Trang tiếng Anh

      Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt

   

...... ... .  . .  .  .
Kinh Bát Đại Nhân Giác
Thích Viên Giác dịch và giải

2

BÀI III
I .CHÁNH VĂN
Đệ nhị giác tri
Đa dục vi khổ
Sanh tử bì lao
Tùng tham dục khởi
Thiểu dục vô vi
Thân tâm tự tại.

II. DỊCH NGHĨA

Điều thứ hai giác ngộ rằng ham muốn nhiều thì đau khổ nhiều. Những nỗi khốn khổ trong cõi sanh tử đều do tham dục mà sanh. Người ít ham muốn, không tạo tác (nghiệp bất thiện) nên thân tâm được tự tại.

III. GIẢI THÍCH NỘI DUNG

Điều giác ngộ thứ hai nói về nguồn gốc đau khổ là do tham dục . Tham nhiều thì khổ nhiều , người ít tham dục thì không bôn ba tìm kiếm , không tạo nghiệp bất thiện , không bị các đối tượng của dục hay ngoại duyên chi phối nên được thảnh thơi, thoải mái , an vui .

Điều này nói lên một chân lý : Khổ và điều kiện sanh ra khổ , đó là lòng ham muốn nhiều của con người . Cái khổ do tham là một kinh nghiệm thực tế mà ai cũng kinh qua . Các đối tượng để mình tham muốn có năm loại tiêu biểu : Tiền bạc, sắc đẹp , danh vọng , ăn uống , ngủ nghỉ, hay nói cách khác , sắc đẹp, tiếng hay, mùi thơm vị ngon, xúc chạm êm dịu . Tại sao tham muốn các đối tượng nầy là khổ ? Thực ra, khi ta tham muốn các đối tượng ấy là ta sướng chứ không phải khổ, khổ không bao giờ là đối tượng mong cầu của ai cả . Khổ có nhiều phương diện :

I . Khổ về cảm thọ hay cảm giác : sung sướng , hạnh phúc là một cảm giác mà Phật học gọi là lạc thọ, ngược lại đau khổ cũng là một cảm giác gọi là khổ thọ . Cả hai loại cảm thọ này thường đi đôi với nhau, đôi khi chúng làm điều kiện cho nhau : " cái này có nên cái kia có" vui quá thì sẽ buồn quá " trèo cao té nặng" … Cảm giác hạnh phúc và khổ đau là bản chất của tham dục . Khi một đối tượng thích ý có mặt nó đem đến cho ta khoái cảm , nhưng khi đối tượng ấy thay đổi , không có mặt nữa nó đem đến cho ta đau khổ , cũng như có thương nên mới có hận , nếu không thương thì làm gì có thù hận !

Trong Kinh Đại Khổ Uẩn (Trung Bộ Kinh I) Đức Phật dạy : Bản chất của dục có ba khía cạnh , mà người tu hành cần phải biết rõ : Vị ngọt của dục , vị đắng của dục và sự giải thoát khỏi chúng .

Vị ngọt của dục : Các đối tượng tham dục đem đến cho con người khoái lạc, sung sướng , thích thú . Vì vậy ai cũng mong cầu tham đắm chúng, những lạc thú này thỏa mãn cảm giác lạc thọ của các giác quan và bản năng hưởng thụ của con người , làm cho cuộc sống của con người trở nên thú vị, có ý nghĩa hơn . Sự hấp dẫn của chúng không dễ thấy được một cách sâu sắc . Có một chuyện ngụ ngôn Phật giáo kể rằng : " Có một người tử tù vượt ngục , bị các con voi của vua rượt đuổi phía sau . Trong cơn nguy kịch , anh ta bị rơi xuống một cái giếng sâu , may thay anh ta nắm được một sợi dây leo khá chắc. Các con voi đã đến và gầm thét trên miệng giếng. Anh nhìn quanh giếng thấy có ba con rồng đang há miệng chờ, bốn góc giếng có bốn con rắn độc đang lăm le chực mổ, nguy hơn nữa là có hai con chuột đang gặm nhấm hai đầu sợi dây leo mà anh đang bám vào, tình thế tuyệt vọng. Trong lúc ấy có một bầy ong bay ngang qua, anh ta ngước cổ há miệﮧ nhìn, bầy ong tình cờ làm rơi xuống năm giọt mật ngay miệng anh. "Ôi ! giọt mật ngọt làm sao!" Anh thốt lên. Trong phút chốc anh ta quên mất sự khốn cùng của mình". Năm giọt mật ấy dụ cho năm dục, nó tạo nên lạc thú cho con người. Nói chung những gì đem đến hỷ và lạc đó là vị ngọt của ngũ dục.

Cảm thọ lạc thú có một tính chất nữa là rất chóng tàn. Khi lạc thọ đã qua đi sẽ để lại tâm hồn ta một nỗi trống trải, lạc lõng, nó hình thành một nhu cầu, thúc đẩy tái tạo lạc thọ ấy và chúng ta lên đường tìm kiếm. Nhưng những lạc thọ đã kinh nghiệm không còn hấp dẫn nữa, không còn "lạc"nữa, phải tìm kiếm lạc thú mới, nghĩa là lạc thú có cường độ cao hơn… cứ thế mà tiếp diễn, rồi nỗi khổ xuất hiện…

2 . Khổ vì đấu tranh : Để đạt được các đối tượng lạc thú không phải dễ dàng, phải có sự mưu tính, nỗ lực, phải tranh đấu, phải hy sinh… mới có được. Trong kinh Đại Khổ Uẩn Phật dạy : Vị đắng của dục hay sự nguy hiểm của tham dục cần phải hiểu rõ rằng :

- Để có các đối tượng tham dục, để thỏa mãn nhu cầu của tham dục, con người phải nỗ lực tìm kiếm chúng, phải đầu tắt mặt tối, phải vất vả, phải hy sinh… may ra mới có được những gì mình muốn.

- Những người vất vả như vậy mà vẫn hai bàn tay trắng không có kết quả gì, thất vọng buồn phiền.

- Có những nguời may mắn hơn, có được những gì mình muốn nhưng phải lo giữ gìn, sợ hãi sẽ mất mát, hao mòn.

- Do mình có tài sản hay mình muốn tài sản, lạc thú mà cha con tranh chấp, vợ chồng chia tay, bạn bè hãm hại, anh em kiện cáo nhau, dối trá lường gạt, hãm hại ….xảy ra.

- Do tham dục mà xóm làng, băng đảng, quốc gia… gây chiến tranh đổ máu, chết chóc… xảy ra cục bộ hay toàn diện.

