- Lược giải Kinh 42
Chương
Chương 13 | Chương 14 | Chương 15 | Chương 16
| Chương 17 | Chương18
CHƯƠNG 13 [^]
I. CHÁNH VĂN
Có vị Sa môn hỏi Phật : "Bởi
lý do gì mà biết được đời trước ? Mà hội nhập được Đạo chí thượng?"
.
Đức Phật dạy : "Tâm thanh tịnh,
chí vững bền thì hội nhập Đạo chí thượng, như lau kính hết dơ thì
trong sáng hiển lộ.(cũng vậy) đoạn tận ái dục, tâm không mong cầu thì
sẽ biết được đời trước".
II. ĐẠI Ý
Đức Phật dạy con đường tu tập
để biết được đời trước và đạt đến chỗ chí thượng của Đạo
.
III. GIẢNG NGHĨA
Chương này Đức Phật dạy 2 vấn
đề :
- Cách tu tập để có khả năng biết được đời
sống trong quá khứ, cách ấy là đoạn trừ tham dục, không có mong cầu .
- Cách tu tập để đạt được chỗ chí thượng của
Đạo là thanh tịnh tâm tư và giữ vững ý chí.
Đối với vấn đề thứ nhất, đoạn
dục và không mong cầu có nghĩa là đoạn trừ tham dục vị kỷ, những dục
lạc tiêu biểu như sắc, thanh, hương, vị, xúc ; Không mong cầu là không cầu
được các đối tượng tế nhị hơn, như cầu thần thông, quyền lực
tâm linh hay đắc đạo. Mong cầu là biểu tượng của lòng tham dục, có
tác dụng là làm khuấy động tâm trí, bất an nội tâm, không thể nào có
khả năng biết được đời trước, giống như ly nước bị khuấy động
không thể nào trong được. Ly nước phải lắng đọng mới trong, tâm trí
phải yên lặng mới "trong" và có thể thấy được tiền kiếp. Túc
mạng chính là túc mạng minh, 1 trong 3 minh mà 1 bậc giác ngộ chứng được.
Ngoại đạo và bậc hữu học vẫn chứng được Túc mạng minh hay là Túc
mạng thông, nhưng khả năng hiểu biết còn hạn chế. Như đã biết ở phần
tổng khởi, đoạn dục hay ly dục mới có sự sáng và thấy được đời
trước. Vô cầu vi tế hơn đoạn dục, nhưng cùng một gốc với vô dục
và tác dụng cũng như nhau. Con người hữu cầu là con người sống cho
tương lai, luôn hướng vọng về tương lai, đánh mất hiện tại. Tương
lai thì chưa tới, do đó không sống thực được. Chân lý không nằm ở tương
lai, mà ngay bây giờ và ở đây. Có triết gia nói : "Chúng ta chỉ chuẩn
bị sống chứ không sống" là ý này vậy .
Vấn đề thứ hai, đến chỗ chí
thượng của Đạo, CHÁNH VĂN chữ Hán là chí đạo, ở đây muốn nói là
thành Phật. Muốn thành tựu được quả vị Phật Đà thì phải làm cho
tâm thanh tịnh và giữ vững ý chí. Làm cho tâm được thanh tịnh tức là
đoạn dục. Tâm thanh tịnh là nhờ ly dục, ly bất thiện pháp, nhờ tu tập
an trú các trạng thái thiền định, lắng đọng bụi trần làm cho tâm trở
nên trong sạch, trí tuệ hiển lộ. Con đường tu tập này đã được khái
quát trong bài kệ : "Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành, tự tịnh
kỳ ý, thị chư Phật giáo", nghĩa là đừng làm các điều ác, hãy
làm các việc lành, giữ tâm ý trong sạch, đó là lời Phật dạy. Giữ
tâm ý trong sạch là tịnh tâm, tâm được tĩnh lặng, không bị lục dục
thất tình chi phối dao động như sóng biển. Do tâm tịnh mà được Túc mạng
minh và Thiên nhãn minh .
