.- Đức Phật đang thuyết pháp ở trong một vườn xoài cây to hàng rợp bóng. Lúc bấy giờ đất vườn bỗng nhiên trở nên rộng rãi bao la khác thường, cành lá vườn cây đổi màu mơn mởn xanh tươi, trăm hoa đua nở rực rở sắc màu, lã lướt đong đưa trong làn gió nhẹ. Cảnh vật tựa như hân hoan chào đón...Tất cả đại chúng trong hải hội tự nhiên đều trở thành màu hoàng kim rạng rỡ hào quang.

            Thấy hiện tượng lạ, ông A Nan thưa với Phật: Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên gì mà cảnh vật trong vườn hiện ra điềm lạ thế kia. Đất của vườn xoài bỗng nhiên rộng rãi bao la, cây cối xanh tươi, trăm hoa rực rõ sắc màu, mọi vật có vẻ như hân hoan khác lạ. Đại chúng trong hải hội đều trở thành một màu hoàng kim rực rỡ.

            Đức Phật bảo A Nan! Hiện giờ ông Duy Ma Cật và Văn Thù Sư Lợi cùng đại chúng đang phát khởi ý muốn đến ra mắt Ta. Họ đang cung kính đi nhiểu quanh, trước khi đến đây cho nên ứng ra điềm ấy.

            2.- Ông Duy Ma Cật nói với Đại Trí Văn Thù Sư Lợi rằng: Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi! Chúng ta nên đến ra mắt đức Thế Tôn! Nhơn cơ hội này để chư Bồ tát tham kiến và lễ bái cúng dường đức Phật.

            Đại Trí Văn Thù Sư Lợi nói: Ý kiến rất hay. Thật là đúng lúc. Vậy chúng ta nên cùng đi.

            Bồ Tát Duy Ma Cật bèn vận dụng thần lực, dời tất cả đại chúng trong lúc mọi người vẫn ngồi trên tòa sư tử, để lên bàn tay phải của mình sang đến chỗ Phật. Đến nơi để xuống dưới đất. Bồ tát Duy Ma Cật đê đầu, lễ dưới chân Phật. Đi hữu nhiểu bảy vòng, chấp tay cung kính đứng qua một phía. Các Bồ tát, hàng đệ tử Thanh văn, trời Đế Thích, Phạm Thiên, tất cả rời khỏi tòa ngồi, dập đầu lễ dưới chân đức Phật cùng đi hữu nhiểu bảy vòng và đứng sang một phía.

            Đức Thế Tôn tỏ lời thăm hỏi trong đạo tình thân thiết đối với toàn thể đại chúng và mọi người hãy an tọa trở lại bản tòa.

            Đức Phật bảo ông Xá Lợi Phất rằng:

            - Xá Lợi Phất! Ông đã thấy sức thần thông tự tại của bậc đại sĩ Bồ tát làm rồi chứ?

            - Dạ! Bạch Thế Tôn, con đã thấy. Ông Xá Lợi Phất thưa.

            - Ý ông thế nào? Phật hỏi.

            - Bạch Thế Tôn! Ông Xá Lợi Phất thưa. Con thấy việc làm của Bồ tát khó có thể nghĩ bàn. Vượt ngoài sự suy lường của tâm, sự nghĩ ngợi của ý.

            3.- Ông A Nan đứng lên hỏi Phật:

            Bạch Thế Tôn! Hôm nay trong bầu không khí của hải hội có mùi hương kỳ diệu mà từ trước chưa từng có, chúng con không biết đó là thứ hương chi!

            Phật bảo: Đó là mùi hương phát ra từ lỗ chân lông của các Bồ tát vừa mới đến.

            Ông Xá Lợi Phất nói với ông A Nan: Từng lỗ chân lông của tôi cũng phát ra mùi hương ấy.

            - A Nan hỏi: Do đâu ngài có được mùi hương ấy?

            - Do Bồ tát Duy Ma Cật xin được cơm dư của Phật Hương Tích ở nước Chúng Hương đem về tịnh thất của ông. Những ai được ăn cơm ấy, từng lỗ chân lông đều phát ra mùi hương như thế.

            - Mùi hương ấy có thể giữ lại trong người bao lâu mới hết?