Do tham dục mà con người sống như cầm thú, sát sinh, trộm cắp, tà dâm, ác nghiệp…

Do vậy chết trong đau khổ, đọa vào đoạ xứ, địa ngục… .Đó là ý nghĩa của kinh văn : "Những nỗi khốn khổ trong cõi sinh tử đều do tham dục mà sanh".

Người ít dục, ít ham muốn lạc thú thì ít khốn khổ hơn,được thanh thản thoải mái hơn như trong Kinh Đại Khổ Uẩn ( sđđ) Đức Phật dạy là sự xuất ly khỏi dục .

Trước hết, do nhận thức rõ vị ngọt và sự nguy hiểm của dục nên sự hấp dẫn của chúng không đủ lực để cuốn hút , chi phối ta nữa . Sau đó trong quá trình quán chiếu tu tập sự an lạc của thiền hay của pháp sanh khởi , chuyển hướng tư duy của ta và chuyển hóa bản năng hưởng thụ dục lạc . Nhờ đó , ta xuất ly khỏi tầm ảnh hưởng của dục . Đó gọi là thiểu dục vô vi, thân tâm tự tại .

IV . KẾT LUẬN

Ham cầu nhiều thì vất vả,khổ sở nhiều; đó là quy luật, đó là con đường phàm phu ngu muội . Con người cứ tưởng rằng họ đạt được nhiều tiền bạc hay địa vị cao là họ thỏa mãn, họ có hạnh phúc. Nhưng thực tế thì vui ít, hạnh phúc ít mà buồn sầu đau khổ thì nhiều . Cuối cùng con người cũng nhận ra chân lý đơn giản này khi họ buộc phải từ bỏ tất cả , như khi chết chẳng hạn ….

Nỗi đau khổ của cuộc đời giống như nồi nước đang sôi , ngọn lửa làm cho nước sôi là ngọn lửa tham dục, ngọn lửa càng lớn , nước càng sôi và càng cạn kiệt,ngọn lửa càng yếu thì nước sôi sẽ bớt nhiệt độ và hết sôi .Cũng vậy , ngọn lửa tham dục bớt đi thì đau khổ sẽ giảm, giảm mãi hằng ngày đến lúc không còn gì để giảm nữa ( vô vi ) thì sự giải thoát tối hậu được thành tựu.


BÀI IV
I . CHÁNH VĂN
Đệ tam giác tri
Tâm vô yểm túc
Duy đắc đa cầu
Tăng trưởng tội ác
Bồ Tát bất nhĩ
Thường niệm tri túc
An bần thủ đạo
Duy tuệ thị nghiệp

II. DỊCH NGHĨA

Điều thứ ba giác ngộ rằng tâm ta không bao giờ biết chán đối với dục lạc , luôn muốn dược nhiều , vì vậy tội ác tăng trưởng . Bậc Bồ Tát thì không như vậy , họ luôn nghĩ đến sự biết đủ, sống an vui thanh đạm để hành đạo , lấy trí tuệ làm sự nghiệp của mình.

III.GIẢI THÍCH NỘI DUNG

1. Như đã trình bày ở bài trước, dục lạc có vị ngọt, sự hấp dẫn nhưng đồng thời nó cũng có vị đắng, sự nguy hiểm . Sự nguy hiểm ấy chính là không bao giờ thỏa mãn . Vì vậy , không bao giờ người ta biết dừng lại đối với các lạc thú thế tục . Con người luôn tìm kiếm lạc thú , những kích thích mới ; nó đẩy con người đi về phía trước một cách mù quáng giống như những con thiêu thân lao vào ánh lửa . Một người đã bị một lạc thú nào đó hấp dẫn , trở thành mục tiêu hay lý tưởng của đời mình , như đối tượng là tiền bạc chẳng hạn , thì lòng họ không bao giờ biết đủ hoặc biết dừng lại . Lòng tham của họ sẽ là "vô đáy", như một guồng máy đã khởi động là không ngừng quay cho đến khi nào bị hư hay hết nhiên liệu , đây là một thực tế tâm lý. Vì vậy tội ác ngày càng nhiều do phải chiếm đoạt cho được mục đích vô tận ấy .

Xu hướng tìm kiếm lạc thú là xu hướng chung của loài người , các loài động vật cũng vậy , đó là bản năng thụ hưởng . Hạnh phúc là từ ngữ văn vẽ của từ lạc thú ; hạnh phúc là mục tiêu của đời sống con người. Những quan niệm về hạnh phúc thông thường là chiếm hữu càng nhiều càng tốt các đối tượng dục lạc, thỏa mãn nhu cầu lạc thú của các giác quan mà trong kinh gọi là dục lạc, phàm phu lạc. Vì nhu cầu hưởng thụ là bản năng nên nó không tự dừng lại được. Có người đọc câu "Nghĩ đến thân thể đừng cầu không tật bệnh. Vì không tật bệnh thì tham dục dễ sanh", ở trong luận Bảo Vương Tam Muội, người ấy cho rằng đối trị tham dục bằng cách cứ để cho tật bệnh rề rề như vậy không cần chữa chạy dứt điểm. Họ quên rằng dù bệnh nặng tham dục vẫn tồn tại, chẳng qua " lực bất tòng tâm" mà thôi.

Làm sao dừng lại được lòng tham dục ? Phải nỗ lực tu tập, phải "rèn luyện" mà thôi. Kinh Trung Bộ đưa ra công thức :"Nhàm chán đưa đến ly tham, ly tham đưa đến đoạn diệt, đoạn diệt đưa đến Niết Bàn". Vậy để dừng lại tham dục phải có thái độ nhàm chán. Bằng cách nào để được nhàm chán ? Để giải quyết vấn đề, Đạo Phật đưa ra tám vạn bốn ngàn pháp môn. Do vậy, có người cho rằng Đạo Phật là đạo diệt dục, khô khan. Đạo Phật chủ trương diệt dục nhưng dục ở đây là tham dục, dục vọng vị kỷ không phải dục hướng thượng, thiện dục hay pháp dục. Vấn đề nhàm chán trước hết tùy thuộc vào năng lực quán chiếu, thấy rõ bản chất của dục, sự nguy hiểm và không đáng kể về giá trị của chúng, một số phương pháp cụ thể được đưa ra ở trong kinh Nhất Thiết Lậu Hoặc, An Trú Tầm… nhờ quán thấy rõ mà đoạn trừ mầm móng tư duy bất thiện : Dục, sân, si. Sau đó là sự gần gũi, tu tập trong chánh pháp phát triển xu hướng ngược lại của thói thường như trong kinh văn gọi là "Thường niệm tri túc".

