- Lược giải Kinh 42
Chương
CHƯƠNG 5 [^]
I. CHÁNH VĂN
Đức Phật dạy : "Người có lầm
lỗi mà không tự sám hối để mau chấm dứt tâm tạo tội ấy, thì tội
lỗi càng chồng chất vào thân như nước chảy về biển, dần dần trở nên
sâu rộng. Nếu người có tội mà tự nhận biết tội, bỏ ác làm lành
thì tội lỗi tự diệt, như bệnh được đổ mồ hôi dần dần sẽ khỏi
bệnh" .
II. ĐẠI Ý
Đức Phật dạy người có tội phải
sám hối thì tội mới tiêu diệt .
III. GIẢNG NGHĨA
1. Chú thích từ ngữ, thuật ngữ
:
Sám hối : Sám là âm của chữ
Sanscrit là Ksamayati. Ksamayati dịch là hối lỗi. Chữ Hối là chữ Hán, nghĩa
là ăn năn về tội đã phạm. Ghép 2 chữ Phạn và Hán thành chữ Sám hối.
Trong Phật học giáo khoa thư, Trung Hoa thường dịch là Sám ma (Ksama), nghĩa
là Hối quá (hối lỗi), thực ra Ksama là thứ lỗi, tha thứ .
2. Giải thích nội dung :
Đã là người thì không ai không
có lỗi, điều quan trọng là người ấy có thấy được cái lỗi của
mình và ăn năn hối lỗi hay không. Phật dạy có 2 hạng người cao thượng
ở đời là : 1 - người không có tội lỗi ; 2 - người có tội mà biết hối
lỗi. Có lỗi mà không biết hối lỗi thì tội lỗi càng tăng trưởng, bởi
vì khi không biết hối lỗi thì mình yên chí mà tiếp tục lầm lỗi, còn
biết lỗi thì hành vi tội lỗi sẽ dừng lại .
Như đã nói ở chương 4, ác nghiệp
có 10 điều nhưng đều xuất phát từ ý nghiệp tức là từ tâm thức. Nếu
ý được chuyển hóa thì thân và miệng sẽ chuyển theo. Tội đã do tâm tạo
thì cũng do tâm mà diệt. Đây là điều quan trọng và đặc biệt của Phật
giáo. Tội lỗi là do con người tạo ra và cũng do con người diệt trừ, không
do đấng thần linh nào có thể xóa tội cho con người .
Sám hối trong Phật giáo là điều
tự giác tự nguyện và thay đổi tận gốc rễ, chứ không phải sám hối
là để xóa đi lỗi cũ, mà cứ tạo thêm tội mới. Một người gây nên tội
lỗi mà không sám hối về mặt tâm lý sẽ bất an, dẫn đến bất an về
sinh lý và hoàn cảnh. Kinh Tăng Chi nói lên lộ trình của tâm thức của một
người gây tội mà không hối lỗi như sau:
- Có một người nghèo khổ .
- Do nghèo khổ nên mắc nợ .
- Mắc nợ không trả nổi nên tiền lời gia tăng .
- Tiền lời gia tăng chưa trả nên chủ nợ hối
thúc .
- Bị hối thúc mà vẫn chưa trả nên chủ nợ phải
theo sát gót, sợ con nợ bỏ trốn .
- Cuối cùng, không có khả năng chi trả nên bị bắt
trói .
"Người nghèo khổ" dụ cho
người không biết Chánh pháp, Tà pháp điều nào thiện, điều nào ác.
"Mắc nợ" tượng trưng cho người vì không biết tu thiện mà làm
10 điều ác. "Tiền lời gia tăng" nghĩa là khi làm ác, tâm muốn
che giấu để đừng ai biết, tâm càng nặng nề thêm. "Bị thúc hối"
bị mọi người xung quanh chỉ trích, xã hội ruồng bỏ. "Bị theo sát
gót" nghĩa là chính nội tâm của mình ngày đêm bất an, lương tâm cắn
rứt. "Bị bắt trói" nghĩa là bị hình phạt của xã hội hay bị
hình phạt của địa ngục .
IV. NHẬN XÉT VÀ KẾT LUẬN
- Người có tội lỗi mà tự biết tội để sám hối,
đó là hạng người tốt .
- Tội do ý nghiệp sanh, chuyển ý nghiệp thì tội
diệt .