Giữ vững ý chí, ở chương 9 đã
nói rõ vấn đề : "Người hành đạo phải giữ ý chí thì Đạo rất
lớn". Có ý chí mới giữ được tiến trình tu tập của mình. Tâm
thanh tịnh mà không có ý chí, sự thanh tịnh đó không bền và không đi đến
tận cùng của sự thanh tịnh, sẽ là "Đầu voi đuôi chuột" . Cho
nên muốn thành tựu Phật Đạo phải có ý chí lớn. Điều đó cũng cho biết
rằng trong ý chí có chứa sẵn cái trí tuệ. Ý chí và trí tuệ có liên
quan mật thiết với nhau. Do có trí tuệ mà các lậu hoặc được đoạn trừ,
đạt đến chỗ chí thượng của Đạo, cũng gọi là Lậu tận minh, mà ở
thí dụ của chương nói là "Lau kính hết dơ thì trong sáng hiển lộ".
III. NHẬN XÉT VÀ KẾT LUẬN
- Chương này bắt đầu bằng sự thắc mắc của một
vị Sa môn về 2 vấn đề : làm sao để đạt được Túc mạng minh và làm
sao để đạt được Đạo .
- Đức Phật dạy con đường để được Túc mạng
minh là đoạn trừ tham dục, lòng không mong cầu. Con đường để đắc Đạo
là thanh tịnh tâm thức và giữ vững ý chí .
- Qua nội dung trên, vị Sa môn đã thắc mắc về
con đường tu tập để đạt được quả vị tối thượng (bao gồm tam
minh), Đức Phật đã chỉ cho con đường để thành tựu quả vị tối thượng
ấy là con đường giới, định, tuệ .
CHƯƠNG 14 [^]
I. CHÁNH VĂN
Có 1 vị Sa môn hỏi Phật : "Điều
gì là thiện ? Điều gì là lớn nhất ?". Đức Phật dạy : "Thực
hành Chánh đạo, giữ sự chân thật là Thiện. Chí nguyện hợp với Đạo
là lớn nhất" .
II. ĐẠI Ý
"Thiện"là sống theo đạo
lý giữ đúng sự chân thật, "lớn nhất" là chí nguyện
III. GIẢNG NGHĨA
Chương này cũng bắt đầu bằng câu
hỏi của 1 vị Sa môn về 2 vấn đề Thiện và Lớn nhất . Đức Phật dạy
điều Thiện là thực hành chánh đạo, giữ sự chân thật. Điều gọi là
Lớn là tâm chí ngang tầm với Đạo .
Đối với vấn đề thứ nhất, những
gì gọi là Thiện ; có 2 phần :
- Thực hành Chánh đạo : là tu tập theo Chánh
pháp, với người Phật tử tại gia phải giữ gìn 5 giới, thực hành 10
điều thiện. Đối với người xuất gia tu tập Giới, Định, Tuệ, lấy Bát
chánh Đạo làm phương tiện tiến tu .
- Giữ sự chân thật : Tâm phải chân trực ngay thẳng,
hành vi rõ ràng minh bạch, ngôn ngữ không dối gạt. Gọi là giữ điều chân
thật .
Như vậy gọi là Thiện .
Vấn đề thứ hai, điều gì được
gọi là Lớn nhất. Phật dạy Tâm chí phù hợp với Đạo là Lớn nhất.
Đạo là con đường. Đạo là nguyên lý của cuộc sống. Đạo là bản thể
tịch nhiên của vạn vật vũ trụ. Ở đây muốn nói Đạo là bản thể,
là chân như. Vậy Đạo là vô lượng, vô biên. Đạo là lớn nhất (theo
cách nói của phàm trần). Tâm chí phù hợp với đạo là nâng tâm thức của
mình lớn dần vượt ra ngoài hạn chế của tư tưởng, ngôn ngữ, hành vi
đối đãi, để tâm chí đạt đến chỗ vô lượng, vô biên ngang tầm với
Đạo. Cái tâm chí phù hợp với đạo ấy thường gọi là Đại Hùng, Đại
Lực, Đại Từ Bi .