2 .Vì biết rõ sự nguy hiểm của dục lạc và lòng ham muốn vô tận là cội nguồn sanh tử nên các bậc Bồ tát không nghĩ, không làm theo thói thường của phàm phu mà làm ngược lại. Bồ tát là chữ viết tắt của Bồ Đề Tát Đỏa(Bodhisattva). Nghĩa là chúng sanh giác ngộ.(Bodhi :sự giác ngộ, trí tuệ, sattva:chúng sanh) . Người giác ngộ gọi là Bồ tát. (Hữu tình giác) và làm cho chúng sanh giác ngộ gọi là Bồ tát (Giác hữu tình). Bồ tát là người giác ngộ nên thấy rõ qui luật của hạnh phúc và khổ đau rằng tham muốn nhiều thì tội ác tăng trưởng, khổ đau có mặt; ít ham muốn, biết đủ thì trí tuệ tăng trưởng, hạnh phúc có mặt…

Người biết đủ là biết hài lòng với những gì mình có được, đó là hạnh phúc và giàu có nhất trên cõi đời nầy. Người giàu có là người thỏa mãn sung sướng. Ngược lại người nghèo là người luôn thiếu thốn, khao khát, người không biết đủ luôn luôn thiếu thốn khao khát, luôn tìm kiếm nên họ là người nghèo, cho dù tài sản của họ nhiều đến đâu đi nữa. Giàu hay nghèo, thiếu hay đủ, chỉ trong một ý niệm mà thôi. Trong kinh Di Giáo Phật dạy : "Tri túc giả tuy ngọa địa thượng do vi lạc, bất tri túc giả tuy xử thiên đường diệc bất xứng ý" (Người biết đủ dù nằm ở trên đất cũng thấy an lạc, còn người không biết đủ dù được ở thiên đường cũng không vừa ý) .

- Người giác ngộ(Bồ tát) hay là người Phật tử không có nghĩa là người hoàn toàn vô dục, vô cầu. Vô dục,vô cầu là đối với dục lạc phàm phu vị kỷ, tác hại đưa đến đau khổ.Người Phật tử hướng tâm mong cầu của mình về tha nhân và về pháp mà kinh Trung Bộ gọi là Thánh cầu ( Dhamma chan da) kinh văn nầy gọi là Duy Tuệ Thị Nghiệp. Kinh Thánh Cầu , Phật dạy : "Cầu cái không sanh, không già, không bệnh, không chết, không sầu, không ô nhiễm". Đó là sự mong cầu của Bồ tát hay của các bậc Thánh nhân, các đệ tử của Đức Phật.

- Tại sao tu hành là:"An bần thủ đạo"? Phải chăng đạo Phật muốn bần cùng hóa xã hội nhân sinh ? Dĩ nhiên là không. Mục tiêu của đạo Phật là đời sống an lạc và hạnh phúc chân thật chứ không phải là đời sống giàu hay nghèo. Chấp thủ vào, bám víu vào những cái gì mà bản chất chúng là vô thường, vô ngã thì chắc chắn sẽ gặt hái khổ đau. Lòng tham là đầu mối của các bám víu, vướng mắc như vậy, cho nên rũ bỏ đi lòng tham vô độ thì đời sống của ta và của người mới nhẹ nhàng, thanh thản, mới có hạnh phúc. Vậy một người nghèo mà tham đắm nhiều thì sẽ khổ vô cùng, còn một người giàu mà ít tham đắm thì vẫn hạnh phúc, thanh thản như thường.

- Mặt khác sống đạm bạc để hành đạo dễ hơn là sống với nhu cầu hưởng thụ cao."Giàu sang học đạo là khó" (Kinh Tứ Thập Nhị Chương). Thật vậy, khi mình có quá nhiều nhu cầu không chán thì phải hướng tâm tìm kiếm, phải đầu tư ý chí, tình cảm, sức khỏe, trí khôn và thời gian để đạt được những gì mình cầu mong. Như vậy, con người ta bị nô lệ cho dục vọng, bị cuốn hút vào hướng đi và mục tiêu vô bổ. Trái lại, biết tri túc an phận thanh bần để có thì giờ, sức lực, ý chí làm giàu đời sống tâm linh, đời sống trí tuệ. Hướng đời mình vào hướng đi thánh thiện và siêu thoát, chỉ có trí tuệ mới đáp ứng cho nhu cầu và hướng đi ấy nên gọi là Duy Tuệ Thị Nghiệp.

IV.KẾT LUẬN

Có hai con đường mà ta phải chọn lựa : Một là lao đầu vào đời sống thế tục tìm kiếm lạc thú và đương nhiên hưởng thụ cả đau khổ, con đường đó được làm bằng dục vọng và tội lỗi. Hai là con đường xuất thế siêu thoát lên trên mọi cám dỗ dục lạc, thành tựu những an lạc siêu thế, chấm dứt khổ đau, con đường nầy được làm bằng tri túc và trí tuệ, đấy là con đường của đệ tử xuất gia, của người tu sĩ Phật giáo, đây là con đường của người cư sĩ thực hành Bồ tát hạnh.

BÀI V
I . CHÁNH VĂN

Đệ tứ giác tri
Giải đãi trụy lạc
Thường hành tinh tấn
Phá phiền não ác
Tồi phục tứ ma
Xuất ấm giới ngục.

II. DỊCH NGHĨA

-Điều thứ tư giác ngộ rằng lười biếng sẽ đưa đến sa đọa. Vì vậy nên thường tinh tấn tu tập để phá giặc phiền não, hàng phục bốn loài ma, vượt thoát ngục tù của năm ấm và ba cõi.

III. GIẢI THÍCH NỘI DUNG

Ba điều đầu của tám điều giác ngộ trang bị cho hành giả khả năng nhận thức về bản chất thế giới ( điều 1) , chỉ cho hành giả thấy rõ nguồn gốc của đau khổ là tham dục (điều 2) và con đường khởi hành là tri túc, khai mở trí tuệ (điều3). Đến bây giờ điều thứ tư, chính là sự dấn thân thực hiện hành trì. Biết mà không làm thì cũng như không biết, học mà không hành thì không có kết quả thực tiễn.

Nhận thức là bước đầu, sự thấy biết một cách sâu sắc và triệt để về thiện và bất thiện, về phàm phu và Thánh đạo sẽ tạo cho tâm thức hành giả một ước vọng : Ước vọng đạt đến mục tiêu giải thoát. Ước vọng nầy kích thích hành động để hướng dẫn hành động, tức là sự nỗ lực hành trì..Sự tu tập hành trì có kết quả hay không, nhanh hay chậm tùy thuộc vào nhân duyên mà hành giả có được, nhân duyên chủ yếu là ý chí nỗ lực, kinh gọi là Tinh Tấn.