- Oscar Widle : "Sự khác nhau giữa ông Thánh và
kẻ phạm tội là mỗi ông Thánh có một quá khứ, mỗi kẻ phạm tội có
một tương lai".
Điều quan trọng là biết Sám hối
thì tâm thức sẽ thăng tiến, đạo nghiệp sẽ thành tựu .
CHƯƠNG 6 [^]
I.CHÁNH VĂN
Đức Phật dạy rằng : "Người
ác nghe nói ai làm điều thiện thì đến để phá hoại. Khi gặp người
như vậy, các ông phải tự chủ, đừng có tức giận trách móc. Bởi vì,
kẻ mang điều ác đến thì họ sẽ lãnh thọ điều ác đó" .
II. ĐẠI Ý
Phật dạy đừng giận trách những
người phá hoại thiện pháp của mình .
III. GIẢNG NGHĨA
Giữa điều thiện và ác, giữa người
thiện và người ác có một khoảng cách rất xa như sự chết với cái sống,
như đau khổ với hạnh phúc, như chiến tranh với hòa bình. Trong kinhTăng
Chi Phật dạy :
- "Xa thật là xa giữa trời và đất,
- Bờ biển bên này và bờ biển bên kia,
- Chỗ mặt trời mọc và mặt trời lặn,
- Xa hơn hết là pháp của người thiện và pháp của
người bất thiện" .
Người ác thường muốn phá người
thiện vì nhiều lý do. Lý do về tâm lý là người ác không chịu được
người khác nghịch ý của mình, nhất là nghịch 180o . Mặt khác,
họ dù là ác vẫn bị mặc cảm tội lỗi, sự hiện diện của các thiện
làm cho tâm lý của họ bị dao động hơn. Về lý do xã hội, người thiện
càng nhiều thì người ác càng bị lộ diện, và người thiện càng rõ
thì người ác càng bị lên án. Muốn cho điều ác được coi là bình thường
thì những người xung quanh phải ác .
Vì những lý do đó, nên người ác
luôn tấn công người thiện. Người làm điều thiện sẽ được mọi người
thương yêu, kính mến; bên cạnh những người đồng cảm với mình, có
khá nhiều người đang rình rập, chờ sơ hở của mình mà tấn công. Nếu
người thiện buồn phiền giận trách thì thiện pháp tổn giảm, nếu trả
đũa thì mình trở thành người như họ. Theo luật nhân quả, ai gieo gió
thì gặt bão; người ác phá mình họ sẽ tự hại bản thân họ.
IV. NHẬN XÉT VÀ KẾT LUẬN
- Người ác luôn phá hoại thiện pháp của người
hiền.
- Người hiền thật sự là người không phẫn nộ
khi bị người ác phá hoại, không ghét người ác .
- Người làm ác sẽ bị quả báo ác .
CHƯƠNG 7 [^]
I. CHÁNH VĂN
Đức Phật dạy : "Có người
nghe ta giữ đạo, thực hành tâm đại nhân từ, nên đến mắng ta ; ta im lặng
không phản ứng. Người kia mắng xong, ta liền hỏi : "O⮧ đem lễ vật
biếu người khác, người kia không nhận thì lễ vật ấy trở về với
ông không ?". Đáp : "Về chứ" . Ta bảo : "Nay ông mắng ta,
ta không nhận thì tự ông rước họa vào thân, giống như vang theo tiếng,
bóng theo hình, rốt cuộc không thể tránh khỏi. Vậy, hãy cẩn thận, đừng
làm điều ác" .
II. ĐẠI Ý
Phật dạy : "Không nên phản
ứng khi gặp người mắng chửi" .
III. GIẢNG NGHĨA
1. Giải thích từ ngữ, thuật ngữ
:
Đại nhân từ : lòng thương
rộng lớn, một từ khác của chữ Từ Bi, hay Đại Từ Bi. Chỉ cho lòng thương
của bậc Giác ngộ đối với chúng sinh .
2. Giải thích nội dung :
Đức Phật dạy đệ tử không nên
mắng lại kẻ mắng mình. Và Ngài minh họa ý đó bằng trường hợp cụ
thể của mình. Lời dạy của Ngài ở đoạn cuối là cảnh cáo những kẻ
làm ác, thường ưa mắng chửi người khác sẽ gặt lấy tai họa .
