Trang tiếng Anh

      Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt

   

...... ... .  . .  .  .

Hai Thời Công Phu
HT. Thích Trí Quang dịch giải


6
Lược Giải Hồng Danh

Lược giải Hồng danh với 3 mục: mục 1 nói về sự sám hối, mục 2 lược giải chính văn, mục 3 trích lục lại 10 hạnh nguyện Phổ hiền.

Nói Về Sự Sám Hối

Mục này có 4 đoạn: đoạn 1: căn bản của sự sám hối, đoạn 2: sự sám hối với sự lạy Phật, đoạn 3: cách lạy Hồng danh, đoạn 4: sự đặc thù của Hồng danh.

Đoạn 1: Căn Bản Của Sự Sám Hối

Có 2 nhân vật tội ác mà nổi tiếng trong thời Phật, đó là A xà thế vương và Ương quật ma la. A xà thế vương là kẻ giết cha, phạm tội thuộc loại ngũ nghịch. Nhưng "trong Phật pháp, ai biết sám hối thì tự ích lợi". Nên ông "tổn giảm được tội ác, trọng tội đã được bạt nhổ lên". Và "nếu không giết cha thì ngay trên chỗ ngồi ông đã được sơ quả" (Chính 1/109). Còn Ương quật ma la thì giết người lấy ngón tay xâu lại làm vòng mà mang. Nhưng khi nghe Phật nói ngài đứng lại là đối với chúng sinh ngài không dùng khí giới, thì đốn ngộ, quăng dao xuống, sám hối, xuất gia, thành La hán liền, và tự giác "trước làm ác, sau sám hối, thì soi chiếu thế gian như mây tan trăng hiện" (Chính 2/280 và 719).

Chuyện 2 nhân vật này, nói ra đây là thuật lại văn ý Phật giáo nguyên thỉ, chưa nói theo đại thừa có chủ thuyết tội tánh bản không. Nhưng do đó cũng đủ thấy các vị thuyết pháp nói về tội và tội báo mà làm cho người cảm thấy mình không còn mong gì hết tội, thì lối thuyết pháp ấy cũng như thuyết về vô ngã mà như nói về duy vật. Phật pháp nói về tội và tội báo là với chủ ý đem lại cho người tội lỗi niềm tin tưởng có thể hủy diệt tội lỗi ấy. Và đó là căn bản của sự sám hối.

Đoạn 2: Sự Sám Hối Với Sự Lạy Phật

Nhưng sám hối mà hiểu rằng chỉ lạy Phật và phát lộ thì không chính xác. Nội dung của sự sám hối có 5 môn. Pháp số 5 môn này có 2: sám hối, khuyến thỉnh, tùy hỷ, hồi hướng và phát nguyện là của Thiên thai, qui mạng, sám hối, tùy hỷ, khuyến thỉnh và hồi hướng là của Chân ngôn. Pháp số sau là căn cứ hạnh nguyện Phổ hiền mà qui nạp lập ra.

Nay sám Hồng danh có 7 môn: tán dương, qui y, phát tâm, lễ bái, phát lộ, hướng nguyện và hồi hướng. Nội dung này môn nào cũng quan trọng. Riêng môn lễ bái thì trong mức độ sơ khởi dẫn dắt, Tăng nhất a hàm nói có 5 hiệu quả: tướng tốt, tiếng hay, nhiều của, sinh nhà trưởng giả, sinh ở chư thiên (Chính 2/674).

Đoạn 3: Cách Lạy Hồng Danh

Lời dẫn nhập đã nói sám Hồng danh không phải chỉ quì mà tụng. Mà phải lạy, và lạy hằng ngày, trong công phu tối. Châm chước chăng là có thể phân ra, ngày này lạy 53 đức Phật, ngày sau lạy 35 đức Phật, nhưng trước và sau 53 và 35 đức Phật thì ngày nào cũng phải tụng và lạy đầy đủ.