            - Cho đến khi nào cơm tiêu thì mùi hương mới hết.

            - Cơm ấy bao lâu mới tiêu?

            - Thế lực của cơm này sau bảy ngày mới tiêu. Thưa ngài A Nan! Nếu người Thanh văn chưa chứng nhập chánh vị, ăn cơm này đến khi được nhập chánh vị, cơm mới tiêu. Nếu đã nhập chánh vị, ăn cơm này đến khi tâm được giải thoát, cơm mới tiêu. Nếu chưa phát ý đại thừa, ăn cơm này đến khi phát ý, cơm mới tiêu. Đã phát ý đại thừa, ăn cơm này đến khi được vô sanh pháp nhẫn, cơm mới tiêu. Đã được vô sanh pháp nhẫn, ăn cơm này đến khi được nhất sanh bổ xứ, cơm mới tiêu. Ví như có thứ thuốc tên là thượng vị, người uống thuốc này, các chất độc trong thân hết, vị của thuốc mới tiêu. Cơm này cũng thế. Chừng nào dứt trừ hết các độc phiền não, nhiên hậu cơm mới tiêu.

            Ông A Nan thưa: Bạch Thế Tôn! Thật chưa từng có. Cơm này có thể làm nên Phật sự.

            4.- Phật nói: Đúng vậy! Đúng vậy! A Nan: có cõi Phật lấy ánh hào quang Phật làm Phật sự hoăïc có cõi lấy Bồ tát làm Phật sự. Cõi lấy hóa nhơn Phật làm Phật sự. Cõi lấy cây Bồ đề làm Phật sự. Cõi lấy y phục ngọa cụ của Phật làm Phật sự. Cõi lấy cơm ăn làm Phật sự. Cõi lấy vườn rừng, đài quán làm Phật sự. Cõi lấy 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp của thân Phật làm Phật sự. Cõi lấy thân Phật làm Phật sự. Cõi lấy hư không làm Phật sự. Cõi lấy chiêm bao, huyễn ảo, âm vang, hình trong gương, trăng trong nước, bóng giả mả, các thí dụ như thế làm Phật sự. Cõi lấy âm thanh, ngữ ngôn văn tự làm Phật sự. Cõi lấy quốc độ thanh tịnh bằng bặc vô ngôn, vô thuyết, vô thị, vô thức, vô tác, vô vi mà làm Phật sự.

            Như thế đấy A Nan! Nhất nhất oai nghi, đi đứng tới lui, động tịnh của chư Phật không một cử chỉ nào không làm nên Phật sự.

            Đức Phật dạy tiếp: Này A Nan! Có cõi Phật dùng cả tứ ma, dùng cả 84.000 phiền não trần lao. Đối với những thứ đó, chúng sanh cho là những thứ phiền lụy, khổ đau, mỏi mệt. Thế mà chư Phật lại lấy đó mà làm nên Phật sự. Làm được những việc như thế, gọi đó là thể nhập Nhất thiết chư Phật pháp môn. Bồ tát thể nhập pháp môn đó, giả sử thấy tất cả cõi Phật thanh tịnh đẹp đẽ cũng không lấy làm mừng, không khởi ý tham cầu, không móng tâm cao ngạo. Giả sử thấy cõi Phật không thanh tịnh, cũng không bị ám ảnh ưu tư, không ngại ngùng khởi tâm trốn tránh. Lúc nào cũng vững tâm thanh tịnh đối với chư Phật, hoan hỉ cung kính như được cái chưa từng có. Vì biết rằng chư Phật Như Lai công đức bình đẳng, chỉ vì giáo hóa chúng sanh mà hiện cõi Phật không giống nhau.

            5.- A Nan! Đất đai cõi nước của chư Phật có giới hạn mà hư không thì không có giới hạn. Cũng vậy, nhìn thấy sắc thân của chư Phật có giới hạn mà trí tuệ vô ngại của chư Phật thì không có giới hạn.