Kinh Tương Ưng I (trang 352) mục Phỉ
báng, có câu chuyện tương tự chương này : Đức Phật đang ở tại rừng
Tre, thành Vương Xá. Bà la môn Akkosaka Bhàradvàja rất bực tức khi thấy một
số vị Bà la môn trong dòng họ mình đã từ bỏ gia đình để theo Đức
Phật .Ông ta phẫn nộ đến gặp Đức Phật và phỉ báng, mắng nhiếc
Ngài thậm tệ. Đức Phật vẫn bình thản rồi hỏi ông ta rằng nếu có
khách đến nhà ông, ông có tiếp đãi cơm nước không ? Đáp : Có. Nếu họ
không nhận thì món ăn về ai ? Đáp : Về lại chúng tôi. Cũng vậy, này
Bà la môn, nếu ông phỉ báng chúng tôi, mắng nhiếc chúng tôi, gây lộn với
chúng tôi nhưng chúng tôi không thâu nhận sự mắng nhiếc từ ông. Vậy
này, Bà la môn sự việc ấy về lại ông. Này Bà la môn, nếu ai phỉ báng
lại khi bị phỉ báng, mắng nhiếc lại khi bị mắng nhiếc, gây lộn lại
khi bị gây lộn, như vậy, người ấy đã hưởng thọ, đã san sẻ với
ông, còn chúng tôi không cùng san sẻ, hưởng thọ sự việc ấy với ông
thì sự việc ấy về lại ông .
Chương này triển khai rộng hơn ý
của chương 6, người ác luôn luôn muốn hại người hiền. Thái độ của
người hiền là không nên phản ứng lại .
Thông thường, người ta khi bị chửi
mắng thì nổi nóng mắng lại, đó là điều dễ hiểu và thông cảm. Nhưng
đối với người Phật tử tu tập thì phải làm chủ tâm lý của mình, đừng
phản ứng theo thói thường. Sự khác nhau giữa người tu tập Thánh đạo
với người thường là ở chỗ đó .
Người ta mắng mình, khiêu khích
mình là mong cho mình bị đau khổ, phiền muộn thì người mắng mình đã
thành công, nếu mình không mắng lại, không tức tối thì họ thất bại.
Kinh Tăng Chi nói về 7 pháp mà kẻ thù của ta ưa thích .
- Kẻ thù của ta mong cho ta trở thành xấu xí, nếu
ta nóng giận nhan sắc của chúng ta sẽ xấu xí .
- Kẻ thù của ta mong cho ta ngủ một cách khổ sở,
nếu ta giận hờn thì giấc ngủ của ta khổ sở không yên
- Kẻ thù của ta mong ta không đạt được lợi
ích gì, nếu ta nóng giận thì ta chẳng đạt được lợi ích gì cả .
- Kẻ thù ta mong ta không có tài sản, nghèo hèn, nếu
ta nóng giận sẽ khó có tài sản hay sẽ đánh mất tài sản trở nên
nghèo hèn .
- Kẻ thù ta mong ta không có danh tiếng, nếu ta
nóng giận thì ta chẳng có danh thơm tiếng tốt gì .
- Kẻ thù ta mong ta cô độc, không có bạn bè, nếu
ta nóng giận thì ta sẽ cô độc không có bạn bè .
- Kẻ thù ta mong ta chết trong đau khổ và đọa vào
địa ngục. Nếu ta thường nóng giận thì ta sẽ chết trong đau khổ và rơi
vào địa ngục .
Người tu hành phải làm chủ tâm
lý của mình, không phản ứng theo tự nhiên là đánh lại người đánh
mình, chửi lại người chửi mình như những người bình thường khác .
Hơn nữa, người nào thường chửi
mắng kẻ khác, họ tự đào hố chôn mình, ta không cần mắng chửi lại
làm gì
IV. NHẬN XÉT VÀ KẾT LUẬN
- Chương này tương tự với bài kinh "Phỉ
báng" trong kinh Tương Ưng bộ I (trang 352, Đại Tạng Kinh Việt Nam) .
- Chương này minh họa thêm cho chương 6 về người
ác thường muốn hại người hiền. Thái độ của người hiền là không
nên phản ứng theo thói thường khi bị người khác mắng chửi, phải làm
chủ tâm thức của mình. Sự mắng chửi chỉ đem đến tai hại, chứ không
đem đến một ích lợi nào .
- Người thường nóng giận mắng chửi kẻ khác sẽ
gặt lấy hậu quả xấu .