Bây giờ xét lại cách chia 108 lạy trong Hồng danh. Thực sự sám Hồng danh không có ý chia đủ hay chia theo 108 lạy. Còn số 108 cũng không phải ở đâu và làm gì đều phải theo cho đúng. Đúng được thì cũng tốt, không thì cũng không hại gì. Tuy nhiên, đã nói đúng được cũng tốt thì lạy Hồng danh theo cách 108 lạy như thế nào? Nhị khóa hợp giải chỉ dẫn như sau:

tán dương 1 lạy
qui y 3 ''
phát tâm 1 ''
lạy Tam bảo 3 ''
10 hiệu 1 ''
lạy Phật 53 ''
35 ''
phát lộ 1 ''
hướng nguyện 1 ''
8 nguyện 8 ''
16 câu chót 1 ''

Chỉ dẫn này không thể làm theo. Vì 4 phần sau không thể vừa tụng vừa lạy. Nên tôi đề nghị như vầy:

qui y 4 lạy
phát tâm 1 ''
lạy Tam bảo 3 ''
11 hiệu 11 "
53 đức Phật 53 ''
35 đức Phật 35 ''
đức Bổn tôn 1 ''

Đoạn 4: Sự Đặc Thù Của Hồng Danh

Hồng danh được biên tập bởi ngài Bất động, thuộc Chân ngôn tông. Tìm xét nội dung thì thấy lấy 53 đức Phật ở trong kinh Quán nhị bồ tát (Chính 20/660-666); lấy 35 đức Phật và văn từ phát lộ hướng nguyện ở trong kinh Đại bảo tích (hội Ưu ba ly, Chính 11/515-516); lại trích phẩm Phổ hiền mà đưa 10 nguyện thêm vào phần hướng nguyện; sau hết, tự soạn 16 câu làm hồi hướng. Tựu trung, qui y Kim cang thượng sư là bổn tôn của người biên tập, lạy đức Di đà là bổn tôn của người tu tịnh độ Cực lạc, và niệm hiệu Phổ hiền là vị nguyện vương, toàn là những biểu thị đặc thù. Riêng 35 đức Phật, và văn từ phát lộ hướng nguyện, được biết đã là mỗi ngày đêm 6 buổi lễ bái của hành giả đại thừa ở Thiên trúc (Chính 12/42-43). Nhìn vào nội dung trên đây, trừ sự trích 10 hạnh nguyện, tất cả đều sáng sủa, hoàn chỉnh mà giản lược.

Tôi nói trừ sự trích 10 hạnh nguyện,vì sự ấy tôi sẽ thảo luận đến trong mục 3.

Lược Giải Chính Văn

Toàn văn sám Hồng danh có 4 đoạn: đoạn 1: mở đầu, đoạn 2: lạy Phật, đoạn 3: sám hối, đoạn 4: hồi hướng. Bốn đoạn này bao gồm 7 môn đã nói trong đoạn 2 của mục 1 ở trên.

Đoạn 1: Mở Đầu

Đoạn này có 4 thứ: thứ 1: tán dương chư Phật, thứ 2: qui y cả tánh và tướng Tam bảo, thứ 3: phát bồ đề tâm, thứ 4: đảnh lễ Tam bảo.

Thứ 1: Tán Dương Chư Phật

Đại từ đại bi
thương xót chúng sinh,
đại hỷ đại xả
cứu vớt hàm thức,
ánh sáng tướng tốt
dùng tự trang nghiêm,
đệ tử chí tâm
qui mạng đảnh lễ.

Đại từ là cho vui, đại bi là cứu khổ, đại hỷ là mừng cho chúng sinh hết khổ được vui, đại xả là bỏ hết ý niệm thân thù; 4 đức này chỉ là pháp số đầu tiên trong nhiều pháp số nói về đức tính của Phật. Tướng tốt là 32 tướng quí và 80 vẻ đẹp. Ánh sáng và tướng tốt ở đây chỉ là hóa thân của Phật. Qui mạng là đem tánh mạng của mình qui về nơi Phật. Đảnh lễ: đem đỉnh đầu của mình mà lạy ngang chân của Phật.

Thứ 2: Qui y Cả Tánh Và Tướng Tam Bảo

Nam mô qui y Kim cang thượng sư (1 lạy),
Qui y Phật (1 lạy),
Qui y Pháp (1 lạy),
Qui y Tăng (1 lạy).