            A Nan! Sắc thân của chư Phật oai nghi, tướng hảo, chủng tánh giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, thập lực, tứ vô úy, thập bát bất cộng pháp, đại từ, đại bi, oai nghi sở hành, thọ mạng, thuyết pháp giáo hóa, thành tựu chúng sanh, tịnh Phật quốc độ v.v...Các phương tiện để thành tựu Phật pháp trọn vẹn thì đều bình đẳng giống nhau. Vì thế cho nên gọi là Chánh giác, gọi là Chánh biến tri giác, gọi là Vô thượng Chánh biến tri giác.

            A Nan! Nếu Như Lai nói rộng về ba cú nghĩa đó, ông dù đem tuổi thọ của một kiếp cũng không thể nào tiếp thu hết được. Giả sử chúng sanh đầy cả ba ngàn đại thiên thế giới, có khiếu đa văn đệ nhất như A Nan được chánh niệm có sức tổng trì, những người đó dùng trọn kiếp thọ mạng cũng không lãnh hội được hết. Như thế đó A Nan! Vô thượng chánh biến tri giác của chư Phật không có hạn lượng. Trí tuệ biện tài không thể nghĩ bàn.

            6.- A Nan thưa: Bạch Thế Tôn! Từ nay về sau, con không còn dám nghĩ mình đa văn nữa.

            Phật bảo: A Nan! Ông đừng suy thoái ý chí như thế. Từ trước Như Lai vẫn nói ông là đa văn đêï nhất đó chứ. Nhưng đêï nhất trong hàng Thanh văn chứ không phải đệ nhất với hàng Bồ tát. Ông hãy an tâm đi! Là người có trí, không ai so lường trí tuệ của các hàng Bồ tát! Tất cả vực sâu, biển cả còn có thể đo lường chứ thiền định, trí tuệ biện tài, sức tổng trì và công đức của chư Bồ tát thì không thể lường hết.

            A Nan! Ông hãy gác qua những việc làm của Bồ tát, đừng nghĩ ngợi so bì nữa! Sức thần thông biến hiện của ông Duy Ma Cật chừng một giời thôi, tất cả Thanh văn, Bích chi Phật dùng hết sức biến hóa trải trăm ngàn kiếp cũng không làm sao bằng

được.

            7.- Các Bồ tát từ thế giới Chúng Hương đến dự, lúc bấy giờ chấp tay bạch với đức Phật:

            Bạch Thế Tôn! Chúng con khi mới đến cõi này, thoạt đầu chúng con có ý tưởng hơi xem thường. Giờ đây, chúng con rất ăn năn tự trách và ý nghĩ đó không còn. Vì chúng con được hiểu rằng phương tiện của chư Phật không thể nghĩ bàn. Vì độ chúng sanh tùy phước đức và căn cơ của họ mà ứng hiện cõi nước Phật có khác.

            Dạ! Kính bạch Thế Tôn! Chúng con mong mỏi Thế Tôn cho chúng con xin một lời dạy để khi trở về bổn độ, chúng con được nhớ Như Lai mãi mãi.

            8.- Phật dạy: này các Bồ tát! Như Lai có pháp môn Hữu tận vô tận giải thoát, các ông nên học.

            Hữu tận tức là hữu vi pháp. Vô tận tức là vô vi pháp.

            Phàm là Bồ tát, phải tu học Bất tận hữu vi, Bất trụ vô vi.

