- Lược giải Kinh 42
Chương
Chương 26 | Chương 27 | Chương 28 | Chương 29
| Chương 30 | Chương 31 | Chương
32
CHƯƠNG
26 [^]
I. CHÁNH VĂN
Thiên thần dâng cho Đức Phật một
ngọc nữ với ý đồ phá hoại tâm ý của Phật. Phật bảo : "Túi da
ô uế, người đến đây làm gì ? Đi đi, ta không dùng đâu" .Thiên thần
càng thêm kính trọng, do đó mà hỏi về ý của Đạo. Đức Phật vì ông
mà giảng pháp. Ông nghe xong, đắc quả Tu Đà Hoàn.
II. ĐẠI Ý
Chương này nói về thái độ dứt
khoát của Đức Phật đối với nữ sắc .
III. GIẢNG NGHĨA
1. Chú thích từ ngữ, thuật ngữ
:
Thiên : tiếng Phạn là Deva, dịch
âm là Đề Bà. Nghĩa là Quang Minh, Tự Tại, Tối Thắng .
Thiên thần : những chúng sinh
ở cõi thù thắng vui sướng hơn cõi người .
Ngọc nữ : chỉ người con gái
đẹp .
2. Giải thích nội dung :
Từ chương 21 cho đến chương này,
đề cập đến cái nguy hiểm của sự đam mê danh lợi, tài sắc. Đối với
sắc dục, Đức Phật đặc biệt chú trọng qua các chương 23, 24, 25. Đến
chương này, tiêu biểu cho thái độ của người tu hành đối với nữ sắc,
hay nói cách khác, là tiêu biểu cho phương pháp quán chiếu để đoạn trừ
lòng ham muốn nữ sắc. Khi một vị thiên thần dâng cho Đức Phật một cô
gái đẹp với ý định nhiễu loạn tâm của Phật, cũng có thể là thử
ý của Đức Phật . Khi nhìn cô gái đẹp, Ngài liền bảo : "Cái túi
da chứa những ô uế đến đây mà làm gì ?" Qua đó, ta nhận thấy
quan điểm của Đức Phật đối với đối tượng sắc đẹp, cái mà làm
cho nhân loại đảo điên, Đức Phật thấy chỉ là túi da chứa đụng đồ
ô uế . Trong các kinh tạng Nikaya, A Hàm cũng thống nhất phương pháp quán
chiếu để đối trị lòng mê sắc là phương pháp quán bất tịnh. Ví dụ,
khi nhìn một cô gái đẹp thì tâm hỷ lạc khởi lên, khi đó quán chiếu rằng
người con gái đẹp kia sẽ bị xấu, răng rụng, tóc bạc, thân thể hôi
hám … tức nhìn thấy được mặt trái của cô gái đẹp .
Tâm tham đắm nữ sắc, do không thấy
rõ bản chất của sắc đẹp là ô uế, khi thấy được sự thực ấy, tâm
liền tỉnh ngộ. Trong Kinh Tạng, còn đưa ra một số phương pháp đoạn trừ
tâm tham ái nữ sắc như : Quán nữ sắc là vô thường, quán nữ sắc là
nguy hiểm, quán người nữ như là mẹ, là chị, là em gái, hoặc khi bị
hình ảnh của nữ sắc chi phối thì hướng tâm vào các đối tượng khác…
Phương pháp trực tiếp là phương pháp quán thẳng vào thân thể của nữ
sắc để thấy thân thể của nữ sắc là ô uế, bất tịnh .
Đối với một người không bị nữ
sắc làm cho dao động là một người đáng kính, nên vị thiên thần mới
tỏ lòng tôn kính hỏi về Đạo, nhờ đó mà giác ngộ .
IV. NHẬN XÉT VÀ KẾT LUẬN
- Thái độ của Đức Phật đối với nữ sắc là
thấy rõ được bản chất của nữ sắc là ô uế .
- Phương pháp đoạn trừ tâm tham ái nữ sắc là
quán thân thể của nữ sắc là bất tịnh .