Tu tập là một quá trình, đòi hỏi duy trì ước muốn và nỗ lực thường xuyên, như giọt nước tuy yếu nhưng cứ nhiễu giọt không ngừng có thể làm thủng một tảng đá. Tảng đá trong tâm ta là một nền tảng vô minh phiền não đã được kết tụ rất lâu ngày. Vì vậy, chỉ cần thiếu nỗ lực nhiệt tâm trong một khoảng thời gian ngắn nào đó, trong khoảng không gian, hoàn cảnh nào đó là có thể làm đổ vỡ toàn bộ công trình mà ta đã xây dựng hoặc ít nhất cũng làm chậm bước tu tập của mình. Nên Kinh văn gọi là " lười biếng sẽ đưa đến đọa lạc" .

Lười biếng nghĩa là lười biếng làm điều thiện, biết đó là điều tốt mà không thực hiện, hoặc thực hiện mà không đến nơi đến chốn, nửa vời…. Đọa lạc có nghĩa là rơi xuống hoặc thối lui, rơi xuống chỗ thấp kém hèn hạ của phàm phu, thối lui tức có tiến bộ trong tu tập mà không giữ được thành quả, không phát huy thành quả ấy được.

Người tu hành như là một chiến sĩ ra mặt trận chiến đấu với giặc phiền não. Phiền não được gọi là giặc vì chúng có khả năng tàn phá và gieo rắc đau khổ cho cuộc đời của chính mình và tha nhân. Tham lam, sân hận, si mê….. là những phiền não có hoạt động rộng và có lực lượng rất mạnh mẽ, nổi có chìm có, khả năng biến hóa ẩn tàng khó phát hiện và rất khó đối phó. Thấy được chúng là một chuyện, biết chỗ ẩn trú của chúng là một chuyện khác và thắng nó hay tiêu diệt được nó lại là một chuyện khác nữa. Vì vậy mà nội dung của tinh tấn được coi là Tứ Chánh Cần, tức là bốn phương diện tinh tấn :

1. Nỗ lực đoạn trừ các điều ác chưa sinh tức chúng còn trong trứng nước, chưa được sanh ra.

2. Nỗ lực đoạn trừ các điều ác đã sanh, không cho chúng phát triển.

3.Nỗ lực thực hành, khơi dậy các điều thiện chưa sinh được sinh ra.

4.Nỗ lực thực hành, phát huy các điều thiện đã được tăng trưởng.

Bốn khía cạnh của tinh tấn là những sách lược để chiến thắng. Một mặt kiềm chế, phát hiện và tiêu diệt giặc phiền não; một mặt nhận chân thúc đẩy, hỗ trợ cho các thiện pháp xuất hiện và tăng trưởng. Như vậy, trước hết là chặn đứng sự bành trướng của phiền não, sau đó quân bình lực lượng giữa trí tuệà phiền não; cuối cùng phát triển khả năng và sức mạnh trí tuệ#273;ể chiến thắng giặc phiền não.

Bất cứ một công việc gì, một công trình gì, một pháp môn tu tập nào đều phải có sự nỗ lực cần thiết và đủ để đưa đến thành công. Trên con đường tu tập đoạn trừ các phiền não và phát triển các hạnh lành, tinh tấn là một yếu tố quan trọng. Tính chất của tinh tấn là một năng lực tổng hợp giữa sự thấy biết, ước muốn và chánh niệm tỉnh giác. Mục đích của tinh tấn ở đây nói rõ, đó là đoạn trừ giặc phiền não, hàng phục bốn loài ma, thoát khỏi ngục tù của năm ấm ba cõi :

Giặc phiền não là những tâm lý ô nhiễm bất thiện, có loại thuộc bản năng tiềm ẩn, có loại thuộc mới huân tập, mặt nổi. Căn cứ của giặc phiền não là vô minh và chấp ngã.

Bốn loài ma : Ma là những gì làm chướng ngại sự tu tập.

a.Phiền não ma: Chính là giặc phiền não, khi ma này xuất hiện thì đau khổ, rối loạn tăng trưởng, thiện pháp tổn giảm.

b.Ngũ ấm ma : Do chấp thủ sai lầm về thân thể, bị các nhu cầu bất thiện của thân thể lôi cuốn, chi phối mà ta làm cho các ác pháp tăng trưởng, thiện pháp tổn giảm. Do chấp thủ các cảm thọ sung sướng, ghét bỏ các cảm thọ đau khổ và không tỉnh giác với cảm giác thọ không khổ, không vui mà tâm ta bị dẫn dắt, bị đẩy vào vòng cương tỏa của chúng làm cho tâm bất an, ác pháp tăng trưởng, thiện pháp tổn giảm. Do chấp thủ, vướng mắc vào khái niệm, tư duy, thành kiến, sai lầm, tức là bị tưởng ấm chi phối làm ngăn che sự sáng suốt của trí tuệ; do vậy các tưởng bất thiện sinh, trí tuệ tổn giảm. Do chấp thủ, vướng mắc vào sự hoạt động thầm kín, tức động lực tâm lý như tham lam, sân hận…. tạo thành xu hướng nội tâm làm cho ác pháp tăng trưởng, thiện pháp khó sanh. Do sự qui định và hạn chế của tâm thức vốn chất chứa năng lực của cảm thọ, tư duy, ý chí bất thiện ô nhiễm mà ta không có cơ hội để tăng trưởng thiện pháp.

Giải thích về ngũ ấm ma, có thể hiểu hai phương diện : Chủ quan và khách quan. Chủ quan nghĩa là do sự chấp thủ, sự vướng mắc của nhận thức về năm ấm mà cản trở sự hiểu biết rõ về bản chất của chúng. Khách quan là chính năm ấm ấy tạo ra năng lực chướng ngại cho sự giác ngộ như câu nói "hữu thân hữu khổ" . Cả hai mặt nầy bao gồm trong nghĩa ngũ ấm ma.

c.Tử ma : Là một loại chướng ngại đưa đến chấm dứt sinh mệnh của con người, làm cho công trình tu tập dang dở hoặc không tu tập được. Như vậy những gì được coi là tử ma ? Có thể đó là quỉ sứ yêu tinh tác họa, đó là bệnh tật hiểm nghèo, những tai nạn, có thể đó là những thế lực hữu hình hay vô hình nào đó. Tóm lại, những gì đưa đến chấm dứt sinh mệnh một cách bất thường thì gọi là tử ma.

d. Thiên ma : Đây là một loài ma đặc biệt và siêu hình, còn gọi là Tha Hóa Tự Tại Thiên Vương Ma hay Ma-Vương-Ba-Tuần, chỉ cho thế lực siệu nhiên trong vũ trụ tạo lực cản đối với một người sắp sửa giác ngộ, sắp vượt thoát khỏi sự cương tỏa của ma giới.