CHƯƠNG 8 [^]
I. CHÁNH VĂN
Đức Phật dạy : "Kẻ ác hại
người hiền giống như ngước mặt lên trời mà nhổ nước miếng, nhổ
không tới trời, nước miếng rơi xuống mặt mình. Ngược gió tung bụi, bụi
chẳng đến người khác, trở lại dơ thân mình, người hiền không thể hại
được mà còn bị họa đến bản thân" .
II. ĐẠI Ý
Kẻ ác muốn hại người hiền
nhưng không thể hại được, mà còn nguy hiểm cho chính mình .
III. GIẢNG NGHĨA
Chương này một lần nữa nói lên
sự đối chọi của người ác đối với người thiện. Nhưng đã thiện
thì không có gì phải sợ, tâm lý và hành vi của mình trong sạch thì chẳng
ai hại nổi. Bởi lẽ, chánh bao giờ cũng thắng tà. Sự chánh trực sẽ
đem đến sức mạnh để chiến thắng cái tà vạy. Người tu hành thường
bị ma phá hoại, nhưng trong lòng mình không có ma, thì chẳng có ma nào phá
được .
Mặt khác, theo luật nhân quả, gieo
nhân thì gặt quả. Hại người bất thiện có thể quả báo đến chậm;
nhưng hại người hiền, quả báo đến nhanh hơn, bởi vì sự tai hại rộng
lớn hơn, thậm chí quả báo đến ngay lập tức, như trong kinh văn đã thí
dụ ngước lên trời phun nước miếng, nước miếng sẽ rơi xuống mặt mình,
ngược gió tung bụi, bụi không đến người kia mà trở lại dính vào
thân. Trong sách có kể câu chuyện : "Có một người thợ săn dắt bầy
chó vào rừng săn bắn, gặp một vị Tỳ kheo. Sau khi săn, chẳng có con
thú nào, thợ săn cho là xui vì gặp vị tu sĩ, nên người thợ săn xua chó
cắn vị Tỳ kheo. Vị Tỳ kheo hoảng sợ trèo lên cây tránh bầy chó. Người
thợ săn chưa hả tức, lấy cung tên nhắm vị Tỳ kheo mà bắn trúng vào
bàn chân của vị Tỳ kheo. Vì hoảng sợ và đau, nên vị này đánh rơi tấm
y xuống, chụp lên đầu người thợ săn. Bầy chó dữ thấy một người
đang lúng túng trong tấm y vàng, tưởng là vị Tỳ kheo té xuống, liền tập
trung cắn xé chủ mình cho đến chết
IV. NHẬN XÉT VÀ KẾT LUẬN
- Kẻ ác không thể hại được người hiền .
- Người hiền không nên sợ kẻ ác, không trách mắng
kẻ ác, mà còn thương họ phải chịu hậu quả do chính họ gây ra .
CHƯƠNG 9 [^]
I.CHÁNH VĂN
Đức Phật dạy : "Học rộng,
hiểu nhiều, đắm say đạo lý thì Đạo khó hội nhập. Kiên trì tâm chí
thực hành thì Đạo rất lớn lao".
II. ĐẠI Ý
Muốn thành tựu đạo quả thì phải
thực hành giáo lý, chỉ biết học rộng hiểu sâu thì đạo quả khó
thành .
III. GIẢNG NGHĨA
Đạo Phật là con đường giác ngộ,
đưa con người đến sự thoát khổ. Đạo Phật là đạo sống, chứ không
phải là một hệ thống triết học thuần túy, cũng không phải là Đạo của
sự mê tín. Nhiều người nhìn Đạo Phật về góc độ tín ngưỡng tôn
giáo, người khác nhìn vào góc độ triết học, và họ thán phục triết
lý cao siêu của Phật giáo. Nhưng họ chẳng thu hoạch được lợi ích gì
cho bản thân của họ. Đến với Đạo Phật bằng tình cảm tôn giáo hay bằng
tri thức, lý thuyết thì không thể nào đạt đến chỗ tinh túy của Đạo
Phật. Vì vậy, kinh văn nói : "Học rộng hiểu nhiều, đắm say đạo lý
thì Đạo khó hội nhập" là ý này. Hương Nghiêm, Đức Sơn là những
thiền sư nổi tiếng về sự thông thái, cuối cùng nhận ra rằng sự
thông thái đó chẳng ích gì cho sự giác ngộ chân lý, sự thoát ly sinh tử.