Như vậy gọi là Lớn nhất.
IV. NHẬN XÉT VÀ KẾT LUẬN
- Chương này vị Sa môn hỏi 2 vấn đề : "Thiện
và Lớn nhất" . Đức Phật dạy 2 vấn đề : Thiện là thực hành
Chánh Đạo, giữ sự chân thật. Lớn là tâm chí phù hợp với Đạo .
- Sự vĩ đại của tâm chí chính là sự vĩ đại
của Trí tuệ, như một Thiền sư nói : "Trí tuệ vượt tầm giới pháp,
Từ bi thấm nhuận non sông" . Đạo và Lớn nhất chỉ ở tâm chí của
mỗi con người .
CHƯƠNG 15 [^]
I. CHÁNH VĂN
Có vị Sa môn hỏi Đức Phật :
"Điều gì là mạnh nhất ? Điều gì là sáng nhất ?" Đức Phật dạy
: "Nhẫn nhục là mạnh nhất vì không chứa ác tâm nên tăng sự an ổn.
Nhẫn nhục là không ác, tất được mọi người tôn kính. Tâm ô nhiễm đã
được đoạn tận, không còn dấu vết gọi là sáng nhất, nghĩa là tất cả
sự vật trong 10 phương, từ vô thỉ thuở chưa có trời đất cho đến ngày
nay không vật gì là không thấy, không vật gì là không biết, không vật
gì là không nghe, đạt được Nhất thiết trí, như vậy được gọi là
sáng nhất" .
II. ĐẠI Ý
Đức Phật dạy về nhẫn nhục là
mạnh nhất và đoạn tận ô nhiễm của tâm là sáng nhất .
III. GIẢNG NGHĨA
1. Chú thích từ ngữ, thuật ngữ
:
Nhẫn nhục : tiếng Phạn là
Ksanti, là một đức tính quan trọng của người Phật tử , tỏ rõ sức mạnh
nội tâm, cũng là một trong 6 Bala mật của Bồ Tát hạnh. Nhẫn có 3 loại
:
- Sinh nhẫn (chúng sinh nhẫn) như muỗi, kiến cắn
không giận, không giết hại, không sân hận với người sân hận, không chửi
mắng người chửi mắng mình, còn gọi là hữu tình nhẫn .
- Pháp nhẫn : nhẫn chịu sự áp bức của thiên
nhiên như nóng, lạnh, mưa nắng… còn gọi là Phi tình nhẫn .
- Vô sinh pháp nhẫn : Nhẫn đạt đến cao độ trở
thành đức tính tự nhiên, ra vào nghịch cảnh và thuận cảnh một cách tự
tại .
Nhấ鴠thiết trí : còn gọi là nhấ鴠thiết chủng trí, là trí tuệ hiểu biết tất cả,
không có gì là không biết. Thành ngữ này chỉ cho trí tuệ của Đức Phật
và bậc Thánh A La Hán.
2. Giải thích nội dung
Nhẫn nhục là nhịn được những
điều khó nhịn, mà tâm được an ổn. Nikàya sử dụng từ kham nhẫn, cả
2 ý nghĩa đều giống nhau. Nhẫn được điều khó khăn là biểu hiện sức
mạnh của nội tâm. Chỉ có những người có trình độ tu tập cao, có sự
kiềm chế lớn mới nhẫn nổi, nên gọi nhẫn nhục là sức mạnh. Nhẫn
nhục không phải là hèn nhát như có người tưởng. Người ta mắng mình
mình mắng lại, người ta hại mình mình hại lại, đó là phản ứng của
động vật. Đạo Phật muốn đem đến cho con người sự hạnh phúc cao thượng,
muốn con người văn minh, văn hóa hơn các loài động vật khác nên khuyến
khích tu hành nhẫn nhục, là cách tu tập tự chủ, làm chủ tâm lý và
hành vi của mình, không phản ứng tự nhiên như các loài động vật khác.