3. Thoát khỏi ngục tù của năm ấm ba cõi :

Năm ấm đã giải thích. Ba cõi là dục giới, sắc giới, vô sắc giới. Ba cõi được coi là ngục tù, là nhà lửa. "Tam giới vô an du như hỏa trạch", là những trói buộc giam hãm của dục và ái. Dục giới là nơi chúng sanh bị trói buộc bởi sự tham dục, dục lạc của giác quan . Sắc giới là nơi chúng sanh bị trói buộc bởi các ái nhiễm của thọ lạc vi tế . Vô sắc giới là nơi chúng sanh bị trói buộc bởi sự ái nhiễm về tưởng . Dục hay ái đều cùng một bản chất và cùng tác dụng trói buộc chúng sanh gắn chặt với dòng sanh tử vô tận . Vì vậy , tinh tấn rất quan trọng, nó sẽ là sức mạnh để vượt qua từng cửa ái hoặc từng giai đoạn tu tập . Nếu vượt qua được các từng cấp của dục giới thì sẽ rơi vào sắc giới ….tiếp tục tinh tấn sẽ vượt thoát trói buộc của ba cõi .

IV . KẾT LUẬN

Sự tu tập cũng như chèo thuyền ngược nước không chèo là bị dừng lại và thối chuyển , tinh tấn là một đức tính cần thiết cho sự chèo con thuyền Bát Nhã vượt biển sanh tử . Đã là một đức tính thì cũng cần phải tu tập : Tinh tấn tu tập hạnh tinh tấn, không có cái gì tự có hoặc ngẫu nhiên . Tất cả đều tuân thủ các quy luật nhân quả , nghiệp báo , duyên sinh . Nhân như thế nào, duyên như thế nào, thì quả báo như thế ấy .

Hạt nhân hay chủng tử vô minh chấp ngã phiền não đã được tích lũy nhiều đời, có sức mạnh rất lớn, không dễ đoạn trừ . Các loại phiền não, bốn ma, năm ấm, giới đều nằm trong đó . Chánh kiến nhận thức được bản chất, chỗ trú ẩn của chúng rồi mới dùng trí tuệtinh tấn đoạn trừ chúng . Những khả năng ấy cũng đều nằm trong tâm thức. Tinh tấn là khai thác triệt để khả năng ấy.


 

BÀI VI
I. CHÁNH VĂN
Đệ ngũ giác ngộ
Ngu si sinh tử
Bồ Tát thường niệm
Quảng học đa văn
Tăng trưởng trí tuệfont>
Thành tựu biện tài
Giáo hóa nhất thiết
Tất dĩ đại lạc.

II. DỊCH NGHĨA

Điều thứ năm giác ngộ rằng : Do vô minh mà bị trôi dạt trong ba cõi sanh tử. Vì vậy các vị Bồ Tát thường nhớ rằng cần phải học rộng, nghe nhiều, tăng trưởng trí tuệthành tựu khả năng biện tài để giáo hóa cho tất cả mọi người đều đạt được hạnh phúc chân thật.

III. GIẢI THÍCH NỘI DUNG

- Điều giác ngộ thứ năm nói đến sự quan trọng của trí tuệrong vấn đề tu tập và trong công cuộc hóa độ chúng sanh . Trí tuệũng là khả năng quán chiếu để thấy rõ nguồn gốc của đau khổ phàm phu là do tham dục, mong cầu nhiều, để chấm dứt đau khổ ấy phải tu tập hạnh ít muốn, biết đủ và trí tuệ. Ý nghĩa này đã được đề cập ở điều một, hai, ba.

Trí tuệrong điều năm này có phạm vi và tác dụng lớn hơn :

1. Trí tuệà sự thấy rõ nguồn gốc của sinh tử, nguồn gốc của sinh tử là vô minh. Đau khổ của cuộc đời có mặt là do tham lam, sân hận; tham lam, sân hận có mặt là do ngu si. Ngu si đồng nghĩa với vô minh, cho nên cần phải rõ nguồn gốc của mọi thứ trên dòng sanh tử luân hồi là do vô minh.

Vô minh là gì ? Chính là sự không hiểu rõ cuộc đời là vô thường, vô ngã, duyên sinh, không hiểu rõ khổ, nguyên nhân của khổ, sự diệt khổ và con đường đưa đến khổ diệt; không hiểu rõ lậu hoặc, nguyên nhân của lậu hoặc, sự đoạn trừ lậu hoặc và con đường đưa đến sự đoạn trừ lậu hoặc…. .Đó là định nghĩa về vô minh một cách căn bản và truyền thống. Vậy thì ta hiểu rõ các nguyên lý trên nhờ học tập, nhờ tu tập quán chiếu về đặc tính vô thường, vô ngã…. Vô minh có chấm dứt hay không? Chưa thể chấm dứt vô minh hoàn toàn được. Bởi lẽ vô minh là một động lực tâm lý mù quáng thuộc bản năng, đó là tập khí được tích lũy qua nhiều kiếp sống. Vì vậy nó có cội nguồn rất sâu trong tạng thức của chúng sinh. Có khi ta biết rằng việc ấy là bất thiện, là không nên làm nhưng ta vẫn cứ làm, không đủ sức cưỡng lại. Hình như nó có một sức mạnh tiềm ẩn nằm ngoài sự kiểm soát của chúng ta. Đấy là vô minh.

Vô minh đã được tích lũy, nay nó chỉ biểu hiện ra những gì mà chúng vốn có.Tham dục, sân hận là biểu hiện của vô minh, càng phát triển tham sân thì lực lượng vô minh càng được củng cố vun bồi và nó tiếp tục có sức mạnh để biểu hiện trong tương lai. Vì vậy, để chặn đứng dòng chảy của vô minh, Đức Phật dạy hãy khơi dậy, phát triển cái "minh", cái vô si có trong mỗi người. Vô tham, vô sân , vô si là những động lực tích cực có thể chặn đứng sự phát triển của vô minh. Để phát triển được "minh", con người cần phải được giáo dục để kiềm chế bản năng, để nâng cao nhận thức. Như vậy, giáo dục là con đường đưa đến "minh". Bồ Tát là người giác ngộ nên biết rất rõ quy luật đưa đến "minh", đó là "học rộng nghe nhiều". Trong kinh Kitagiri (Kinh Trung Bộ Quyển II ) Đức Phật dạy 14 giai đoạn tu tập đưa đến minh như sau :