Kim cang thượng sư, bài tụng cát tường của văn Thí thực gọi là Thượng sư, là biểu thị cho pháp thân của Phật; pháp thân ấy là tổng thể của vô tận Phật Pháp Tăng, nên gọi là Tam bảo bản thể. Qui y Phật, qui y Pháp, qui y Tăng là Tam bảo biểu tượng, nhưng xác và rõ thì phải nói qui y đức Bổn sư, qui y giáo pháp của ngài và qui y tỷ kheo tăng của ngài. Qui y Tam bảo như vậy, bất cứ trường hợp nào cũng vẫn là căn bản trọng đại. Có qui y mới là Phật tử. Không qui y mà có giữ giới thì chỉ là người tốt, và quả báo tốt mấy cũng không gặp hay khó gặp được Phật pháp tăng.

Thứ 3: Phát Bồ Đề Tâm

Nay con phát tâm
không vì bản thân
mà cầu phước báo
chư thiên nhân loại,
hay cầu tuệ giác
duyên giác thanh văn,
tuệ giác bồ tát
thuộc về quyền thừa
con cũng không cầu;
con chỉ y theo
đại thừa tối thượng
phát bồ đề tâm:
nguyện cùng pháp giới chúng sinh
đồng được tuệ giác vô thượng (1 lạy).

Quyền thừa: giáo lý Phật phương tiện thiết lập. Đại thừa tối thượng: giáo lý Phật tuyên thuyết cứu cánh. Tuệ giác vô thượng, chính văn là A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, dịch nghĩa là Vô thượng chánh đẳng chánh giác (Vô thượng chánh biến giác), gọi tắt cả dịch âm và dịch nghĩa là vô thượng bồ đề: tuệ giác vô thượng. Tuệ giác ấy là của Phật. Tuệ giác ấy biết đúng, biết khắp và biết cùng tột (không có gì và có ai hơn nữa), nên gọi như vậy. Phát bồ đề tâm: ở đây có nghĩa là phát khởi tâm chí mong cầu cho mình và chúng sinh cùng được tuệ giác của Phật.

Thứ 4: Đảnh Lễ Tam Bảo

Kính lạy Chư phật mười phương cùng tận không gian (1 lạy).
Kính lạy Tôn pháp mười phương cùng tận không gian (1 lạy).
Kính lạy Hiền thánh tăng mười phương cùng tận không gian (1 lạy).

Hiền thánh tăng: chư tăng cả bậc hiền và bậc thánh. Đại thừa tiểu thừa đều có hiền thánh. Cả 2 đều lấy địa vị kiến đạo của mình làm mức, dưới đó là hiền, từ đó sắp lên là thánh.

Đoạn 2: Lạy Phật

Đoạn này cũng có 4 thứ: thứ 1: lạy 10 hiệu chư Phật, thứ 2: lạy 53 đức Phật, thứ 3: lạy 35 đức Phật, thứ 4: lạy đức Phật bổn tôn.

Thứ 1: Lạy 10 Hiệu Chư Phật

Kính lạy các đức Như lai, cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật: Thế tôn(11 hiệu có thể lạy chung 1 lạy, cũng có thể và rất nên lạy mỗi hiệu 1 lạy; mỗi hiệu 1 lạy thì phải đọc: Kính lạy các đức Như lai, kính lạy các đức cúng, kính lạy các đức Chánh biến tri, kính lạy các đức Minh hạnh túc, kính lạy các đức Thiện thệ, kính lạy các đức Thế gian giải, kính lạy các đức Vô thượng sĩ, kính lạy các đức Điều ngự trượng phu, kính lạy các đức Thiên nhân sư, kính lạy các đức Phật đà : kính lạy các đức Thế tôn).

Mười hiệu, nhưng thật sự là 11. Có vài ba cách giải thích. Cách giải thích xét ra đúng nhất là trong 11 hiệu, 10 hiệu đầu là riêng, 1 hiệu cuối là chung: vì là đấng có 10 đức tính và thành quả mà biểu thị bằng 10 hiệu nên gọi là đấng Thế tôn. Những cách giải thích khác có cách cho Phật thế tôn là 1 hiệu. Cách này không đúng. Phật thế tôn nếu 1 hiệu thì phải viết Buddha-lokanatha, mà Thế tôn ở đây là Bhagavan.

Sau đây là dịch nghĩa 11 hiệu (theo thứ tự của chính văn): bậc Đến như chư Phật, bậc Thích ứng hiến cúng, bậc Biết đúng và khắp, bậc Hoàn hảo sự sáng, bậc Khéo qua niết bàn, bậc Lý giải vũ trụ, bậc Không ai trên nữa, bậc Thuần hóa mọi người, bậc Thầy cả trời người, bậc Tuệ giác hoàn toàn: bậc Tôn cao nhất đời.