             Bất tận hữu vi, nghĩa là Bồ tát không rời tâm đại từ, không gián đoạn lòng đại bi. Phát tâm cầu nhất thiết trí sâu sắc không tâm xao lãng. Giáo hóa chúng sanh không nài mỏi mệt. Đối với pháp Tứ nhiếp thường nhớ nghĩ làm theo. Hộ trì chánh pháp không tiếc thân mạng, trồng các căn lành không biết mỏi mệt. Tâm thường an trú trong các phương tiện, ý chí hồi hướng vô thượng Bồ đề. Cầu pháp không giải đải. Thuyết pháp không lẫn tiếc. Siêng cúng dường chư Phật, cho nên vào sanh tử mà không sợ. Được vinh quang không vui mừng kiêu hãnh. Bị khổ nhục không buồn bả nãn lòng. Không khinh người chưa học. Kính người học như kính Phật. Ai sa vào phiền não khiến cho họ phát khởi chánh niệm. Viễn ly được dục lạc không lấy đó làm tự hào. Mình được vui không luyến ái đam mê. Người được vui khởi tâm vui mừng tùy hỷ. Tâm trụ thiền định mà khởi tưởng như ở địa ngục. Ở trong sanh tử khởi tưởng như đang dạo chốn hoa viên. Có người đến cầu xin khởi tưởng như vị thầy tốt. Xả bỏ hết sở hữu khởi tưởng thành tựu nhất thiết trí. Thấy người hủy phạm điều răn khởi tưởng cứu hộ. Các ba la mật khởi tưởng như cha mẹ. Những pháp trợ đạo phẩm khởi tưởng như quyến thuộc. Trồng các căn lành không hạn chế. Dùng những việc trang nghiêm tịnh Phật quốc độ xây dựng Phật độ cho mình. Thực hành bố thí ba la mật để được đầy đủ tướng hảo. Trừ bỏ tất cả hành vi ác để thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Dù sanh tử vô số ức kiếp ý chí vẫn tích cực lạc quan. Nghe Phật có vô lượng công đức, không có ý mỏi mệt thoái thoát tự khinh. Dùng gươm trí tuệ đánh dẹp giặc phiền não. Ra khỏi ấm giới nhập gánh vác chúng sanh. Hằng ở trong giải thoát, dùng sức đại tinh tấn hàng phục ma quân. Thường trụ trong vọng niệm mong được trí tuệ thực tướng. Thực hành thiểu dục tri túc mà không rời bỏ pháp thế gian. Không sai trái oai nghi mà có thể tùy thuận việc làm thế tục. Vận dụng thần thông, kích khởi trí tuệ dẫn dắt chúng sanh. Trụ trong chánh niệm được sức tổng trì, nghe học chân lý, thường không quên sót. Khéo phân biệt căn tánh, cắt đứt mọi nghi ngờ của chúng sanh trong những điều nghi vấn. Lạc thuyết biện tài, nói pháp không mâu thuẩn trước sau. Hành thập thiện trong sáng, hưởng thụ phước báu nhơn thiên. Tu tứ vô lượng tâm mở đường giác ngộ cho Đế thích, Phạm thiên. Khuyến khích thuyết pháp, tùy hỷ mọi việc lành. Được âm thinh thánh thiện, thân khẩu ý đều lành. Đưọc oai nghi Phật tu sâu thiện pháp. Việc lành tập trung, chuyển hướng phục vụ giáo hóa đại thừa. Thành tựu Bồ tát tăng tâm không phóng dật, không rơi sót tất cả hạnh lành.

            Thực hành tốt những điều như thế, gọi là Bồ tát bất tận hữu vi.

            9.- Bồ tát bất trụ vô vi là Bồ tát tu học vạn pháp giai không mà không lấy cái không làm mục tiêu đối tượng chứng đắc. Tu học vạn pháp vô tướng vô tác mà không lấy vô tướng vô tác làm đối tượng sở chứng sở đắc. Tu học vạn pháp vô khởi mà không lấy vô khởi làm đối tượng chứng đắc. Bồ tát quán vô thường mà làm tất cả việc lành không hề có chán ngán. Quán thế gian khổ mà không oán ghét sanh tử. Quán vô ngã mà hết sức tinh tấn trong việc giáo hóa con người. Quán bản thể của vạn pháp tịch diệt mà không mong cầu vĩnh viễn diệt như hư không. Quán viễn ly mà thân tâm luôn luôn trụ trong thiện pháp. Quán vạn pháp không có chỗ về mà quy về thiện pháp. Quán vạn pháp vô sanh mà lấy pháp sanh để gánh vác tất cả. Quán cảnh giới vô lậu mà không dứt hẳn các lậu. Quán vạn pháp vô hành mà lấy pháp hành giáo hóa chúng sanh. Quán rỗng không không có gì mà không rời bỏ đại bi. Quán chánh pháp vị mà không theo đường lối của Tiểu thừa. Quán vạn pháp hư vọng không bền chắc, không người, không chủ, không tướng nhưng bổn nguyện chưa tròn thì đối với phước đức, thiền định, trí tuệ lại là việc bất hư.

            Tu học những pháp như thế gọi là Bồ tát bất trụ vô vi.

            Vì sự nghiệp phước đức đầy đủ, Bồ tát không trụ vô vi.