Nói như vậy, không có nghĩa là học rộng, hiểu nhiều là vô ích. Học rộng,
hiểu nhiều chỉ có giá trị khi nó được sử dụng để tu tập, để hành
đạo, biến thành chất liệu sống. Mặt khác, ngôn ngữ lý thuyết, chữ
nghĩa không thể diễn tả được chân lý. Sự hạn chế của nó là quá
rõ, chấp thủ vào lý thuyết là tự nhốt mình vào trong vòng lẩn quẩn của
cuộc đời. Đức Phật đã dạy : "Mỗi quan điểm lý thuyết là một
bụi rậm, một mê cung…". Có nhiều nhà nghiên cứu, bác học về Đạo
Phật, những công trình của họ thật là vĩ đại, nhưng phiền não không
đoạn trừ, khổ đau vẫn tồn tại, sinh tử vẫn triền miên … Những người
Phật tử làu thông kinh tạng, tông nào cũng biết, phái nào cũng thông, mở
miệng là Phật, là Tổ, là Kinh, là Kệ, Đức Phật cho rằng đó chỉ là
những kẻ hý luận mà thôi. Lão Tử nói: "Vi học nhật ích, vi đạo
nhật tổn, tổn chi hựu tổn. Dĩ chí ư vô vi", nghĩa là : " Chạy
theo sự học thì càng ngày càng thêm phiền toái, mà theo Đạo thì mỗi
ngày mỗi giảm thiểu, giảm rồi lại giảm nữa, đến khi hội nhập vô
vi". Con đường để thấy Đạo, chứng Đạo phải là con đường thực
hành loại bỏ mọi tư duy khái niệm ngã tướng, đó là ý nghĩa "Kiên
trì tâm chí thực hành Đạo thì Đạo rất lớn lao".
Trong kinh Di giáo, Đức Phật dạy rằng
: "Chế tâm nhất xứ, vô sự bất biện", nghĩa là tập trung tâm
ý vào một chỗ, thì không có việc gì là không thành tựu. Châu Lợi Đàn
Bà Già là một Tỳ kheo dốt nổi tiếng, nhờ chí tâm hành đạo mà thành
tựu Đạo quả. Có những bà già ngu dốt, chỉ chuyên niệm Phật đến chỗ
bất loạn mà thành tựu sở nguyện … Những chuyện như vậy không kể hết
được. Từ "Thủ chí" rất quan trọng, phương ngôn có câu :
"Không có việc gì khó, chỉ sợ lòng không bền", lòng bền bỉ, nước
chảy đá mòn đó là thủ chí. Người xuất gia ban đầu tâm Bồ đề rất
mạnh, nếu tâm Bồ đề đó được giữ vững từ đầu cho đến cuối thì
chắc chắn sẽ gặp Đạo. Nhưng phần lớn, sơ phát tâm mạnh, một thời
gian nó giảm dần, nên độ bền không có, Đạo ngày càng xa, như ta vẫn
thường nghe : "Nhất niên Phật tại tiền, nhị niên Phật tại thiên,
tam niên Phật biến" .
Người xuất gia như một chiến sĩ
ra mặt trận, phải có ý chí quyết thắng, phải có phương pháp chiến đấu
thì mới mong chiến thắng mà trở về. Ý chí chiến đấu là Thủ chí
hành Đạo, phải có phương pháp, đó là học rộng nghe nhiều. Sự hiểu
biết và thực hành phải cân đối. Sự học hỏi phải đi đôi với sự học
hành như một người có mắt để thấy, phải có chân để đi ,thấy mà
không đi coi như không thấy. Đi mà không thấy sẽ đi vào chỗ tối tăm
nguy hiểm. Giữa biết, nói và làm phải là một, như một triết gia Trung
Hoa Vương Dương Minh chủ trương : "Tri hành hợp nhất". Đạo Phật
là đạo cứu khổ, thoát khổ, cho nên rất chú trọng phần thực tiễn, thực
hành. Do đó mà chương này có vẻ như coi trọng thực hành hơn lý thuyết
.
IV. NHẬN XÉT VÀ KẾT LUẬN
- Chương này nói lên sự hạn chế của tri thức
và tình cảm, hai lĩnh vực này khó mà hội nhập Đạo được.
- Sự quan trọng của ý chí, của quyết tâm sẽ đạt
được Đạo quả .
- Học và Tu phải song hành, lý thuyết và thực tiễn
phải hợp nhất thì Đạo rất lớn .