Mười (hay 11) hiệu rất quan trọng. Không những ấn định một đức Phật là phải có 10 hiệu, mà niệm Phật và khen Phật là nhớ và lạy 10 hiệu ấy. Do vậy mà 10 hiệu phải nên lạy mỗi hiệu 1 lạy. Cũng nên nói thêm, trong 10 hiệu, 3 hiệu đầu Như lai, cúng và Chánh biến tri được nói nhiều, coi như thay cho cả 10 hiệu.

Thứ 2: Lạy 53 Đức Phật

Nam mô Phổ quang phật (1 lạy) ...
Nam mô Nhất thế pháp thường mãn vương phật(1 lạy).

Thứ 3: Lạy 35 Đức Phật

Nam mô Thích ca mâu ni phật (1 lạy) ...
Nam mô Bảo liên hoa thiện trú sa la thọ vương phật (1 lạy).

Thứ 4: Lạy Đức Phật Bổn Tôn

Nam mô pháp giới tạng thân A di đà phật (1 lạy).

Bổn tôn, ở đây chỉ đức Di đà; ngài là đấng vốn tối tôn, lại là đấng làm gốc cho hành giả Tịnh độ muốn "tịnh phật quốc độ, thành tựu chúng sinh". Pháp giới tạng thân là lấy pháp giới làm thân, có nghĩa cùng thì gian, tận không gian, toàn là thân đức bổn tôn Di đà.

Đoạn 3: Sám Hối

Đoạn này có 3 thứ: thứ 1: phát lộ, thứ 2: hướng nguyện, thứ 3: hướng nguyện theo hạnh nguyện Phổ hiền.

Thứ 1: Phát Lộ
Đồng đẳng như vậy,
chư Phật thế tôn
khắp mọi quốc độ
thường trú ở đời.
Nguyện xin các ngài
thương tưởng cho con,
để con sám hối
mọi thứ tội lỗi.
Là trong đời này
hoặc từ đời trước,
vô thỉ sinh tử
cho đến ngày nay,
bao nhiêu tội lỗi
con đã làm ra,
bằng cách tự làm
hoặc bảo người làm
hoặc thấy người làm
mà lòng mừng theo;
của Tháp của Tăng
của Tăng bốn phương
mà con tự lấy
con bảo người lấy
con thấy người lấy
mà lòng mừng theo;
năm tội vô gián
mà con tự làm
con bảo người làm
con thấy người làm
mà lòng mừng theo;
mười thứ ác nghiệp
mà con tự làm
con bảo người làm
con thấy người làm
mà lòng mừng theo ẫ
Bao nhiêu tội lỗi
con làm trên đây
hoặc là che dấu
hoặc không che dấu,
hoặc đáng sa đọa
vào trong địa ngục
ngạ quỉ súc sinh
các đường dữ khác,
cùng với các xứ
biên địa man dã;
hết thảy tội lỗi
con đã làm ra
đáng phải sa vào
những chỗ như vậy,
ngày nay con xin
sám hối tất cả.

Phát lộ tội lỗi như chính văn này nói thì có 3 mục nhỏ, là phát lộ theo danh mục, theo đại loại và theo quả báo.