CHƯƠNG 27 [^]
I. CHÁNH VĂN
Đức Phật dạy : "Người thực
hành theo Đạo như khúc gỗ trên mặt nước trôi theo dòng nước. Nếu không
bị người ta vớt, không bị quỷ thần ngăn trở không bị nước xoáy
làm cho dừng lại và không bị hư nát, ta đảm bảo rằng khúc cây ấy sẽ
ra đến biển. Người học Đạo nếu không bị tình dục mê hoặc, không bị
tà kiến làm rối loạn, tinh tấn tu tập đạo giải thoát, ta bảo đảm
người này sẽ đắc Đạo" .
II. ĐẠI Ý
Đức Phật dạy không chấp trước
các duyên thì đắc Đạo .
III. GIẢNG NGHĨA
1. Giải thích từ ngữ, thuật ngữ
:
Tà kiến : Pali gọi là Ditthi,
từ ngữ căn Dis là thấy, nhận thức Ditthi là thấy, nhận thức không đúng
với thể tánh, ý kiến sai lạc, sai lầm .
Tinh tấn : (Viriya) còn gọi
là tinh cần là một trong những tâm lý thiện, là siêng năng chuyên cần hướng
thiện .
2. Giải thích nội dung :
Chương này có xuất xứ trong kinh Tương
ưng, phần khúc gỗ nội dung như sau : "Đức Thế Tôn ngụ ở Kosambi
trên bờ sông Hằng, ngài thấy một khúc gỗ lớn trôi theo dòng nước liền
bảo các Tỳ kheo rằng : "Các thầy có thấy khúc gỗ không ? Nếu khúc
gỗ không đâm vào bờ bên này, không đâm vào bờ bên kia, không chìm giữa
dòng, không mắc cạn trên miếng đất nổi, không bị loài người nhặt lấy,
không bị phi nhân nhặt lấy, không bị mắc vào xoáy nước. không bị mục
ở bên trong thì khúc gỗ ấy sẽ hướng về biển, ra đến biển. Cũng vậy
các Tỳ kheo, nếu không bị đâm vào bờ bên này… thì vị Tỳ kheo ấy hướng
về Niết bàn, nhập vào Niết bàn" … "Bờ bên này đồng nghĩa với
6 nội xứ, bờ bên kia đồng nghĩa với 6 ngoại xứ. Bị chìm giữa dòng
đồng nghĩa với lòng tham. Bị mắc cạn trên miếng đất nổi đồng
nghĩa với ngã mạn. Bị người nhặt lấy là Tỳ kheo sống quá liên hệ với
cư sĩ, bị trói buộc mình vào công việc của họ. Bị phi nhân nhặt lấy
là Tỳ kheo tu tập với ước nguyện sinh lên cõi trời. Bị mắc vào nước
xoáy là hưởng thụ 5 dục. Bị mục nát từ bên trong là Tỳ kheo sống
theo tà giới, ác pháp, đáng nghi ngờ, không phải Sa môn mà hiện tướng
Sa môn, lợi dụng hình dáng Sa môn để mưu cầu danh lợi" .
Lúc bấy giờ, người chăn bò là
Nanda đứng cạnh đó không xa, bạch Phật là sẽ không bị đâm vào bờ
bên này … (như trên) và xin xuất gia theo Phật .
So sánh giữa Kinh Tứ Thập Nhị Chương
với kinh Tương Ưng, ta thấy như sau :
- Kinh Tứ Thập Nhị Chương tóm gọn có 5 điều,
trong khi đó kinh Tương Ưng đến 8 điều .
- Kinh Tương Ưng thêm 2 là chìm giữa dòng và mắc
cạn trên miếng đất nổi, điều 1 và điều 2 chỉ là 1 mà thôi, giống
như bên Kinh Tứ Thập Nhị Chương, điều 11 chẳng tấp hai bên bờ .
- So sánh giữa khúc gỗ và người tu hành trong Kinh
Tứ Thập Nhị Chương chỉ đưa ra 3 điều mang tính tổng quát chứ không
ăn khớp với từng điều của khúc gỗ. Ba điều đó là không bị tính dục
mê hoặc và không bị tà kiến làm rối loạn, tinh tấn tu đạo giải thoát
.
- Kinh Tương Ưng đưa ra 8 điều kiện của khúc gỗ
ra đến biển, song song 8 điều kiện một vị Tỳ kheo đến Niết bàn, những
điều này khá rõ .