  1. Có lòng tin vào bậc Đạo sư : Bước đầu của lộ trình tu tập cần phải nương tựa vào một bậc Đạo sư, bậc Đạo sư ấy mình đã biết và tin tưởng rằng có khả năng giúp mình khai mở trí tuệCó lòng tin mình mới an tâm qui hướng về Đạo sư ấy .
  2. Đến gần : Phải đến gần gũi với vị Đạo sư ấy mình mới có cơ hội tiếp nhận những gì cần thiết .
  3. Tôn kính : Tỏ lòng tôn kính Đạo sư, phục vụ chăm sóc hầu hạ bậc Đạo sư những gì cần thiết, bày tỏ thành tâm của mình trên con đường tu học .
  4. Lắng nghe : Là thái độ thành khẩn thiết tha trong học tập, sẵn sàng lắng nghe bất cứ điều gì từ bậc Đạo sư . Với thái độ sẵn sàng như vậy, bậc Đạo sư sẽ sẵn sàng dạy .
  5. Nghe pháp : Đây là giai đoạn bước vào thế giới Phật pháp, những điều bậc Đạo sư dạy luôn được nghe với sự phấn khởi cần mẫn .
  6. Thọ trì pháp : Nhờghe một cách phấn khởi thích thú ta sẽ nhớ những gì được nghe một cách đầy đủ.
  7. Suy tư ý nghĩa : Là sự thọ trì một cách đầy đủ lời dạy của bậc Đạo sư . Qua đó, ý nghĩa sâu sắc của lời dạy dần dần hiển lộ bởi sự suy tư của mình , càng suy tư ý nghĩa càng sáng .
  8. Chấp nhận học pháp : Sau khi suy tư hiểu rõ nghĩa lý, tâm không còn thắc mắc chống đối, tâm thuận theo pháp , chấp nhận học pháp ấy . Đến đây, tư tưởng đã thông suốt .
  9. Ước muốn sanh khởi : Sau khi chấp nhận học pháp rồi , niềm hoan hỷ sẽ khởi lên trong tâm, tâm muốn dấn thân thực hiện các học pháp ấy, muốn thực hành .
  10. Nỗ lực hành trì : Do ước muốn khởi lên nên tâm nỗ lực hành trì pháp mà Đạo sư đã dạy để tự mình đạt được những gì đã thông suốt trong lý thuyết.
  11. Cân nhắc : Nỗ lực nhưng không bị mù quáng , bởi sự xác quyết trong quá trình thực hành sẽ nảy sinh những mâu thuẫn, lệch lạc. Ta cần phải tỉnh táo để cân nhắc suy xét để tìm ra đường lối thích hợp nhất .
  12. Tinh cần tu học : Sau khi vừa học , vừa làm, vừa cân nhắc đã đầy đủ, con đường đã ổn định , sự phát triển hướng đi bằng sự tinh tấn không gián đoạn sẽ có kết quả tốt .
  13. Tự thân chứng sự thật : Với sự tinh cần trên , ta sẽ đạt được kinh nghiệm tự thân về thực tại vô ngã ,cảm nhận được pháp vị giải thoát.
  14. Trí tuệ thể nhập sự thật : Đạt được trí tuệ viên mãn , thành tựu giải thoát hoàn toàn .Nghĩa là " minh" sanh, " tuệ" sanh, chấm dứt sanh tử luân hồi .

Thành tựu được trí tuệối thượng bằng " quảng học đa văn" qua 14 giai đoạn như trong kinh Kitagiri đề cập thì mới thật sự hữu hiệu. Có người học Phật vì nghĩ rằng cần "quảng học đa văn" nên lao đầu vào học tập, môn nào cũng học, trường nào cũng học, ai nói gì cũng nghe, thâm nhập rất nhiều tư liệu gọi là "kiến văn quảng bác" nhưng phiền não không vì vậy mà được đoạn trừ . Đây là một sự hiểu lầm tai hại, cả cuộc đời phung phí cho kiến thức bao la của thế gian.

2. Tác dụng của trí tuệ#273;ặc biệt ở chỗ giáo dục mọi người đạt được hạnh phúc trong cuộc sống mà kinh văn gọi là "Thành tựu được biện tài để giáo hoá tất cả đều được an lạc". Trí tuệiện tài là một khả năng bén nhạy về mặt lý luận để nhiếp phục tha nhân. Con người cảm nhận, tiếp nhận thế giới qua âm thanh ngôn ngữ, do đó giáo dục chủ yếu vẫn là ngôn ngữ, khả năng thuyết phục của ngôn ngữ rất cao làm cho con người chấp nhận, hiểu biết và thực hành theo chánh đạo. Kinh tạng Nikàya đưa ra bốn pháp vô ngại giải. (Patisambhidà) là nghĩa vô ngại giải, pháp vô ngại giải, từ vô ngại giải, biện tài vô ngại giải. Kinh tạng Đại thừa cũng có bốn pháp biện tài : Pháp vô ngại biện tài, nghĩa vô ngại biện tài, từ vô ngại biện tài và nhạo thuyết vô ngại biện tài.

a. Pháp vô ngại biện tài : Là thông suốt hệ thống tư tưởng Phật học, pháp môn nào cũng thông suốt, cũng hiểu nguyên tắc, đường lối của pháp môn ấy.

b. Nghĩa vô ngại biện tài :Ý nghĩa sâu xa của Kinh- Luật-luận đều hiểu thấu, dù lời lẽ cổ xưa, phương thức diễn đạt không hiện đại, thuật ngữ khó hiểu, nghĩa là hiểu được ý tứ của bất cứ pháp nào.

c. Từ vô ngại biện tài : Hiểu biết phong phú về từ ngữ để diễn đạt tư tưởng, từ ngữ chuyên môn của các lĩnh vực khác nhau và hiểu được các loại ngôn ngữ khác nhau.

d. Nhạo thuyết vô ngại biện tài : Khả năng diễn đạt hấp dẫn dễ thuyết phục, phù hợp với căn cơ, trình độ văn hoá, phong tục tập quán của con người và xã hội, làm cho người nghe vui vẻ và chấp nhận.

Một người có được khả năng trí tuệ biện tài như vậy là một ngôi sao sáng ngời giữa bầu trời Phật pháp. Họ sẽ đem đến lợi ích rất lớn cho nhiều người, cho nhiều quốc độ khác nhau, Phật pháp đuợc truyền rộng, và hạnh phúc mà Phật pháp đem đến cho người tiếp nhận chính là niềm hạnh phúc chân thật nhất.

IV. KẾT KUẬN

Vô minh là cội nguồn của sanh tử, của đau khổ. Chấm dứt vô minh là mục tiêu của đạo Phật và của người đệ tử Phật. Con đường để đoạn trừ được vô minh là con đường phát triển trí tuệ, tức là làm cho " minh" xuất hiện thì " vô minh diệt". Trí tuệ có được là qua quá trình học tập biết nhiều qua văn huệ, tư huệ, tu huệ. Nhờ học rộng biết nhiều mà thành tựu được khả năng trí tuệiện tài tức là hiểu biết và lý luận sắc bén.Nhờ vậy mà giáo hóa được nhiều loại chúng sanh khác nhau, nhiều quốc độ khác nhau. Phật pháp được gieo rắc rộng rãi, sự hạnh phúc mọi loài chúng sanh được phổ cập.