Đức Phật dạy trong kinh Pháp Cú : "Tự chiến thắng mình là chiến
công oanh liệt nhất". Kinh Tăng Chi nói có 8 loại sức mạnh:
- Sức mạnh của trẻ thơ là tiếng khóc .
- Sức mạnh của đàn bà là phẫn nộ .
- Sức mạnh của người ăn trộm là vũ khí .
- Sức mạnh của vua chúa là quyền uy .
- Sức mạnh của kẻ ngu si là áp đảo .
- Sức mạnh của bậc hiền trí là cảm hóa.
- Sức mạnh của người đa văn là thẩm sát .
- Sức mạnh của Sa môn là nhẫn nhục .
Vì vậy, người Sa môn không dựa
vào tiền tài, quyền thế hay tri thức mà chính là sự nhẫn nhục .
Như trong phần giải thích thuật ngữ,
nhẫn nhục có 3 loại : Sinh nhẫn, Pháp nhẫn, và Vô sinh pháp nhẫn, kinh Tăng
Chi cũng đưa ra 3 loại kham nhẫn tương tự .
- Kham nhẫn đối với nóng, lạnh, đói, khát, sự
đau nhói mãnh liệt về thân, sự xúc chạm ruồi, muỗi, các loại bò sát
.
- Kham nhẫn không chửi mắng lại kẻ chửi mắng,
không sân hận lại kẻ sân hận, không hãm hại lại kẻ hãm hại…
- Kham nhẫn khi mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi
ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân cảm xúc, ý biết pháp… không nắm giữ tướng
chung, không nắm giữ tướng riêng, không bị sắc lôi cuốn và chấp thủ
vào sắc…
"Nhẫn nhục là không ác, nên
được mọi người tôn kính", điều này trong kinh Tăng Chi nói thêm người
không nhẫn nhục có năm điều nguy hại :
- Quần chúng không ái mộ, không ưa thích .
- Có nhiều người hận thù .
- Nhiều người tránh né không muốn gặp .
- Lúc sắp chết tâm bị mê loạn
- Sau khi chết rơi vào chốn mê khổ .
Vấn đề thứ hai, sự sáng nhất
trên cõi đời này, về mặt vật lý mặt trời được coi là vật sáng nhất,
nhưng đối với con người thì Đạo Phật cho rằng, Tâm giác ngộ là sáng
nhất, điều này đã nói ở những chương trước rằng những dục vọng,
mong cầu không còn thì tâm được tĩnh lặng có thể biết được đời
trước của mình và của kẻ khác, có thể đạt được quả vị Phật Đà,
tâm ô nhiễm chính là tham dục và lòng mong cầu truy tìm quá khứ, khát vọng
tương lai. Khi tâm đã lặng như mặt nước hồ thu thì vạn vật sẽ hiện
rõ như bóng trong gương, nên nói rằng từ xưa tới nay, không vật gì
không thấy, không vật gì không biết, chứng được nhất thiết trí gọi
là sáng nhất vậy .
III. NHẬN XÉT VÀ KẾT LUẬN
- Chương này giống hai chương trên , là do thắc mắc
của một vị Sa môn mà Đức Phật giảng dạy. Hai chương trước, chương
nào cũng nêu lên hai vấn đề, chương này cũng có hai vấn đề. Như vậy
hình thức 3 chương liên tiếp giống nhau .
- Chương này nêu 2 vấn đề : điều mạnh nhất và
sự sáng nhất, nhưng vấn đề nhẫn nhục quan trọng hơn, vì đó là sức
mạnh của một vị Sa môn hay một đệ tử của Phật
- Nhẫn nhục theo quan điểm Nguyên thủy hay Đại
thừa giống nhau ở chỗ là công phu tu tập chủ yếu của Phật tử, kể cả
các định nghĩa đều giống nhau, mặc dù dùng từ ngữ có khác nhau ; được
cô đọng 3 phương tiện .
