Trang tiếng Anh

      Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt

   

...... ... .  . .  .  .
Kinh Như Lai Viên Giác Trực chỉ đề cương
Pháp Sư Thích Từ Thông

CHƯƠNG SÁU
TÁNH VIÊN GIÁC VỐN LÀ PHI TÁNH

Bấy giờ, Bồ tát Thanh Tịnh Tuệ đảnh lễ Phật và chấy tay thưa:

Đấng Đại bi Thế Tôn vì chúng con nói những việc bất tư nghì, từ trước chúng con chưa từng được nghe. Nhờ sự chỉ dạy khéo léo của Thế Tôn thân tâm chúng con khinh an thư thới được lợi ích lớn lao. Kính xin Như Lai Thế Tôn vì đại chúng trong hội này, dạy rõ thêm về tánh Viên Giác. Đối với Như Lai Viên Giác Diệu Tánh chúng sanh, Bồ tát và chư Phật tu hành khi chứng đắc có sai khác chi chăng? Cúi mong Như Lai chỉ dạy, khiến cho chúng sanh đời sau tùy thuận khai ngộ và lần lần thể nhập.

  1. Phật dạy: Thanh tịnh Tuệ! Ông cũng lại hỏi Như Lai về pháp tu hành tiệm tiến sai biệt! Này, Thanh Tịnh Tuệ ! VIÊN GIÁC TỰ TÁNH vốn là PHI TÁNH, tùy thuận các tánh hư vọng đối đãi mà Như Lai khai thị, thực lý thì không có gì để chứng đắc, cũng không có gì để nắm lấy. Bởi vì ở trong thật tướng không có Bồ tát và chúng sanh. Bởi vì Bồ tát và chúng sanh đều là huyễn hóa. Huyễn hóa diệt, không còn ai là người chứng đắc. Ví như con mắt không tự thấy con mắt, vì tánh của nó tự bình đẳng, không có chủ thể bình đẳng can dự vào. Chúng sanh mê mờ điên đảo, chưa có thể diệt trừ huyễn hóa, đối với kẻ diệt người chưa, dựa trên công dụng hư vọng đó mà giả định ra có sai biệt! Nếu tùy thuận cảnh giới tịch diệt VIÊN GIÁC NHƯ LAI thì không có đối tượng tịch diệt và người chứng nhập tịch diệt.
  2. Này, Thanh Tịnh Tuệ ! Tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến giờ do vọng tưởng về bản ngã và tham ái bản ngã, cho nên khởi niệm ghét thương đam mê ngũ dục, không từng phản tỉnh hồi quang. Nếu gặp thiện tri thức chỉ bày TÁNH VIÊN GIÁC THANH TỊNH, xác định rõ ràng và phân tích tánh khởi diệt vô thường hư huyễn của tự ngã, bèn nhận biết kiếp sống này chỉ là bóng quáng khởi diệt trong NHƯ LAI VIÊN GIÁC nhiệm mầu.
  3. Lại có hạng người trừ hết bóng quáng khởi diệt như huyễn, được cảnh giới thanh tịnh, bèn chấp ở cảnh tịnh, khiến cảnh tịnh trở thành đối tượng chướng ngại, cho nên ở trong Viên Giác mà không được tự tại. Hạng người như thế, gọi là phàm phu tùy thuận tánh Viên Giác.

    Hàng Bồ tát thường bị chướng ngại vì hiểu biết. Dù trừ được cái ngại đó, nhưng còn mắc vào cái ngại giác tri (năng quán) do vậy mà không được tự tại. Hạng người như thế, gọi là Bồ tát chưa đăng địa tùy thuận tánh Viên Giác.