Tóm lại, chương này trình bày những
điều kiện để một vị xuất gia đạt đến Niết bàn. Đó là những
tiêu chuẩn tu tập để đo lường tà chánh và trình độ tu tập của một
vị Tỳ kheo. Mặt khác, kinh cũng nói lên sự khó khăn là điều tất yếu
của con người tu tập cần phải vượt qua mới đắc Đạo. Luận bảo
Vương Tam Muội đã nói : "Đối với sự nghiệp giải thoát đừng mong
không bị chướng ngại, vì không bị chướng ngại thì chí nguyện không
kiên cường" .
IV. NHẬN XÉT VÀ KẾT LUẬN
- Chương này có xuất xứ trong Tạng A Hàm và
Niyaka (phẩm Khúc gỗ) .
- Người xuất gia với mục đích giải thoát sinh tử
phải biết hướng đi của mình và điều quan trọng là phải tinh tấn nỗ
lực vượt qua các chướng ngại .
- Nên biết rằng con đường nào cũng có trở ngại,
vì vậy khi chướng ngại đến đừng sợ hãi mà bỏ cuộc
CHƯƠNG 28 [^]
I. CHÁNH VĂN
Đức Phật dạy : "Phải thận
trọng đừng chủ quan với tâm ý của ông. Tâm ý của ông không thể tin
được, (vì vậy) hãy thận trọng đừng gần nữ sắc ; gần gũi nữ sắc
thì tai họa phát sinh. Khi nào chứng quả A La Hán rồi mới có thể tin vào
tâm ý của ông" .
II. ĐẠI Ý
Người tu hành chưa đoạn tận ái
dục thì phải cảnh giác đối với nữ sắc .
III. GIẢNG NGHĨA
Mặc dù các chương trước phân
tích những khía cạnh nguy hiểm khác nhau của tình dục, nhưng chương này
vẫn tiếp tục đặt vấn đề đối với nữ sắc. Điểm đặc biệt của
chương này là cảnh giác, những người tu tập thường chủ quan, ỷ lại
vào khả năng của mình, chưa thấy hết sự nguy hiểm tế nhị của nữ sắc.
Hai mục đích của chương này là :
- Cảnh giác các bậc Thánh hữu học (Tu Đà Hoàn
cho đến A Na Hàm) có thể rơi vào chủ quan khi có những tiến bộ tâm linh
cao, vội vã cho rằng mình đã vượt qua uy lực của nữ sắc. Sự đoạn tận
ái nhiễm phải là A La Hán .
- Cảnh giác những người tu tập còn ở địa vị
phàm phu, đừng tự cao, tự đại, tự mãn, với một chút ít công phu mà
coi thường nữ sắc, sẽ bị lôi cuốn bởi nữ sắc, uổng phí công phu tu
tập .
Ngoài ra, chương này cho thấy tâm
ý của chúng sinh khó chế ngự, khó làm chủ, nhất là đối với nữ sắc.
Bản năng dục tính của con người chi phối tâm ý rất mạnh, khuynh hướng
đi theo tiếng gọi của bản năng làm chướng ngại lộ trình giải thoát.
Về mặt nổi, mặt thô, tâm ý có tu tập có thể làm lắng dịu dục
tình, nhưng dục tình sẽ lén lút hoạt động trong tư thế tiềm ẩn tế
nhị, khó nắm bắt, chỉ cần có cơ hội là nó bộc phát. Cơ hội đó là
khi gần gũi đụng chạm với nữ sắc. Vì vậy, rất nhiều hành giả thất
bại vì xem thường nữ sắc và các mối quan hệ với nữ sắc .
IV. NHẬN XÉT VÀ KẾT LUẬN
- Chương này cảnh giác người tu hành đứng chủ
quan đối với tâm ý của mình, nhất là đối với nữ sắc
- Cần phải chánh niệm tĩnh giác đối với hoạt
động của tâm ý. Để giúp cho sự chánh niệm có hiệu quả nên tránh xa
các đối tượng hấp dẫn như nữ sắc .