Một, phát lộ tội lỗi theo danh mục tội lỗi là gồm có xâm phạm vật của Tam bảo, 5 tội vô gián và 10 thứ ác nghiệp. Tựu trung, 10 thứ ác nghiệp khỏi nói, chỉ nói 2 loại trước. Trong loại xâm phạm vật của Tam bảo, của Tháp là của chùa tháp thờ Phật; của Tăng là của hòa thượng, a xà lê, bổn sư, y chỉ sư và thọ nghiệp sư; của tăng bốn phương là của chư Tăng mọi nơi qui tụ lại (nói sát là của tự viện ngày nay). Còn 5 tội vô gián thì kể thông thường là giết cha, giết mẹ, giết La hán, phá tăng hòa hợp, làm đổ máu thân Phật. Thêm 2 sự giết hòa thượng và a xà lê nữa thì gọi là 7 tội nghịch. Nhưng 5 tội vô gián kể theo kinh Địa tạng tuy hồn hàm mà lại khá thâm thiết đối với người xuất gia. Kinh ấy nói: Kẻ nào bất hiếu đến nỗi sát hại cha mẹ thì sa vào vô gián ngục, một kiếp ngàn vạn ức năm cầu thoát mà khó mong thoát khỏi. Kẻ nào làm chảy máu thân Phật, phỉ báng Tam bảo, khinh thường kinh pháp, cũng sa vào vô gián ngục, một kiếp ngàn vạn ức năm cầu thoát mà khó mong thoát khỏi. Kẻ nào xâm phạm của tăng chúng thường trú, làm bẩn tăng ni, ngay trong chốn già lam mà mặc ý làm sự không phải phạn hạnh hay sự sát hại sinh mạng, thì sa vào vô gián ngục, một kiếp ngàn vạn ức năm cầu thoát mà khó mong thoát khỏi. Kẻ nào giả làm sa môn mà tâm hạnh không phải sa môn, lạm dụng của tăng chúng thường trú, lừa đảo thế nhân, vi phạm giới luật, tạo các nghiệp dữ, thì sa vào vô gián ngục, một kiếp ngàn vạn ức năm cầu thoát mà khó mong thoát khỏi. Kẻ nào trộm cắp tài vật, thóc gạo, đồ ăn, đồ uống và đồ mặc của tăng chúng thường trú, cho đến một vật không cho mà lấy, thì sa vào vô gián ngục, một kiếp ngàn vạn ức năm cầu thoát mà khó mong thoát khỏi. Năm tội vô gián như thế này rất nên bổ túc và làm nổi bật lên những điểm chính yếu về những chủ thuyết độc hại nhân loại và phá hoại Phật pháp.

Cả 3 danh mục tội lỗi trên đây còn có 3 tiểu loại về nội dung, đó là có loại tự mình làm, có loại bảo người làm (bằng cách sai sử, xúi dục, chỉ dẫn, khuyến khích ...), có loại tùy hỷ với người (bằng cách tán thành, hỗ trợ ...). Điều quan trọng phải biết là loại nào cũng nặng cả, có khi còn nặng hơn tự làm.

Hai, phát lộ tội lỗi theo đại loại tội lỗi là tất cả danh mục tội lỗi trên đây mà công khai hay che dấu (nhất là che dấu bằng myՠtừ, bằng danh nghĩa).

Ba, phát lộ tội lỗi theo quả báo tội lỗi là tất cả danh mục và đại loại tội lỗi trên đây mà đọa 3 đường dữ, các đường dữ khác ngoài 3 đường dữ, những chỗ biên địa man dã. Biên địa man dã, chính văn là biên địa hạ tiện cập miệt lệ xa, Chính 12/43 dịch biên địa cập di lệ xa, đủ biết là nói 2 nơi. Biên địa là những chỗ ở quanh bên ngoài (đối lại, những chỗ ở giữa bên trong gọi là trung quốc). Còn miệt lệ xa thì ngài Huyền tráng dịch biên địa (Chính 50/229), Phật học đại từ điển nói dịch cấu trược chủng (những giống dân dơ bẩn, ác và mọi nhất). Như vậy biên địa với miệt lệ xa có lẽ chỉ là một, và nguyên thỉ trong thành kiến người Ấn thì chỉ trung bộ Ấn độ, nơi Phật sinh mới là trung quốc, còn tất cả các miền ở quanh bên ngoài, nhất là phía bắc Ấn, đều gọi là miệt lệ xa, dịch nghĩa biên địa (Chính 50/239). Thậm chí Trung quốc cũng bị cho là biên địa (Chính 50/246). Từ đó diễn ra nghĩa rộng hơn và đúng đắn, là những xứ không có Phật pháp, văn hóa tốt cũng không có, gọi là biên địa.