CHƯƠNG 10 [^]
I. CHÁNH VĂN
Đức Phật dạy rằng : "Thấy
người thực hành bố thí, hoan hỷ giúp đỡ thì được phước rất lớn".
Có vị Sa môn hỏi Phật : "Phước này có hết không ?" Phật đáp
: " Thí như lửa của một ngọn đuốc, hàng trăm hàng ngàn người đem
đuốc đến mồi lửa về để nấu ăn hay để thắp sáng, lửa ngọn đuốc
này vẫn như cũ. Phước của người hoan hỷ hỗ trợ cho người thực hành
bố thí cũng vậy" .
II. ĐẠI Ý
Thấy người thực hành bố thí mà
tùy hỷ hỗ trợ thì phước đức rất lớn .
III. GIẢNG NGHĨA
1. Chú thích từ ngữ, thuật ngữ
:
Bố thí : tiếng Phạn là
Dàna (Đàn na), Hán dịch là Thí: cho, tặng. Bố thí là công hạnh tu tập của
người Phật tử . Có 4 loại :
- Tài thí : cho tiền bạc của cải .
- Pháp thí : cho lời khuyên hay nói pháp cho người
được lợi ích .
- Vô úy thí : cho sự không sợ hãi .
- Tùy hỷ thí : cho sự vui vẻ, đồng tình .
Phước (Phúc) : tiếng Phạn là
Dunya, P : Pùnna, là việc tốt, cảnh vừa ý, điềm tốt lành, sung sướng.
Trái với tội, tai họa, khổ sở. Biểu hiện của Phước là sự sang trọng,
giàu có, sống lâu, đẹp đẽ, yên ổn …
2. Giải thích nội dung :
Chương này nói về hạnh tùy hỷ
và hỗ trợ cho người thực hành bố thí, trái với hạnh tùy hỷ là cản
trở chê bai người thực hành hạnh bố thí .
Người thực hành bố thí là người
đang làm điều thiện. Sự phát tâm của họ thuở ban đầu còn yếu, nên
gặp nghịch cảnh họ dễ dàng thoái tâm. Còn làm một việc thiện mà có
sự tán trợ của người khác, niềm tin vào thiện pháp được tăng trưởng,
họ mạnh dạn và vững chắc ý chí hơn trên con đường thực hành bố
thí. Như vậy, nuôi dưỡng và tăng trưởng được tâm bố thí ở kẻ
khác là một việc công đức rất lớn .
Sự tùy hỷ hỗ trợ này có 2 phần
:
- Góp phần công đức bằng vật chất, ví dụ như
có người đứng ra quyên góp để cứu trợ người gặp hoạn nạn, ta vui
vẻ góp tiền bạc, gạo, quần áo…
- Góp phần công đức bằng tinh thần là khuyến
khích, tán dương việc làm tốt đẹp ấy, làm cho người kia phấn khởi
tinh thần, tâm bố thí càng mạnh .
Mặt khác, khi ta vui vẻ hỗ trợ
cho người khác làm việc bố thí, một người làm sẽ tác động đến
lương tâm của kẻ khác, họ sẽ noi gương bố thí, tiếp tục ảnh hưởng
đến người khác nữa… tạo thành tác động dây chuyền. Việc bố thí
trở thành nếp nghĩ, nếp sống của con người trong xã hội thì công đức
tùy hỷ kia sẽ lớn lao vô cùng. Bố thí như vậy sẽ được lưu truyền từ
đời này qua đời khác, biểu hiện tính chất văn hóa văn minh của con
người, nên phước đức đó không thể hết được .
Tuy nhiên, tùy hỷ hỗ trợ kẻ bố
thí phải có trí tuệ, vì giúp đỡ cho người bố thí vì danh lợi cá
nhân, lấy lòng quần chúng để thực hiện ý đồ tăm tối nào đó, thì
không những không có phước mà còn gây họa là đằng khác .
IV. NHẬN XÉT VÀ KẾT LUẬN
- Vui vẻ giúp người thực hành bố thí làm cho người
bố thí tăng thêm niềm tin vào thiện pháp, tâm họ được tăng thượng nên
công đức rất lớn .
- Tạo nên tác động dây chuyền làm cho hạnh bố
thí được phổ biến thành nếp nghĩ, nếp sống của con người, lợi ích
sẽ lớn rộng, nên công đức rất lớn .
- Cản trở là dập tắt lòng bố thí, đẩy người
ta vào bóng tối, mình cũng đi theo vào bóng tối .