CHƯƠNG 29 [^]
I. CHÁNH VĂN
Đức Phật dạy : " Phải thận
trọng đừng nên nhìn ngắm nữ sắc, cũng đừng nói chuyện với nữ
nhân. Nếu (bắt buộc) phải nói chuyện với họ thì phải giữ tâm chánh
trực và suy nghĩ rằng : "Ta làm Sa môn sống giữa cuộc đời ô nhiễm,
phải như hoa sen không bị bùn làm ô nhiễm. Nghĩ rằng người (nữ) già như
mẹ, người (nữ) lớn tuổi (hơn mình) như chị, người (nữ) nhỏ (hơn mình)
như em gái, đứa bé (gái) như con, sinh khởi tâm cứu độ họ được giải
thoát. Như vậy liền diệt được ý niệm xấu đối với nữ nhân
II. ĐẠI Ý
Đức Phật dạy phương pháp đề
phòng niệm xấu và diệt trừ ý niệm xấu đối với nữ nhân .
III. GIẢNG NGHĨA
Tiếp theo chương 28, chương này Đức
Phật vẫn cảnh giác người tu hành đề phòng nữ sắc, nhưng khác với chương
trước, chương này đề cập đến cách thức đối phó với người nữ, có
2 phần :
- Đối với người nữ, không nên nhìn ngắm và
nói chuyện. Đây là phương pháp tiêu cực, nhưng có hiệu quả đối với
những tâm tư yếu đuối. Điều tốt cho một người dễ phạm tội là
cách ly môi trường phạm tội. Thường thì không có cảnh (đối tượng)
thì tâm không được kích thích, gợi ý nên ít bị lôi cuốn, giao động.
Nếu tâm ý tác ý mà không có đối tượng thực tế, cũng đễ chế ngự
hơn .
- Khi phải tiếp xúc với người nữ, thì phải giữ
tâm ngay thẳng và suy nghĩ rằng :
- Giống như hoa sen ở trong bùn mà không nhiễm mùi
bùn, ta là Sa môn giữa cuộc đời ô trược không bị nhiễm ô. Đây là
cách tự kỷ ám thị để nâng cao tâm hồn, rũ bỏ niệm xấu .
- Quán tưởng thân thuộc, coi người già như mẹ,
lớn như chị, nhỏ như em, bé như con. Đây là phương thức chuyển hóa tư
tưởng mang tính tích cực; coi họ là đối tượng thân thuộc cần được
giúp đỡ, cần được cứu khổ .
Trong kinh Trung Bộ (Kinh An Trú Tâm)
cũng có đề ra phương pháp quán tưởng để chuyển hóa dục tâm, gồm 5
cách :
- Khi có tư duy liên hệ đến dục… khởi lên, cần
phải tác ý đến một đối tượng khác, hướng tư duy qua một đối tượng
khác để xóa đối tượng dục. Ví như người thợ mộc dùng một cái
nêm nhỏ đánh bật một cái nêm khác (ra khỏi khúc cây) .
- Nếu không có kết quả, tư duy dục vẫn đeo bám
thì cần phải quán sát đến sự nguy hiểm của các dục đó. Ví như một
người bị một xác rắn, một xác chó hay một xác người đeo vào cổ, người
ấy ghê tởm vứt ra .
- Quán sát nguy hiểm của các dục vẫn không có kết
quả, thì nên bỏ qua, đừng nên nghĩ đến đối tượng dục đó nữa; giống
như người không muốn nhìn một vật, họ quay mặt đi chỗ khác .
- Nếu vẫn không có kết quả, thì quan sát hành tướng
của dục, sự sinh khởi, sự an trú của dục, dần dần dục niệm tan biến,
như người đang đi tự hỏi sao ta đi mau ? nên đi chậm lại, người ấy
đi chậm lại …
- Nếu vẫn không có kết quả, dục niệm vẫn khởi
lên, phải nghiến răng, dán chặt lưỡi lên nóc họng, dùng tâm chế ngự
tâm, nhờ vậy dục niệm được đoạn trừ tức là sử dụng ý chí tối
đa .
IV. NHẬN XÉT VÀ KẾT LUẬN
- Phương thức đề phòng niệm xấu đối với nữ
nhân là không nên nhìn ngắm, nói chuyện với người nữ .
- Phương thức chuyển hóa tư duy khi quan hệ với
người nữ là :
- Tự ví mình như hoa sen gần bùn mà chẳng nhiễm
mùi của bùn .
- Quán tưởng người nữ như là thân nam của
mình, là đối tượng để mình cứu độ .
Phương pháp diệt trừ niệm xấu
đối với nữ nhân như trên, tích cực và hiệu quả đối với con đường
tu tập .