Sau hết, lời phát lộ này, bản dịch khác có thêm những ngôn từ đáng chú ý: "... hoặc sinh nhằm tám nạn, hoặc đọa địa ngục ngạ quỉ súc sinh, hoặc sinh những chỗ biên địa man dã, hoặc sinh tầng trời Trường thọ (65) , hoặc được làm người mà giác quan không đủ, mà kiến thức sai lầm bài bác nhân quả, mà chán thấy nghe chư Phật xuất thế; hết thảy nghiệp chướng như vậy, ngày nay đối trước chư Phật thế tôn, bậc toàn giác, bậc đủ năm loại mắt sáng, bậc biết tận cùng bản thể, bậc hiểu tận cùng hiện tượng, bậc biết tất cả, bậc thấy tất cả, con xin thành tâm sám hối hết thảy, không dám che dấu, cầu nguyện cho con phục hồi như cũ giới pháp thanh tịnh" (Chính 12/43).

Thứ 2: Hướng Nguyện
Ngày nay con xin
chư Phật thế tôn
chứng biết cho con
thương tưởng đến con,
con lại đối trước
chư Phật thế tôn
hết lòng chân thành
tác bạch như vầy:
Hoặc trong đời này
hoặc mọi đời khác,
con làm bố thí
cho đến chỉ cho
các loài súc vật
một viên thực phẩm,
hoặc kính tuân giữ
giới luật thanh tịnh,
hoặc tu tịnh hạnh
được bao thiện căn,
tác thành chúng sinh
được bao thiện căn,
tu hành tuệ giác
được bao thiện căn,
thành vô thượng trí
được bao thiện căn --
tất cả thiện căn
đã nói trên đây,
con tập hợp lại
đối chiếu suy nghĩ,
đem hồi hướng cả
về nơi tuệ giác
vô thượng bồ đề
của Phật thế tôn.
Quá khứ hiện tại
và cả vị lai
chư Phật thế tôn
hồi hướng thế nào,
con cũng nguyện làm
hồi hướng như vậy.
Nên sự sám hối
mọi thứ tội lỗi,
cùng sự tùy hỷ
mọi thứ phước đức,
cho đến công đức
thỉnh Phật thế tôn,
con nguyện thành tựu
tuệ giác vô thượng.
Chư Phật thế tôn
trong ba thì gian
là bậc tối thắng
đối với chúng sinh,
là vùng biển cả
công đức vô lượng,
nên con ngày nay
qui mạng đảnh lễ.

Trong các pháp hạnh được kể ra để hướng nguyện, tịnh hạnh là phạn hạnh, tức là sự không dâm dục, là từ bi hỷ xả, là hạnh niết bàn; tựu trung, khởi thỉ và căn bản là sự không dâm dục. Tác thành chúng sinh, nói đủ là "tịnh phật quốc độ, thành tựu chúng sinh" (làm sạch thế giới, làm nên chúng sinh), từ ngữ đặc biệt của Pháp hoa nói về bồ tát hạnh. Tu hành tuệ giác là tu tập 37 bồ đề phần. Thành vô thượng trí là đạt đến tuệ giác vô thượng. Nên sự sám hối mọi thứ tội lỗi, cùng sự tùy hỷ mọi thứ phước đức, cho đến công đức thỉnh Phật thế tôn là nói tắt bằng cách đưa ra 4 hạnh nguyện để nói về 10 hạnh nguyện Phổ hiền; 4 hạnh nguyện được đưa ra là sám hối nghiệp chướng, tùy hỷ công đức, thỉnh Phật trú thế và thỉnh (Phật) chuyển pháp luân.

Thứ 3: Hướng Nguyện Theo Hạnh Nguyện Phổ Hiền

Đại nguyện vương Phổ hiền có 10, nhưng ở đây chỉ trích lục có 8, xét ra chỉ vì 2 đại nguyện vương khác văn khó trích lục mà thôi.

Hết thảy chư Phật
trong ba thì gian,
tại các quốc độ
khắp cả mười phương,
con xin vận dụng
ba nghiệp thanh tịnh,
kính lạy khắp cả
không có thiếu sót.
Năng lực uy thần
của hạnh Phổ hiền
làm con hiện khắp
trước chư Như lai,
một thân lại hiện
thân như vi trần,
lạy khắp chư Phật
cũng như vi trần.

Đây là 1, lễ kính Phật đà, gọi tắt là lạy Phật. Vi trần: bụi nhỏ.

Trong một vi trần
có vi trần Phật,
và đều ở trong
chúng hội bồ tát,
vi trần pháp giới
cũng y như vậy,
lòng con tin Phật
thật sâu và đầy,
nên biển âm thanh
con vận dụng cả,
xuất ra vô tận
lời chữ nhiệm mầu,
cùng tận đời kiếp
của thì vị lai,
tán dương biển cả
công đức của Phật.