    Này, Thanh Tịnh Tuệ ! Có "sở chiếu", "năng chiếu" đều là chướng ngại. Thế cho nên Bồ tát thường Giác mà không trụ ở Giác. Năng chiếu, sở chiếu đồng thời vắng bặc. Ví như người tự cắt đầu, đầu đã đứt rồi mà không có người cắt. Cũng vậy, lấy tâm ngại tự diệt các chướng ngại. Ngại đã diệt hết rồi, không có người diệt ngại. Nhận thức rằng giáo lý của kinh điển ví như ngón tay chỉ trăng, nhìn thấy trăng rồi, ngón tay không phải là trăng. Tất cả Như Lai vận dụng ngôn thuyết khai thị cho Bồ tát cũng như thế đấy. Hạng người như vậy, gọi là Bồ tát đăng địa tùy thuận tánh Viên Giác.

    Này, Thanh Tịnh Tuệ ! Tất cả chướng ngại là cứu cánh giác. Niệm đúng, niệm sai đều là giải thoát. Pháp tốt, pháp xấu đều là Niết bàn. Trí tuệ ngu si đều lá Bát Nhã. Pháp hành của Bồ tát, của ngoại đạo đều là Bồ đề. Vô minh, chơn như xem đồng một thể. Giới, định, tuệ, dâm, nộ, si đều là phạm hạnh. Chúng sanh, quốc độ đồng một pháp tánh. Địa ngục, Thiên cung đều là Tịnh độ. Hữu tình, vô tình đều thành Phật đạo. Tất cả phiền não là rốt ráo giải thoát. Dùng pháp giới hải tuệ thấy rõ thực tướng của các tướng y như hư không. Đấy gọi là cảnh giới Như Lai tùy thuận tánh Viên Giác.

  4. Này, Thanh Tịnh Tuệ ! Bồ tát và chúng sanh nào ở trong mọi lúc không khởi vọng niệm. Đối với vọng tâm cũng không ngăn dứt. Ơû cảnh vọng tưởng không tăng thêm bực bội. Lúc không bực bội không luận bàn chân thực. Những chúng sanh nghe được pháp môn như thế mà tin hiểu, thọ trì, không sanh kinh sợ, đó là người tùy thuận tánh Viên Giác trọn vẹn trên cõi đời.

Các ông phải biết những chúng sanh như thế, là người đã từng cúng dường trăm ngàn muôn ức hằng hà sa chư Phật và đại Bồ tát, là người đã trồng sâu gốc rễ phước đức rồi. Phật nói người như thế quyết định thành tựu nhất thiết chủng trí.

Bấy giờ đức Thế Tôn tuyên lại nghĩa trên bằng một bài kệ :

Thanh Tịnh Tuệ nên biết.
Tánh Bồ đề viên mãn.
Không lấy cũng không chứng.
Không Bồ tát chúng sanh.
Lúc Giác và chưa giác.
Thứ lớp có sai khác.
Chúng sanh ngại vì biết.
Bồ tát ngại vì Quán.
Đăng địa tròn tịch diệt.
Không trụ tất cả tướng.
Đại Giác đều viên mãn.
Gọi tùy thuận hoàn toàn.
Hậu thế các chúng sanh.
Tâm không sanh hư vọng.
Phật nói người như thế.
Là Bồ tát hiện đời.
Cúng dường mười phương Phật.
Công đức đã tròn đầy.
Dù có nhiều sai biệt.
Phương tiện của Như Lai.

 

TRỰC CHỈ 

  1. Hiện tượng sanh từ bản thể. Tùy duyên sanh trong bất biến. Cảnh mộng sanh từ cõi thực, khách về chủ ở luôn. Bụi mờ lắng xuống, hư không trường tồn. Vấn đề "mê" "giác" cũng lại như vậy. Ngoài cảnh giới "toàn mê" tất còn có cảnh giới "Viên Giác ". Thế cho nên thực lý mà nói DIỆU TÁNH VIÊN GIÁC vốn không là gì cả. Nó là cái tánh ngoài các thứ tánh chấp ngã chấp pháp, các thứ tánh biến kế, y tha cần viễn ly phần còn lại không viễn ly được, gọi cái đó là DIỆU TÁNH VIÊN GIÁC vậy thôi.

    Kinh nói: "Viên Giác tư tánh phi tánh tánh hữu". DIỆU TÁNH VIÊN GIÁC VỐN LÀ PHI TÁNH.