            Vì sự nghiệp trí tuệ đầy đủ, Bồ tát không rời bỏ hữu vi. Vì đại từ bi không trụ vô vi. Vì trao truyền thuốc pháp không rời bỏ hữu vi. Vì biết bịnh chúng sanh không trụ vô vi. Vì trừ diệt bịnh chúng sanh không rời bỏ hữu vi.

            Này các chánh sĩ! Đức Phật dạy tiếp: Bồ tát thực hiện những pháp bất tận hữu vi, bất trụ vô vi rồi, thì chính đó cũng gọi là Tận vô tận giải thoát pháp môn. Các vị hãy theo đó mà tu học.

            Các Bồ tát đại sĩ nước Chúng Hương nghe đức Phật dạy pháp môn ấy rồi đều rất hoan hỉ, lấy các thứ hoa sắc màu rực rỡ, bao nhiêu thứ hương thơm thượng diệu tung rải khắp cả ba ngàn đại thiên thế giới để cúng dường Phật, cúng dường Pháp và cúng dường chư Bồ tát Tăng.

            Cúng dường xong, tất cả cùng dập đầu lễ dưới chân Phật tán thán rằng: chỉ có đức Phật Thích Ca Mâu Ni vận dụng phương tiện hành những việc nan hành, trong cõi thế gian chưa từng có.

            Nói xong, bỗng nhiên không còn hiện diện. Các đại sĩ đã trở lại quốc độ Chúng Hương.

TRỰC CHỈ

            1.- Trong các kinh điển Đại thừa, Đất thường được đem ví dụ cho Tâm chúng sanh. Vì vậy, kinh điển khi nói đến tâm hay dùng qua cái từ Tâm địa.

            ..."Chúng sanh chi tâm du như đại địa. Ngũ cốc ngũ quả tùng đại địa sanh. Như thị, tâm pháp sanh Thế xuất thế, ngũ thú thiện ác. Hữu học, vô học. Độc giác, Bồ tát cập ư Như Lai. Dỉ thị nhân duyên, tam giới duy tâm. Tâm danh vi địa". Có nghĩa là tâm chúng sanh được ví như đất, vì tâm có thể sanh ra pháp thiện, pháp ác. Có thể tạo ra trời, người, A tu la, quỷ, súc sanh, địa ngục. Có thể tạo ra hữu học, vô học, Độc giác, Bồ tát thậm chí làm nên địa vị Như Lai. Do vậy, ví tâm qua cái từ tâm địa.

            Đất đai, vườn rừng biểu hiện một sắc thái hoàng kim rực rỡ. Cỏ cây, hoa cảnh đua nhau khoe sắc thi màu. Khí hậu trong lành, hòa điệu, rộn rã tiếng chim hót oanh ca.

            Trong bối cảnh đất chùa tươi đẹp đó, đức Phật dạy cho ông A Nan và đại chúng biết:"Đây là hiện tượng ông Duy Ma Cật và các Bồ tát định ý và đang chuẩn bị đến ra mắt vấn an ta".

            Sự thật là thế đó. Vùng đất nào mà Bồ tát đã đến, đang đến hay sẽ đến đều có hiện tượng đẹp như vậy. Còn hơn thế nữa, kinh Pháp Hoa đức Phật cho biết: từ thế giới Nhất Thiết Tịnh Quang Trang Nghiêm, cách thế giới Ta bà 42 hằng hà sa thế giới. Vậy mà trên khoảng đường dài ấy, thế giới nào Bồ tát Diệu Âm đi ngang qua - chỉ đi ngang qua thôi, tất cả đều trở thành rực rỡ trang nghiêm như vậy. (Đọc thêm kinh Pháp Hoa thâm nghĩa đề cương cùng một biên soạn giả).

            Ý Phật muốn dạy cho chúng sanh rằng: Tâm địa của ai vừa nghĩ lành, làm lành, nói lành như hạnh lành của Bồ tát. Hoặc đã làm, đang làm hay ssẽ làm. Tự khắc tâm địa của người đó, chuyển thành hiện tượng đẹp vui, thanh thoát như bối cảnh hoàng kim của vườn rừng tươi đẹp ấy.