- Nhẫn nhục đối với sự khó chịu, sự làm hại
của các loài hữu tình .
- Nhẫn nhục đối với sự khó chịu, sự làm hại
của các loài vô tình .
- Nhẫn nhục đối với sự ràng buộc của các
pháp nói chung và nói riêng là đối tượng của mắt, tai …
CHƯƠNG 16 [^]
I. CHÁNH VĂN
Đức Phật dạy : "Người giữ
ái dục ở trong lòng thì không thấy được Đạo. Thí như nước trong mà
lấy tay khuấy động, người ta đến soi không thấy bóng của mình. Người
do vì ái dục khuấy động mà trong tâm ô nhiễm nổi lên nên không thấy
Đạo được .
Sa môn các ông cần phải xả ly ái
dục. Ái dục hết rồi, có thể thấy Đạo được" .
II. ĐẠI Ý
Đức Phật dạy ái dục còn ở
trong lòng thì không thấy được Đạo. Ái dục hết rồi mới thấy được
Đạo .
III. GIẢNG NGHĨA
Đức Phật dạy trong Trung Bộ Kinh
: "Như một khúc cây xanh đầy nhựa sống để ở trong nước thì sẽ
không nhúm lên được lửa. Cũng vậy, với lòng đầy ái dục người ta sẽ
không chứng được chánh đẳng chánh giác. Như một khúc cây xanh đầy nhựa
sống vớt lên khỏi nước, cũng sẽ không nhúm lên ngọn lửa. Cũng vậy,
với lòng đầy ái dục, người ta không thể chứng được chánh đẳng chánh
giác. Như một khúc cây không còn nhựa sống khô ráo có thể nhúm lên ngọn
lửa . Cũng vậy, với lòng thanh tịnh, đoạn tận ái dục, người ấy có
thể chứng được chánh đẳng chánh giác" Lời kinh này trùng hợp với
lời Phật dạy trong chương 16 này .
Ái dục là nguồn gốc của đau khổ,
là nguyên nhân, là tập đế trong Tứ diệu Đế. Khá nhiều bài kinh trước
đã đề cập đến vấn đề ái dục . Tham dục làm cho tâm ô nhiễm,
không sáng suốt. Đối với dục, Đức Phật dạy cần phải biết rõ 3 vấn
đề .
- Vị ngọt
: đối tượng của ái dục luôn
đem đến sự vui thích, sự cảm thọ sung sướng, đam mê, vì vậy mà ai cũng
ham muốn, luôn tìm kiếm .
- Sự nguy hiểm
: vị ngọt là một mặt của dục
và sự nguy hiểm là mặt trái của dục. Lạc thú hay vị ngọt ấy không
bao giờ thỏa mãn, làm cho con người luôn khao khát, tìm cầu vô tận. Lạc
thú của dục vô thường tạm bợ. Tìm kiếm rất vất vả, có thể vì lạc
thú mà con người có thể hy sinh thân mạng của mình hay triệt tiêu sinh mạng
của kẻ khác. Có được rồi lo giữ gìn, mất đi thì đau khổ … Tôi
thí vua, con giết cha, vợ phản bội chồng và nhiều sự đau thương khác
đều do ái dục mà ra .
- Sự xuất ly
: phải biết rằng xa lìa được
ái dục là thảnh thơi, là giải thoát. Sự đau khổ do vướng vào ái dục,
thì sự hạnh phúc do xa lìa ái dục .
Đối tượng của ái dục thường
được gọi là tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ, hoặc
là sắc, tiếng, hương thơm, mùi vị, cảm giác, xúc chạm. Thực ra, điều
quan trọng vẫn là lòng ái dục chớ không phải do các đối tượng của
giác quan, là chủ nhân gây họa. Do không có trí tuệ, không thấy rõ bản
chất của lạc thú, của đối tượng nên mình lệch lạc, chấp thủ ái dục.