CHƯƠNG 30 [^]
I. CHÁNH VĂN
Đức Phật dạy : "Là người
tu hành phải coi mình giống như kẻ mang cỏ khô, thấy lửa đến phải tránh,
người học Đạo thấy các đối tượng dục lạc phải tránh xa" .
II. ĐẠI Ý
Người tu hành phải tránh xa dục lạc
.
III. GIẢNG NGHĨA
Chương này Đức Phật đề cập một
thí dụ mang tính cảnh giác cao, là người tu hành như kẻ mang cỏ khô thấy
lửa phải tránh. Cũng vậy, khi thấy lửa dục lạc cần phải tránh xa, nếu
không sẽ bị cháy một cách nhanh chóng. Thí dụ này gây ấn tượng mạnh
và rõ về mối nguy hiểm của dục lạc .
Người tu hành từ bỏ ái dục, xuất
gia học Đạo, tâm ái dục bị trấn áp, bị ức chế. Điều đó không có
nghĩa là ái dục đã được đoạn trừ. Ngược lại, tâm ái dục hoạt động
tiềm ẩn, càng ức chế nó càng có sức mạnh sẵn sàng bộc phát, cho nên
rất nguy hiểm. Nếu người gần gũi với môi trường ái dục thì sẽ khó
kiềm chế tâm ái dục. Giống như người mang cỏ khô mà đứng gần lửa
thì họa cháy thân tất xảy ra .
IV. NHẬN XÉT VÀ KẾT LUẬN
Thí dụ người mang cỏ khô phải
tránh xa lửa vừa đúng về mặt thực tế vật chất và thực tế tâm lý.
Cảnh giác sự nguy hiểm của dục lạc đối với người tu hành như vậy
là rất cao và rất chính xác .
CHƯƠNG 31 [^]
I. CHÁNH VĂN
Đức Phật dạy : "Có người
lo lắng vì lòng dâm dục không dứt nên muốn đoạn âm". Phật dạy rằng
: "Đoạn âm không bằng đoạn tâm. Tâm như vị công tào, công tào nếu
ngừng thì kẻ tùng sự đều ngừng, tâm tà không ngưng thì đoạn âm có
ích lợi gì ? Phật vì Ông mà nói kệ : "Dục sinh từ nơi ý. Ý do tư
tưởng sinh, hai tâm đều tịch lặng, không mê sắc cũng không hành
dâm". Phật dạy : "Bài kệ này do Đức Phật Ca Diếp nói" .
II. ĐẠI Ý
Đức Phật dạy : "Dâm dục do
nơi tâm sinh, tâm ngưng thì dục ngưng, không nên đoạn sinh dục bên ngoài,
không có hiệu quả" .
III. GIẢNG NGHĨA
1. Giải thích từ ngữ, thuật ngữ
:
Đoạn âm : chặt dứt dương
vật, bộ phận sinh dục .
Công tào : người đứng đầu
một nha quan công sở .
Phật Ca Diếp : là một Đức
Phật trong 7 Đức Phật quá khứ. Phật Ca Diếp là Phật thứ 6, Phật
Thích Ca là Phật thứ 7 .
2. Giải thích nội dung :
Chương này nói lên sự kiện độc
đáo là có người tu hành thấy được cái nguy hiểm của dục, nhưng dục
tâm vẫn cứ tiếp diễn, sinh lý vẫn đòi hỏi; vì vậy, họ nghĩ rằng phải
chấm dứt sự đòi hỏi sinh lý mới tu hành được. Họ nghĩ đến nguyên
nhân trực tiếp là bộ phận sinh dục cần phải đoạn trừ. Coi đó như là
một phương pháp đoạn trừ lòng dâm dục. Đức Phật phản đối phương
pháp này, vừa nguy hiểm, vừa vô ích .
Sai lầm căn bản của người áp dụng
phương pháp đoạn âm là dục tâm do tác động bên ngoài. Thực ra, tâm mới
là chủ nhân của dục, chứ không phải vật. Mặc dù trong Phật giáo nói
đến mối quan hệ mật thiết giữa tâm và vật, nhưng để cải tạo hoàn
cảnh trước hết phải cải tạo tâm lý .