Đây là 2, tán dương Như lai, gọi tắt là khen Phật. Trong 1 vi trần có vi trần Phật là nói chư Phật trong 1 thế giới: thế giới nhiều như vi trần nên 1 thế giới gọi là 1 vi trần; trong 1 thế giới, qua thì gian quá khứ hiện tại vị lai, đã có chư Phật nhiều như vi trần, nên gọi là trong 1 vi trần có vi trần Phật. Vi trần pháp giới cũng y như vậy là nói chư Phật trong tất cả thế giới: trong tất cả thế giới nhiều như vi trần, mỗi thế giới đều có chư Phật cũng nhiều như vi trần.

Con đem vòng hoa
tốt đẹp hơn hết,
âm nhạc, hương xoa,
tàn lọng, bảo cái,
những đồ trang hoàng
hơn hết như vậy,
con đem hiến cúng
chư Phật như lai.
Y phục hơn hết
hương liệu hơn hết
hương vụn, hương đốt,
cùng với đuốc đèn,
tất cả đều như
Diệu cao núi lớn,
con đem hiến cúng
chư Phật như lai.
Con đem cái biết
cao rộng hơn hết
tin tưởng sâu xa
tam thế chư Phật,
vận dụng thần lực
hạnh nguyện Phổ hiền
mà khắp hiến cúng
chư Phật như lai.

Đây là 3, hiến cúng rộng lớn, gọi tắt là hiến cúng Phật. Vòng hoa, dịch sát là xâu hoa. Âm nhạc, chính văn là kyՍ nhạc, kyՠphải viết bộ thủ hay bộ nhân, viết bộ nữ là sai. KyՍ nhạc ở đây là diễn tấu nhạc khí, tức là âm nhạc. Chỗ khác, có lúc kyՠnhạc là biểu diễn kịch nghệ và diễn tấu âm nhạc. Hương xoa tức là dầu thơm, phấn sáp. Diệu cao: dịch nghĩa tên núi Tu di. Cái biết cao rộng hơn hết, chính văn là quảng đại thắng giải tâm: tâm trí lý giải siêu việt rộng lớn.

Bao nhiêu nghiệp dữ
mà con đã làm,
đều bởi vô thỉ
những tham sân si,
động thân miệng ý
mà phát sinh ra,
ngày nay con xin
sám hối tất cả.

Đây là 4, sám hối nghiệp chướng, gọi tắt là sám hối. Thân miệng ý, chính văn là thân ngữ ý, nhưng xét ra thân khẩu ý đi với nhau thì chỉnh và đúng hơn. Tham sân si thì rộng, nhưng không xác bằng dâm nộ si. Và đó là 3 độc hay bất thiện căn. Có chỗ, ngoài 3 thứ này còn có 1 thứ nữa là bố (sợ hãi).

Mười phương hết thảy
các loại chúng sinh,
cùng với các vị
Thanh văn Duyên giác,
Tu học tiếp tục
Tu học hoàn tất,
tất cả Như lai
cùng với Bồ tát,
có công đức gì
con tùy hỷ cả.

Đây là 5, tùy hỷ công đức, gọi tắt là tùy hỷ. Tu học tiếp tục: các vị hữu học. Tu học hoàn tất: các vị vô học (vô: hoàn tất). Trong 4 quả Thanh văn, 3 quả trước là hữu học, quả La hán là vô học. Nhưng bậc vô học tuyệt bậc là Phật. Tùy hỷ: đã dịch mừng theo, là tán thành, hỗ trợ, mừng mà tán thưởng.

Mười phương đâu có
Ngọn Đèn Thế Giới
khi mới thành tựu
tuệ giác vô thượng,
con xin thỉnh cầu
tất cả các ngài
chuyển đẩy bánh xe
diệu pháp tối thượng.

Đây là 6, xin chuyển pháp luân, rõ thì phải nói xin Phật chuyển đẩy bánh xe chánh pháp. Ngọn Đèn Thế Giới là Phật, Phật thì như ngọn đèn to lớn soi sáng thế gian. Chuyển đẩy bánh xe diệu pháp, nói rõ là lăn đẩy bánh xe chánh pháp đi tới phía trước, không đi lùi, đi lệch hay ngừng lại.