Trí tuệ trong bài giác ngộ thứ năm nầy là trí tuệ đi vào lĩnh vực chuyên môn, nghĩa là phát huy tác dụng độ sanh, tác dụng giáo dục để thành đạt mục đích phổ cập hóa Phật pháp vào đời sống con người và xã hội.


BÀI VII
I . CHÁNH VĂN
Đệ lục giác tri
Bần khổ đa oán
Hoạnh kết ác duyên
Bồ tát bố thí
Đẳng niệm oán thân
Bất niệm cựu ác
Bất tắng ác nhân.

II. DỊCH NGHĨA

Điều thứ sáu giác ngộ rằng sự nghèo khổ sinh ra oán hận, tạo thêm duyên nghiệp bất thiện. Vì thế, Bồ tát cần thực hành hạnh bố thí một cách bình đẳng giữa kẻ ghét với người thương. Hãy quên đi những điều xấu ác mà họ đã gây cho mình, không nên ghét bỏ những người ác.

III. GIẢI THÍCH NỘI DUNG

Điều giác ngộ thứ sáu nói về công hạnh bố thí của người tu Bồ tát hạnh, bài nầy có hai ý.

1. Hiểu rõ cái vòng lẩn quẩn của người nghèo khó : Do nghèo nên con người dễ sinh ra bất mãn, ganh tỵ, hận thù. Đối với bản thân, họ không hài lòng với chính mình, tâm lý xáo trộn bất an. Đối với gia đình vợ con họ quạu cọ không vui, dễ sân hận vì họ cảm thấy mình không đủ tài, không được coi trọng, dễ gây đổ vỡ tình cảm. Đối với bạn bè xóm giềng, họ tự ty hoặc nghi ngờ và sanh tâm đố kỵ, ganh tỵ. Nói chung, họ bất mãn và không có niềm tin vào cái thiện, cái chân. Do vậy, cái nghèo dễ đẩy con nguời vào con đường tội lỗi, làm các việc bất thiện để mau giàu. Họ vi phạm luật pháp, đánh mất nhân cách, đạo đức… Vì vậy, cuộc đời của họ càng khốn đốn hơn, càng khốn đốn họ càng bất mãn oán hận… Đó là cái vòng lẩn quẩn của con người bị cái nghèo khó bức bách.

Người thực hành hạnh Bồ Tát quán chiếu thấy rõ sự nghèo khó sẽ dẫn con người đến phạm tội , sẽ đưa xã hội vào sự bất an . Đức Phật đã từng nêu lên thực trạng ấy rằng : " Do nghèo khổ mà trộm cướp bạo hành, giết hại, dối trá tăng trưởng làm cho băng hoại xã hội".(Kinh Trường Bộ : Chuyển Luân Thánh Vương và Sư Tử Hống) Ngài đã từng khuyên các vị vua cai trị không nên dùng hình phạt độc ác với ý nghĩa rằng nhờ đó mà trộm cắp cướp giật được diệt trừ. Ngài dạy rằng : " Những người nào có khả năng về nông nghiệp, chăn nuôi hãy cấp cho họ thực phẩm và thực vật;người nào có khả năng về thương nghiệp thì cấp cho họ vốn đầu tư ; người nào có khả năng về quan chức thì cấp cho họ thực phẩm và lương bổng …tuỳ theo khả năng ngành nghề chuyên môn mà ban cho họ cái cần thiết …. họ sẽ chuyên tâm vào công việc của mình , có phương tiện để sống nên không còn phạm tội quấy nhiễu trị an mà còn đóng góp vào ngân sách quốc gia" ( Trường Bộ Kinh, kutadanda) . Để cho sự nghèo khổ giảm bớt áp lực, để cho tâm tư của người nghèo được an ổn và để cho xã hội được bình an thịnh vượng, Bồát phát nguyện thực hành bố thí, nghĩa là bố thí tiền bạc, vật chất an ủi phần nào nỗi đau của sự nghèo khó. Chúng ta có thể thấy rằng đây là một công hạnh tu tập mà phần lớn là khả năng của người Bồ Tát tại gia, tức người Phật tử cư sĩ.

Có thể chúng ta có một cách lý giải khác rằng : Nghèo khổ ở đây là nghèo về đạo đức, nghèo về trí tuệ. Do vậy phiền não tham hận thù sinh ra, các ác nghiệp được nối kết. Thế nên Bồ Tát phải thực hành pháp thí làm cho mọi người được mở con mắt trí tuệhấy được chân lý, đoạn tận nghiệp duyên bất thiện. Nghèo tinh thần, nghèo trí tuệ sẽ đưa đến phiền não sanh trưởng và nghiệp ác sẽ phát sinh. Bố thí ở đây là pháp thí, đây là khả năng của Bồ Tát xuất gia. Tuy vậy ý nghĩa của điều giác ngộ thứ sáu này nặng về hạnh bố thí tài vật, mà hạnh nầy hợp với sở trường của người cư sĩ tại gia hơn là xuất gia. Trong Đại Trí Độ Luận nói :"Như Đức Phật dạy : Ở đời có hai hạng người khó được : một là trong hàng xuất gia, vị Tỳ Kheo được phi thời giải thoát ; hai là trong hàng tại gia, kẻ bạch y thường hành bố thí thanh tịnh" .

2. Bố thí bình đẳng : Tức là bố thí với tâm vô chấp, tâm vị tha và tâm giải thoát. Thường thì người bố thí có tâm phân biệt người mình thương hay người dễ thương, mình sẽ đối xử rộng rãi hơn, mau mắn hơn ; còn người dễ ghét hay người nghịch với mình, có thể mình cũng cho nhưng có giới hạn hơn, ít hoan hỷ hơn. Thái độ bố thí của Bồ tát không phân biệt như vậy mà bố thí với tâm bình đẳng, vô chấp gọi là bố thí Ba la mật. Trong Đại-Trí-Độ-Luận bố thí Ba la mật là : "Nếu bố thí còn có ba thứ chướng ngại chấp có ta cho, người kia nhận và tài vật bố thí thì rơi vào cảnh giới ma, chưa lìa khỏi các nạn. Còn như Bồ tát bố thí cả ba thứ đều thanh tịnh không chướng ngại thì được chư Phật khen ngợi, gọi là Ba-la-mật" (ĐTĐL-trang 467 của H-T Thiện Siêu dịch).