            2.- Bồ tát Duy Ma Cật di chuyển mấy muôn ngàn Bồ tát vẫn ngồi yên trên tòa sư tử, từ vị trí tịnh thất của ông sang địa điểm chỗ Phật, trên một bàn tay...

            Sao lại có chuyện hoang đường như thế?

            Tại trong người vốn có chất hoang đường khi nghe hiểu theo kiểu hoang đường, cho nên biến ra tưởng tượng.

            Thâm ý của bài kinh, giáo lý Phật đại thừa nhằm dạy cho Thiền giảø vận dụng quán trí, tư duy về vạn pháp qua mấy khía cạnh sau đây:

            a.- Phải hiểu rõ chân lý: Chư pháp tương tức tự tại môn.

            b.- Phải tư duy sâu sắc chân lý: Nhất đa tương dung bất đồng môn.

            c. Phải nhận thức vạn pháp với dạng: Nhân đà la võng cảnh giới môn.

            d.- Nắm vững chân lý: Đồng thời cụ túc tương ứng môn.

            Đoạn kinh trên nhằm dạy cho hành giả phương pháp nhận thức, tư duy và quán chiếu vạn pháp.

            Phải đứng trên lập trường quan điểm đó, người đệ tử Phật có ngày tỏ ngộ chân lý. Sự tu hành sẽ có kết quả thiết thực đem lại sự khinh an giải thoát từng phần trong cuộc sống hiện đời.

            Bằng ngược lại, "Y văn giải nghĩa tam thế Phật oan". Dù có khéo nói vạn ngữ thiên ngôn, thực chất chỉ là người giàu óc hoang đường, nghe chuyện hoang đường và sống để nói chuyện hoang đường.

            3.- Ở cõi Ta bà đức Phật Thích Ca Mâu Ni xử dụng Thanh trần làm Phật sự ïtrong việc giáo hóa chúng sanh. Những chúng sanh hữu duyên được nghe chánh pháp, hành chánh pháp và truyền bá chánh pháp thì quyết định sự giải thoát giác ngộ từng bước mà tiến theo tiến trình tu học của mình. Và Phật chủng đó tồn tại mãi mãi trên tiến trình ấy và cứ nhân lên mãi cho đến ngày thành tựu quả vô thượng Bồ đề.

            Khác đức Phật Thích Ca, đức Phật Hương tích xử dụng Hương trần làm Phật sư trong việc hóa độ chúng Bồ tát. Thì những chúng sanh nào hữu duyên được thọ dụng Hương trần và kết quả đem lại cũng giống nhau. Nghĩa là sự giải thoát giác ngộ cũng từng bước mà tiến theo tiến trình tu học của mình và Phật chủng đó tồn tại mãi cho đến ngày thành tựu quả vô thượng Bồ đề.

            Thanh trần hay hương trần chỉ là phương tiện của chư Phật mà thôi.

            4.- Hơn thế nữa, căn, trần, thức, giới, đại đều là dữ kiện thành tựu vô thượng Bồ đề. Thậm chí có cõi Phậ dùng tứ ma làm Phật sự. Có cõi dùng 84.000 phiền não trần lao cũng làm Phật sự. Làm được những việc như thế gọi là người thể nhập Nhất thiết chư Phật pháp môn.

            5.- Phật quả có thể gọi qua ba danh hiệu: Chánh giác, chánh biến tri giác, vô thượng chánh biến tri giác. Ba cú nghĩa đó, không thể dùng ngôn từ diễn đạt hết công đức, trí tuệ và biện tài của một đấng Như Lai Thế Tôn vô thượng.

            Sự mãn ý của con người tròn đầy hạnh phúc thế gian còn không tả nổi, hưống hồ sự giải thoát giác ngộ vô thượng của một đấng Như Lai.

            Người nói vận dụng ngôn từ ngày này sang ngày khác, tháng này qua năm nọ cũng không diễn tả hết, thì người nghe dù có đa văn đến cở nào, cũng không sao nghe được trọn nghĩa của vấn đề.

            "Như nhơn ẩm thủy, lãnh noản tự tri" là vậy.