Người đoạn âm mà tâm không đoạn
sẽ xảy ra mâu thuẫn nội tại với thực tế. Mặt khác, người đoạn
âm thường bắt đầu mặc cảm tội lỗi, có cái nhìn lệch lạc về sinh
lý. Cuối cùng sinh lý sẽ làm lệch lạc tâm lý và trở thành bệnh lý .
Người chủ trương đoạn âm là kết
quả của giáo dục một chiều và cực đoan. Sự lo lắng thái quá, sự hiểu
biết về tâm sinh lý hạn chế và cuối cùng là áp lực của một ý tưởng
cực đoan .
Như bài kệ kết luận : Lòng dục
sinh từ nơi ý, tức là do tâm ý phân biệt ngã chấp mà sinh ra tham muốn.
Ý do tư tưởng sinh, tức là do tâm sở tư và tưởng sinh. Tác dụng chấp
ngã và bản năng dục tính do nghiệp tạo tác (tư) và vọng tưởng (tưởng)
hay tri giác mà phát triển. Hai tâm đều tĩnh lặng là tâm sở Tư và Tưởng
đều tĩnh lặng thì không còn bị sắc đẹp làm cho rung động và cũng không
còn hành vi dâm dục, nghĩa là không còn tạo nghiệp .
Có đối tượng hấp dẫn, có chú
ý tạo tác thì mới có chướng ngại, mâu thuẫn nội tại. Nếu tâm đã tịch
tịnh thì không cần phải đoạn âm hay đối tượng bên ngoài .
IV. NHẬN XÉT VÀ KẾT LUẬN
- Chương này điều chỉnh sự lầm lẫn của một
số đệ tử tích cực trong vấn đề đoạn dục bằng cách đoạn âm .
- Đoạn âm là một phương pháp đoạn trừ dục,
nhưng không phải phương pháp của Phật giáo, và ít có hiệu quả
- Tâm mới là chủ nhân của dục. Thanh lọc tâm,
tu tập tâm, tăng thượng tâm mới là con đường của Phật giáo .
CHƯƠNG 32 [^]
I. CHÁNH VĂN
Con người do ái dục mà sinh sầu
ưu, do sầu ưu mà sinh sợ hãi. Nếu thoát ly ái dục, thì có gì mà sầu
ưu, có gì mà sợ hãi .
II. ĐẠI Ý
Ái dục sinh phiền não, hết ái dục
thì phiền não diệt. Phiền não diệt là Niết bàn .
III. GIẢNG NGHĨA
Chương này gần như dẫn nguyên văn
trong Kinh Pháp Cú kệ thứ 215-215 Phẩm Hỷ Ái : "Dục ái sinh sầu ưu,
Dục ái sinh sợ hãi, ái thoát khỏi dục ái, không sầu, đâu sợ hãi
?" .
Thật vậy con người do ái dục về
tiền tài, sắc đẹp, danh tiếng, miếng ăn, giấc ngủ, mà phải lo âu phiền
muộn, tranh đấu chật vật. Có được rồi thì sợ mất, sợ cướp. Các
đối tượng của ái dục là mục tiêu của sự đấu tranh, chém giết,
hãm hại nhau. Điều đó đúng với thực tế của cuộc đời .
Mặt khác về mặt tâm lý, người
chứa nhiều lòng ái thì thường lo buồn. Khi mình thương một người, người
ấy có điều gì bất trắc lòng ta bất an rối rắm, từ lo sinh sợ, sợ mất
đi người mình thương. Rốt cuộc cả cuộc đời luẩn quẩn trong vòng lo
âu và sợ hãi. Thoát khỏi sự ràng buộc của sợi dây tham ái, ta mới
được tự do tự tại .
IV. NHẬN XÉT VÀ KẾT LUẬN
- Chương này tương đồng với kinh Pháp cú, kệ thứ
213-216, Phẩm Hỷ Ái .
- Tiến trình tâm lý bắt đầu từ ái dục là sinh
sầu ưu, từ sầu ưu sinh sợ hãi, là tiến trình khổ đau. Ngược lại không
dục ái không sầu ưu, không sợ hãi là tiến trình giải thoát.
- Giới thiệu | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 |
- | 22 | 23 | 24 | 25 | 26 | 27 | 28 | 29 | 30 | 31 | 32 | 33 | 34 | 35 | 36 | 37 | 38 | 39 | 40 | 41 | 42 |