CHƯƠNG 11 [^]
I. CHÁNH VĂN
Đức Phật dạy : "Cho một
trăm người ác ăn không bằng cho một người thiện ăn. Cho một ngàn người
thiện ăn không bằng cho một người thọ ngũ giới ăn. Cho một vạn người
thọ ngũ giới ăn không bằng cho một vị Tu Đà Hoàn ăn. Cho một trăm vị
Tu Đà Hoàn ăn không bằng cho một vị Tư Đà Hàm ăn. Cho một ngàn vạn vị
Tư Đà Hàm ăn không bằng cho một vị A Na Hàm ăn. Cho một ức vị A Na Hàm
ăn không bằng cho một vị A La Hán ăn. Cho mười ức vị A La Hán ăn không
bằng cho một vị Bích Chi Phật ăn. Cho một trăm ức vị Bích Chi Phật ăn
không bằng cho một vị Phật ba đời ăn (Tam thế Phật). Cho một ngàn ức
vị Phật ba đời ăn không bằng cho một vị Vô niệm, Vô trụ, Vô tu, Vô
chứng ăn".
II. ĐẠI Ý
So sánh công đức bố thí nhiều
hay ít tùy vào đối tượng bố thí .
III. GIẢNG NGHĨA
1. Giải thích từ ngữ, thuật ngữ
:
Bích chi Phật : dịch âm tiếng
Phạn Pratryka Buddha Trung Hoa dịch là Độc Giác Phật hay là Duyên Giác Phật
tức là người tu hành vào thời kỳ không có Phật pháp, không gặp Phật
pháp, tự lực giác ngộ nhờ quán chiếu nguyên lý duyên sinh .
Tam thế chư Phật : chư Phật
3 đời : quá khứ, hiện tại, vị lai. Thường thì Đức Phật Di Đà tượng
trưng cho Phật quá khứ, Đức Phật Thích Ca tượng trưng cho Đức Phật hiện
tại và Đức Phật Di Lặc tương trưng cho vị lai. Ở chương này muốn
nói đến ứng hóa thân của chư Phật trong chúng sinh giới, cụ thể là Đức
Phật Thích Ca Mâu Ni .
Vị Vô niệm, Vô trụ, Vô tu, Vô
chứng : Ở đây muốn nói đến vị Phật thể tánh, sự thanh tịnh tuyệt
đối của bản thể. Phật này là vô tướng Phật, pháp thân Phật .
2. Giải thích nội dung :
Chương 11 này nói về sự sai biệt
của công đức bố thí tùy theo đối tượng bố thí. Ở trong A hàm và
Nikàya có 2 kinh tương đồng với chương này đó là kinh Cù Đàm Di số 180
(Trung a hàm) và kinh phân biệt cúng dường (Trung bộ kinh 3). Đại ý như
sau : Bà Mahapajapati Gotami dâng cúng Đức Phật chiếc y do chính bà cắt may,
Đức Phật không nhận, khuyên bà nên cúng y ấy cho Tăng chúng công đức rất
lớn. Sau đó ngài dạy về 14 đối tượng cá thể cúng dường được phước
:
- Bố thí cho bàng sinh được trăm phần công đức
.
- Bố thí cho phàm phu ác giới sẽ được ngàn phần
công đức .
- Bố thí cho người giữ (5) giới được trăm ngàn
lần công đức .
- Bố thí cho ngoại đạo ly dục được trăm ngàn
ức công đức .
- Bố thí cho vị đang hướng về quả Dự lưu được
công đức vô lượng .
- Bố thí cho vị đã chứng quả Dự lưu được công
đức vô lượng .
- Bố thí cho vị đang hướng về quả Nhất lai
được công đức vô lượng .
- Bố thí cho vị đã chứng quả Nhất lai được công
đức vô lượng .
- Bố thí cho vị đang hướng về quả Bất lai được
công đức vô lượng .
- Bố thí cho vị đã chứng quả Bất lai được công
đức vô lượng .
- Bố thí cho vị đang hướng về quả A La Hán được
công đức vô lượng .
- Bố thí cho vị đã chứng quả A La Hán được công
đức vô lượng .
- Bố thí cho vị Độc giác Phật được công đức
vô lượng .
- Bố thí cho vị Như Lai được công đức vô lượng
.
Sau đó Đức Phật dạy thêm 7 đối
tượng tập thể nếu bố thí công đức cũng vô lượng .