            6.- Ông A Nan đã có cơ hội đánh giá nhận xét và so sánh trí tuệ của Thanh văn và Bồ tát điều đó rất quí. Binh thư của Tôn Tẩn có câu: "Tri kỷ tri bỉ bách chiến bách thắng". Trong lãnh vực trí tuệ cũng như vậy. Phải tri kỷ tri bỉ, khư khư ôm cái tánh tự cao, tự mãn, tự đắc, tự hào sẽ mất đi cái lợi lớn. Giống như cục đá xanh, hòn sắt sét dơ dù có bỏ vào chảo đường nấu trăm năm cũng không thể thành chè được, vì nó chẳng thấm được tí đường nào.

            Tuy nhiên, ông A Nan thoái chuyển tự ti thì lại bị Phật quở trách. Phật nói: Từ lâu Như Lai vẫn khen ông là đa văn đấy chứ! Có phải do ông tự mãn tự thị gì đâu. Nhưng trí đa văn của ông chỉ sánh với các hàng A la hán. Với trí tuệ và đa văn của Bồ tát thì không nên so sánh để rồi buồn nản thoái thoát đạo tâm là việc không nên.

            7.- Các Bồ tát khi mới đặt chân đến cõi Ta bà, thoạt đầu có ý niệm xem thường, điều đó Như Lai không hề trách. Vì các ông ấy là Bồ tát, trình độ nhận thức của họ chỉ thông qua cái nhìn của tuệ nhãn thì làm sao bảo họ thấy biết được cõi nước thanh tịnh của chư Phật trong mười phương.

            Chẳng những không trách mà còn khen. Vì sau đó, chư Bồ tát Chúng Hương ăn năn về sự thấy biết thiển cận của mình. Còn biết ra rằng: cõi Ta bà của Thích Ca Như Lai không thật sự nhơ xấu như chúng sanh lầm tưởng. Cõi Ta ba nhơ xấu là do chúng sanh. Đức Thích Ca Như Lai bằng lòng làm giáo chủ cõi nhơ xấu và ở ngay nơi cõi nhơ xấu củng chỉ vì chúng sanh. Phát hiện ra nhận thức đó, lòng kính trọng của chư Bồ tát Chúng Hương đối với đức Phật Thích Ca tăng thêm vạn bội.

            8.- Trước khi chúng con "về" xin Như Lai dạy cho chúng con "một thiểu pháp" (tức là một ít pháp nho nhỏ của Như Lai. Chứ bọn chúng con làm sao nhớ nhiều nổi, nếu Như Lai dạy nhiều và dạy pháp quá cao siêu sâu sắc), để về bên ấy chúng con được nhớ mãi hình bóng và âm thanh vô vàn trí tuệ của Như Lai.

            Chấp thuận lời thỉnh cầu, đức Phật dạy chư Bồ tát Chúng Hương pháp môn Hữu tận Vô tận giải thoát.

            Ý Phật dạy rằng: Là một Bồ tát thì phải thực hiện pháp môn đó suốt tiến trình tu tập của mình.

            Hữu tận, có nghĩa là Bồ tát không được từ bỏ pháp hữu vi. Dù biết các pháp hữu vi như mộng, như huyển, như bào, như ảnh...

            Vô tận, có nghĩa là Bồ tát không được bám trụ pháp vô vi. Dù pháp vô vi đó là phước đức, là trí tuệ, là Niết bàn, là Bồ đề.

            Pháp hữu vi dù như mộng, huyễn, bào, ảnh nhưng Bồ tát không được tránh né, trốn chạy, từ bỏ mà phải tích cực hoạt động vì lý tưởng độ thoát chúng sanh. Bồ tát phát huy công dụng của tâm đại từ, đại bi, đại hỉ, đại xả để lợi ích chúng sanh.

            - Giáo hóa chúng sanh không mỏi mệt.

            - Thực hiện pháp tứ nhiếp vào cuộc đòi.

            - Hộ trì chánh pháp, truyền bá chánh pháp không tiếc thân.

            - Trồng các căn lành không mỏi mệt.

            - Phát huy phương tiện hồi hướng vô thượng Bồ đề.

            - Cầu pháp không giải đải.

            - Thuyết pháp không dấu diếm lẫn tiếc.

            - Siêng cúng dường Phật.

            - Được vinh quang không hảnh diện.

            - Bị trù dập không nản lòng.

            - Không khinh người chưa học.