Do ái dục khuấy động nên tâm tư mờ tối, giống như chậu nước trong lặng,
lấy tay quấy lên thì không thể soi bóng mình được .
IV. NHẬN XÉT VÀ KẾT LUẬN
- Cho đến chương 16 này thì vấn đề ái dục được
đề cập trong 7 chương, chương này dành trọn vẹn cả chương để nói về
sự khuấy động của ái dục làm cho tâm không sáng suốt và do đó không
thấy được Đạo .
- Ái dục chính là Tập đế, nguyên nhân của đau
khổ, mà trong Luật đã dạy : "SINH TỬ CĂN BẢN, DỤC VI ĐỆ NHẤT"
.
- Đức Phật khuyên các thầy Sa môn cần phải đoạn
tận ái dục để thấy được Đạo, bằng cách thấy như thật vị ngọt,
sự nguy hiểm và xuất ly ái dục.
CHƯƠNG 17 [^]
I. CHÁNH VĂN
Đức Phật dạy : "Người thấy
được Đạo cũng như cầm đuốc vào trong nhà tối, bóng tối liền mất,
còn lại ánh sáng. Người học Đạo mà thấy được chân lý thì vô minh
liền diệt, chỉ còn trí tuệ" .
II. ĐẠI Ý
Đức Phật dạy về tính chất của
các bậc kiến đạo hay ngộ đạo .
III . GIẢNG NGHĨA
1. Giải thích từ ngữ, thuật ngữ
:
Kiến đạo : là thấy Đạo,
thấy được chân lý, đồng nghĩa với từ Kiến đế ở trong bài. Theo
kinh dạy, thì bậc Kiến đạo là vị chứng quả vị Tu Đà Hoàn, là vị
Thánh đầu tiên trong 4 quả vị. Đối với Bồ Tát đạo thì bậc Kiến đạo
đạt được địa thứ 4 trong 10 địa (Kiến địa, Diệm huệ địa) .
Vô minh : tiếng Phạn là
Avidya, nghĩa là không sáng suốt, mê mờ, không thấy rõ bản chất của sự
vật, đồng nghĩa với chữ Si .
2. Giải thích nội dung :
Chương này Đức Phật nói về
tính chất của một bậc Kiến đạo. Bậc Kiến đạo tức là người thấy
được chân lý, thấy được sự thật, không còn là bị sự vật làm cho
mê muội nữa, một lần thấy là thấy vĩnh viễn. Ở đây chỉ cho quả vị
Tu Đà Hoàn, hay còn có nghĩa là bậc dự vào dòng Thánh bất thoái chuyển,
không trở lại mê lầm nữa. Sau quả vị Kiến đạo, còn có các quả vị
tu đạo là để cân bằng giữa sự thấy và hành động. Sau đó là chứng
Đạo tức là đạt đến chỗ tột cùng .
Trong kinh sử dụng ví dụ người cầm
đuốc đi vào nhà tối, bóng tối liền biến mất chỉ còn ánh sáng là để
dụ cho trí tuệ thấy được chân lý, không còn trở lại tối tăm mê lầm
nữa, minh họa cho ý bất thoái chuyển của bậc kiến đạo .
Từ Kiến đế nghĩa là thấy chân
lý. Chân lý ở đây là 4 chân lý KHỔ – TẬP – DIỆT – ĐẠO. Trong kinh
A hàm , Đức Phật dạy, ai thấy được khổ đế, người ấy thấy luôn cả
nguyên nhân khổ, sự diệt khổ và con đường diệt khổ .
IV. NHẬN XÉT VÀ KẾT LUẬN
Chương này Đức Phật nói về
tính chất của bậc Kiến đạo, tức Thánh Tu Đà Hoàn. Bậc Thánh này đã
thấy được chân lý, tâm không còn mê muội nữa, và không còn trở lại
trạng thái mê lầm nữa như người cầm đuốc vào nhà tối, bóng tối hết,
chỉ còn ánh sáng .