    Tùy thuận tánh Viên Giác đồng nghĩa với tùy thuận pháp tánh. Người tu Viên Giác gọi là xứng tánh khởi tu. Cho nên cảnh giới Viên Giác không phải đối tượng sở chứng. Người tùy thuận Viên Giác không có cái để được. Bởi vì "thật tướng là vô tướng". Do vậy mà khi chứng nhập cảnh giới Viên Giác, không còn thấy có cảnh giới tịch diệt và người được tịch diệt.

  2. Chúng sanh thường qua lại rong chơi trong biển đại tịch diệt Như Lai Viên Giác, vậy mà không biết không hay. Cũng như những kẻ sanh manh đang hòa mình trong ánh sáng tươi mát diệu hiền muôn hồng nghìn tía của ngày xuân mà không hề thưởng thức được cảnh sắc mùa xuân rạng rỡ hữu tình.

    Người xưa nói:

    "Ỏû trong nước chớ nhọc công tìm nước.

    Đứng trên non đừng phí sức tìm non".

  3. Vấn đề tùy thuận Viên Giác, nói một cách thông thường dễ hiểu là vấn đề chứng đắc. Như Lai Viên Giác Diệu Tánh là tánh bình đẳng, là chân lý phổ biến. Cho nên chúng sanh, Bồ tát, Phật khi tùy thuận Viên Giác rồi thì tất cả bình đẳng không có gì sai khác.

    Tuy nhiên, dựa trên công dụng hư vọng diệt trừ huyễn hóa hư vọng, có kẻ diệt người chưa; kẻ diệt nhiều, người diệt ít mà ước định địa vị, giả đặt mỗi địa vị một cái tên:

    • Phàm phu tùy thuận Giác tánh.
    • Nhị thừa tùy thuận Giác tánh.
    • Bồ tát địa tiền tùy thuận Giác tánh.
    • Bồ tát đăng địa tùy thuận Giác tánh.
    • Như Lai tùy thuận Giác tánh.

    Thế thì quả không sai khác, mà nhơn thì có sai khác. Nhơn đã sai khác thì dựa trên căn tánh và sức tinh tấn của mỗi người mà Như Lai Viên Giác Diệu Tánh dường như có sai khác. Ví như ngọc kim cương vốn không có nhiều màu, tùy góc đứng của người nhìn ngắm mà màu sắc biến ảo dường như ngọc kim cương thực có nhiều màu.

    Phàm phu vừa trừ được huyễn hóa lại đam mê vào "cảnh tịch tịnh".

    Bồ tát địa tiền diệt được "giải ngại" nhưng còn vướng mắc "kiến ngại".

    Bồ tát đăng địa thường giác thường chiếu dùng tâm ngại diệt chướng ngại. Ngại diệt hết rồi không thấy có người diệt ngại, ví như người tự cắt đầu mình… Lại nhận thức rằng: "Tất cả kinh điền như ngón tay chỉ trăng"…

    Như Lai thì: tất cả chướng ngại là cứu cánh giác. Phiền não là Bồ đề. Sanh tử tức Niết bàn. Sử dụng Pháp Giới Hải Tuệ nhìn thấy pháp giới trong mười phương như hoa đốm trong hư không loạn khởi loạn diệt. Sanh tử và Niết bàn như mộng sự đêm qua…

    Phải học Bát nhã, hành Bát nhã và sống trong Bát nhã để đủ sức quán chiếu:

    "Tất cả pháp hữu vi.
    Như mộng, huyễn, bóng bọt.
    Như sương như điện xẹt.
    Như vậy mà tư duy".

    Tư duy như thế, rồi tự mình nhận định và xác định bằng cái tuệ đích thực của mình. Lúc bấy giờ hành giả có được cái nghị lực phi thường trước mọi biến thiên thành bại của vạn pháp. Hành giả sẽ là con người tự tại đến độ:

    "NHƯ NHƯ BẤT ĐỘNG".


Tựa | Cáo bạch và phàm lệ | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12

 


Cập nhật: 1-4-2001

Trở về thư mục "Kinh điển"

Đầu trang