            - Kính người học như kính Phật.

            - Ai bị phiền não dạy cho họ vượt qua, khiến họ quay về chánh tín.

            - Xa lìa dục lạc, không lấy đó mà tự hào.

            - Được thuận lòng vừa ý, không luyến ái đam mê.

            - Người khác được vui khởi tâm tùy hỷ.

            - Tâm thường ở trong thiền định mà tưởng như mình đang ở địa ngục, nghĩa là chưa được thỏa mãn với thiền định đã có.

            - Ở trong cõi đời sanh tử mà tưởng như đang du ngoạn thượng uyển, hoa viên.

            - Người đến cầu xin cứu hộ, tưởng họ như là vị ân sư.

            - Lục ba la mật khởi tưởng như cha mẹ.

            - Những pháp trợ đạo khởi tưởng như quyến thuộc.

            - Trừ bỏ các ý niệm, hành vi ác để thân, khẩu, ý được thanh tịnh.

            - Dù sanh tử vô số ức kiếp, ý chí vẫn lạc quan.

            - Nghe Phật có vô lượng công đức, không thối chí tự khinh mình.

            - Xử dụng trí tuệ để hóa giải phiền não vô minh.

            - Dùng sức đại tinh tấn, hàng phục phiền não ma quân.

            - Thường trú trong vô niệm để đi vào thật tướng.

            - Sống thiểu dục tri túc mà không rời bỏ pháp thế gian.

            - Lạc thuyết vô ngại biện tài, thuyết pháp không mâu thuẩn trước sau...

            Thực hành những điều như thế, gọi là Bồ tát Bất tận hữu vi.

            9.- Pháp vô vi được xem là đích đến của người tu hành Phật đạo. Tuy nhiên, dù đến mà không được dùng tâm bám trụ, khởi ý đam mê. Nếu bám trụ đam mê thì pháp vô vi lại trở thành điều kiêïn buộc ràng. Người giải thoát bấy giờ tự đánh mất tánh chất giải thoát của mình. Bởi vì cố bám trụ, cố giữ lấy là do sợ mất. Cái người ta sợ mất vì cái đó có thể mất. Có thể mất thì có ngày sẽ mất. Cho nên bám trụ đam mê cái của nợ như thế thì tự nó trở thành nguyên nhân đau khổ, tự nó không còn vô vi pháp nữa. Vì vậy, là một Bồ tát trong quá trình cũng như trên tiến trình tu tập phải học pháp Bất trụ vô vi.

            - Biết rõ vạn pháp giai không mà không lấy cái không ấy làm đối tượng sở chứng của mình.

            - Biết rõ vạn pháp vô tướng, vô tác mà không buông xuôi rời bỏ mọi pháp thế gian.

            - Biết rõ vạn pháp vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh mà không từ bỏ việc lành nào, dù là lành nhỏ.

            - Biết rõ thế gian khổ, mà không oán ghét sanh tử.

            - Biết rõ tất cả đều vô ngã mà hết lòng hết sức giáo hóa chúng sanh.

            - Biết rõ thể tánh của các pháp là tịch diệt mà không mong cầu vĩnh viễn diệt.

            - Quán biết rõ vạn pháp vô sanh mà lấy pháp sanh gánh vác tất cả.

            - Thường quán cảnh giới vô lậu mà không dứt hết các lậu.

            - Hướng tâm về chánh pháp vị mà không làm theo hạnh nguyện Tiểu thừa.

            - Quán biết vạn pháp hư vọng, vô chủ nhưng bổn nguyện chưa thành thì việc tu phước, tu huệ...không phút giây xao lãng.

            Là Bồ tát muốn phước đức viên mãn không nên trụ chấp.

            Muốn trí tuệ viên mãn, Bồ tát không rời bỏ hữu vi

            Để dễ nhớ nội dung tu tập của Tận vô tận giải thoát pháp môn, chúng ta học lấy câu này:

            "Thật tế lý địa bất thọ nhất trần

            Sanh diệt môn trung bất xả nhất pháp".

~~oOo~~
Thanh Sơn đánh máy

Giới thiệu | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14

 


Vào mạng: 11-12-2001

Trở về thư mục "Kinh điển"

Đầu trang