- Bố thí cho Phật và hai chúng Tăng Ni .
- Bố thí cho chúng Tăng và Ni sau khi Phật qua đời
.
- Bố thí cho Tăng chúng .
- Bố thí cho Ni chúng .
- Bố thí cho vị Tăng Ni đại diện cho Tăng Ni chúng
- Bố thí cho vị Tăng đại diện cho Tăng chúng
- Bố thí cho vị Ni đại diện cho Ni chúng .
Như vậy so sánh giữa Kinh Tứ Thập
Nhị Chương và A Hàm, Nikàya như sau :
- Kinh Tứ Thập Nhị Chương không đề cập đến bố
thí cho hạng bàng sinh .
- Kinh Tứ Thập Nhị Chương không có bố thí cho hạng
tiên nhân, ngoại đạo ly dục. Ahàm và Nikàya đặt hạng người này chỉ
thấp hơn Tu Đà Hoàn .
- Kinh Tứ Thập Nhị Chương không có 4 hạng Tu đà
Hoàn hướng, Tư đà Hàm hướng, A na Hàm hướng, A La Hán hướng .
- Kinh Tứ Thập Nhị Chương lại đưa thêm một vị
được coi là cao hơn Phật là vị Vô niệm, Vô trụ, Vô tu, Vô chứng, đây
là tư tưởng thiền tông Đại thừa sau này thêm vào.
- Về số lượng, đối tượng, Kinh Tứ Thập Nhị
Chương có 10; A Hàm và Nikàya có 14 - Đặc biệt A hàm và Nikàya khi ngang mức
Tu đà Hoàn trở lên không tính số công đức mà gọi chung là công đức vô
lượng
Trong toàn văn kinh phân biệt cúng dường
và kinh Cù Đàm Di, Đức Phật dạy cho Mahapajapati Gotami gồm 14 đối tượng
cá thể và 7 đối tượng tập thể, ngoài ra còn đề cập đến công đức
bố thí hoàn hảo phải nhờ vào đối tượng bố thí và người bố thí
đều thanh tịnh. Như vậy nội dung rất rõ và hợp lý .
Kinh Tứ Thập Nhị Chương chỉ trích
ngang một đoạn nên có vẻ khập khễnh. Chỉ chú trọng đối tượng bố
thí mà không quan tâm đến người bố thí. Nếu người bố thí là kẻ trộm
thì đồ vật ăn trộm đem bố thí công đức không thể lớn được .
Dựa trên cơ sở nào để so sánh bố
thí cho đối tượng này ít hoặc nhiều công đức hơn đối tượng kia .
Đối tượng bố thí có trình độ
đạo đức càng cao thì công đức càng lớn bởi lẽ sự có mặt của một
người thiện sẽ có tác dụng tích cực cho những người xung quanh, họ có
thể đem lại bình an cho nhiều người. Vì vậy, bố thí cho họ không chỉ
đem đến lợi ích cho cá nhân họ mà còn đem lại lợi ích cho số đông,
cho nên công đức bố thí ấy lớn hơn công đức bố thí cho người bình
thường .
Về mặt tâm lý, khi bố thí cho một
người đạo đức Thánh thiện, sự Thánh thiện ấy tỏa ra từ đối tượng
bố thí làm cho tâm lý người bố thí chuyển hóa mạnh mẽ, tạo ấn tượng
sâu sắc làm cho tăng trưởng niềm tin, sự hoan hỷ phát sinh nên công đức
người bố thí càng lớn .
IV. NHẬN XÉT VÀ KẾT LUẬN
- Chương này có xuất xứ trong Kinh Trung A Hàm và
Trung Bộ Kinh (Kinh Cù Đàm Di và Kinh Cúng Dường Phân Biệt ).
- Đối tượng Tam thế Phật và vị Vô niệm, Vô
trụ, Vô tu, Vô chứng là được thêm vào sau này, nguyên bản cũ không có
.
- Bố thí cho người có trình độ, đạo đức và
tâm linh càng cao thì công đức càng lớn . Bố thí là pháp môn tu tập của
người Phật tử , qua đó làm cho tâm thức của mình được thanh thoát, xả
ly .
- Giới thiệu | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 |
- | 22 | 23 | 24 | 25 | 26 | 27 | 28 | 29 | 30 | 31 | 32 | 33 | 34 | 35 | 36 | 37 | 38 | 39 | 40 | 41 | 42 |