CHƯƠNG 18 [^]
I. CHÁNH VĂN
Đức Phật dạy : "Pháp của ta
là Niệm mà không còn chủ thể Niệ⭠và đối tượng Niệm, Làm mà không
còn chủ thể Làm và đối tượng Làm, Nói mà không có chủ thể Nói và
đối tượng Nói, Tu mà không còn chủ thể Tu và đối tượng Tu. Người
ngộ thì rất gần, kẻ mê thì rất xa. Dứt dường ngôn ngữ, không bị
ràng buộc bất cứ cái gì. Sai chỉ một hào ly thì蠭ất tức khắc .
II. ĐẠI Ý
Đức Phật dạy thực thể của Đạo
thì nằm ngoài phạm trù ngôn ngữ tư duy và bị tác thành của hữu vi
pháp.
III. GIẢNG NGHĨA
Chương này nói về thực thể của
Đạo. Chữ PHÁP ở trong chương này chính là Đạo. Pháp là nguyên lý, là
thể tánh của vạn vật. Pháp này (hay là Đạo) siêu việt chủ thể và đối
tượng, nên nằm ngoài phạm trù ngôn ngữ, tư duy và tác thành của hiện
tượng giới. Đạo không có tướng để có thể khái niệm hay tư duy. Kinh
Kim Cương nói : "Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng. Nhược kiến
chư tướng phi tướng, tức kiến Như Lai". Nghĩa là nơi nào có tướng
là nơi đó có sự giả dối. Nếu thấy được tính cách không tướng của
các tướng, tức là thấy được Như Lai. Cái gì mà có tướng là có chủ
thể và đối tượng đối đãi nhau, cái đó là hư vọng. Vì vậy, Lão tử
nói : "Đạo khả đạo phi thường đạo. Danh khả danh phi thường
danh", nghĩa là "Đạo mà có thể nói được không phải là "đạo
chân thường". Danh mà có thể gọi được không phải là"danh thường
tại", Đạo là thực tại nằm ngoài phạm trù đối đãi của ngôn ngữ,
khái niệm… nên nghĩ hay nói về Đạo hẳn nhiên không phải thực tại của
Đạo. Với ý nghĩa đó Kinh Kim Cương nói : "… Chẳng có một pháp gì
riêng biệt được gọi là vô thượng chánh đẳng giác, cũng không pháp
nào riêng biệt được Như Lai tuyên thuyết. Vì sao ? Vì những pháp Như Lai
đã chứng, đã nói thì không thể nắm bắt được, cũng không thể diễn
tả được. Đó không phải là pháp, cũng không phải là không pháp…"
Vì vậy mà nói pháp của Như lai không có chủ thể tu và đối tượng
tu". Tư duy nói năng và hành động thí cách Đạo rất xa. Đạo vốn chẳng
gần chẳng xa. Ngộ thì rất gần, mê thì rất xa.
IV. NHẬN XÉT VÀ KẾT LUẬN
- Chương này nói về thực thể của Đạo. Pháp
ở đây chính là Đạo, Đạo là Niết bàn chân như ; đạo này không thể
nắm bắt được bằng tư duy, tạo tác, nói năng hay tu tập .
- Người hiểu hay ngộ được lý đạo này thì ở
đâu cũng là Đạo, người không ngộ được thì Đạo rất xa .
Chương này mang tư tưởng của Kinh
Kim Cương Bát Nhã và phong thái của Thiền tông. Dĩ nhiên tư tưởng này
được thêm vào về sau .
- Giới thiệu | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 |
- | 22 | 23 | 24 | 25 | 26 | 27 | 28 | 29 | 30 | 31 | 32 | 33 | 34 | 35 | 36 | 37 | 38 | 39 | 40 | 41 | 42 |