Bố thí mà tâm không bình đẳng, bị các phiền não sai sử như thương, ghét, giận tức hay vui buồn thì bố thí rất hạn chế, kết quả không cao và không phù hợp với con đường giải thoát và chí nguyện độ sanh. Bố thí như vậy gọi là bố thí không thanh tịnh. Theo Đại-Trí-Độ-Luận bố thí không thanh tịnh là : "Hàng ngu si bố thí mà không hiểu gì; hoặc vì cầu tài nên bố thí ; vì sợ hiềm trách nên bố thí; vì sợ sệt nên bố thí; hoặc vì muốn cầu ý người nên bố thí; hoặc sợ chết nên bố thí; hoặc dối người làm cho họ mừng nên bố thí; hoặc tự cho giàu sang nên bố thí; hoặc tranh hơn nên bố thí; hoặc ganh ghét sân si nên bố thí; hoặc kiêu ngạo tự cao nên bố thí; hoặc vì danh dự nên bố thí; hoặc vì chú nguyện nên bố thí; hoặc vì giải trừ suy hoại cầu tốt lành nên bố thí; hoặc vì qui tụ đông người nên bố thí; hoặc vì khinh hèn không cung kính nên bố thí. Cách bố thí như vậy gọi là bố thí không thanh tịnh"(sđd T443). Quan điểm về bố thí thanh tịnh thì ngược lại các điều trên, bố thí như vậy có ý nghĩa rất cao dựa trên nguyên lý Không-VôTướng-Vô nguyện.

Trong kinh tạng Nguyên thủy, các động cơ bố thí cũng được đề cập đến tương tự như trên :

  1. Vì có người đến (đông đảo) nên bố thí.
  2. Vì sợ hãi nên bố thí.
  3. Vì nghĩ rằng "nó đã cho ta" nên bố thí.
  4. Vì nghĩ rằng " nó sẽ cho ta" nên bố thí.
  5. Vì nghĩ rằng " Bố thí là tốt lành" nên bố thí.
  6. Vì nghĩ rằng " mình giàu có, người kia nghèo thật không xứng đáng nếu không cho" nên bố thí.
  7. Vì nghĩ rằng " do ta bố thí mà tiếng tốt được truyền đi xa" nên bố thí.
  8. Vì trang nghiêm tâm, trang bị tâm nên bố thí.

Tám động cơ khác nữa là :

  1. Vì lòng tham mà bố thí
  2. Vì sân hận mà bố thí.
  3. Vì ngu si mà bố thí.
  4. Vì sợ hãi nên bố thí.
  5. Vì theo truyền thống nên bố thí.
  6. Vì muốn quả báo cõi trời nên bố thí.
  7. Vì nghĩ rằng : "Bố thí làm cho tâm được hoan hỷ" nên bố thí.
  8. Vì trang nghiêm tâm trang bị tâm nên bố thí. (Anguttara Nikàya III, Chương VIII Pháp ).

- Như vậy mười sáu động cơ bố thí không thanh tịnh của Đại Trí Độ Luận và mười sáu động cơ bố thí của Kinh Tăng Chi có khá nhiều điều giống nhau. Bố thí được coi là đúng chánh pháp và đúng hành vi của một người có trí tuệà " Để trang nghiêm tâm, trang bị tâm" (theo Kinh Tăng Chi), nghĩa là tâm được thanh tịnh vượt thoát các phiền não chấp thủ mà trong Đại Trí Độ Luận gọi là bố thí Ba La Mật : Không chấp thủ người cho, kẻ nhận và của cho. Đó là tâm vô chấp, tâm bình đẳng xả bỏ được nhân ngã.

- Chấp thủ bất cứ một điều gì thô hay tế, trong hay ngoài đều có tác dụng làm cho tâm ô nhiễm. Thông thường, khi ta có thiện cảm với ai, thương mến ai thì ta rất dễ mở rộng lòng mà cho một cách vui vẻ không tiếc, ngược lại đã không thương thì cõi lòng khép lại, vì vậy tu tập lòng từ bi sẽ rất dễ dàng thực hành bố thí; bố thí là sự thể hiện của tâm từ bi. Tâm chướng ngại cho tâm từ bi là tâm sân hận; sự giận ghét đưa đến chướng ngại làm hạn chế hành động bố thí. Cho nên, điều giác ngộ thứ sáu này nói rất rõ rằng Bồ Tát tu hạnh bốhí phải có tâm bình đẳng không phân biệt người thương, kẻ thù và đặc biệt cần phải đối trị tâm sân hận và "không nên nghĩ nhớ đến điều xấu ác mà kẻ khác đã làm cho mình, cũng không nên có tâm ghét bỏ kẻ ác".Điều đó nói lên ý nghĩa chân chính của hạnh bố thí theo Phật giáo.

Để có được hành động bố thí vô chấp, vô cầu , vô nguyện thì người hành bố thí phải có trí tuệ, thấy được tính vô ngã của vạn pháp. Nhờ đó mà tâm vượt thoát sự giới hạn của tình cảm thông thường thương , ghét. Tâm thương ghét, thù hận, làm trở ngại lớn cho hành động bố thí, như Jesus nói: "Nếu con chỉ thương những người thương con thì con có công gì đâu?".( Đó chỉ là sự trao đổi mà thôi ! ). Không những không có công mà có tội là gây thêm sự bất mãn hận thù.

IV. KẾT LUẬN

- Bố thí là một công hạnh có tác dụng lợi ích rất đặc biệt, biểu hiện đủ hai mặt : Phước đức và trí tuệ.

- Phước đức có được là do đem đến cho chúng sanh bị đau khổ niềm an ủi, sự an tâm, sự đầy đủ, giảm cho họ những áp lực của đời sống mà có thể đưa họ vào con đường tội phạm tối tăm. Làm cho người khác được an vui hạnh phúc là ý nghĩa của phước đức.

-Trí tuệà do thực hành bố thí mà quán chiếu thực trạng đau khổ của đời sống, nhận được chân lý khổ đế. Mặt khác, mình thấy được tự tính vô ngã trong mọi thứ mà mình nắm trong tay : Không có người cho kẻ nhận và của cho. Thực hành tâm bình đẳng , xả bỏ chấp thủ nhân, ngã, bỉ, thử, chủ thể, đối tượng….. đạt được tâm thư thái thanh thản, giải thoát là ý nghĩa của trí tuệ.

Một người là đệ tử của Phật luôn được trang bị giáo dục để có được hai đức tính căn bản này là phước đức và trí tuệ. Qua hành động bố thí, ta có thể thành đạt hai đức tính ấy.


Phần 1 | Phần 2 | Phần 3

 


Cập nhật: 1-12-2000

Trở về mục "Kinh điển"

Đầu trang