Chư Phật như lai
muốn hiện niết bàn,
thì con chí thành
thỉnh cầu các ngài
sống với đời kiếp
nhiều như vi trần
để làm lợi lạc
hết thảy chúng sinh.
Đây là 7, xin Phật ở đời.
Lạy Phật, khen Phật,
và hiến cúng Phật,
xin Phật ở đời,
chuyển đẩy pháp luân,
tùy hỷ, sám hối,
bao thiện căn này
con đem hồi hướng
ích lợi chúng sinh
có nghĩa hồi hướng
nguyện thành trí Phật.

Đây là 10, hồi hướng khắp cả, gọi tắt là hồi hướng. Và như vậy thì trích lục này không có 2 đại nguyện vương 8 và 9 (thường học theo Phật và hằng thuận chúng sinh). Trong văn hồi hướng khắp cả này, 2 câu lạy Phật, khen Phật, và hiến cúng Phật chính văn là Sở hữu lễ tán cúng dường Phật, nhiều bản chữa Phật ra phước. Xét ra rất sai, và sai quá rõ. Chính văn này nói tắt, rõ thì phải nói "Sở hữu lễ Phật, tán Phật, cúng dường Phật", tức nói về 3 nguyện trước hết, và chữ Phật ăn chung cả 3 nguyện ấy. Cũng như 2 câu dưới xin Phật ở đời, chuyển đẩy pháp luân chính văn là Thỉnh Phật trú thế chuyển pháp luân. Chính văn này cũng nói tắt, rõ thì phải nói Thỉnh Phật trú thế, thỉnh (Phật) chuyển pháp luân. Còn chữ phước mà người chữa muốn nói thì chính là chữ thiện căn ở câu dưới, và chữ thiện căn ấy, ngoài 7 đại nguyện vương được kể ra còn nói những đại nguyện vương còn lại. Trí Phật, chính văn là Phật đạo. Phật đạo có 2 nghĩa. Nghĩa chính thức thì đạo là dịch nghĩa chữ bồ đề (mà dễ hiểu thì dịch là giác), do đó, tôi đổi ra Phật trí hay Phật tuệ, có nghĩa là trí Phật, là tuệ giác của Phật. Còn nghĩa không chính thức thì Phật đạo là nhân hạnh của Phật, tức bồ tát vạn hạnh.

Đoạn 4: Hồi Hướng
Nguyện đem công đức
hơn hết như vầy,
hồi hướng cả về
pháp tánh vô thượng;
chính nơi pháp tánh
vô thượng như vậy,
Tam bảo bản thể
Tam bảo biểu tượng,
chân lý tuyệt đối
chân lý phổ thông,
tất cả dung thông
thành tam muội ấn:
cái biển công đức
vô lượng đến thế,
con xin hồi hướng
vào đó tất cả.

Đây là hồi hướng về trí Phật. Nghĩa là hồi hướng sự bái sám Hồng danh này về nơi tuệ giác của Phật: về nơi pháp tánh mà tuệ giác ấy chứng ngộ. Tuệ giác và pháp tánh ấy chính là tam muội ấn (định ấn), có 3 mặt là định ấn của Phật bộ, định ấn của Liên hoa bộ và định ấn của Kim cang bộ. Tam bảo bản thể là Tam bảo về tánh. Tam bảo biểu tượng là Tam bảo về tướng. Chân lý tuyệt đối là chân đế. Chân lý phổ thông là tục đế. Dung thông là tam muội ấn nói trên viên mãn tất cả Tam bảo và chân lý như vậy.

Thân khẩu ý nghiệp
của các chúng sinh,
tà kiến đàn áp
phỉ báng Phật pháp,
và bao nghiệp chướng
cùng loại như vậy,
nguyện cầu cho họ
diệt sạch hết thảy,
trong mỗi tâm niệm
tuệ giác khắp cả,
khắp độ chúng sinh
cùng được Bất thoái.

Đây là hồi hướng cho chúng sinh, cầu cho chúng sinh nhờ công đức bái sám Hồng danh mà được diệt tội đắc quả. Diệt tội là diệt tội thập ác: 10 ác nghiệp nơi thân khẩu ý, là diệt tội tà kiến: kiến thức và chủ thuyết độc hại nhân loại phá hoại Phật pháp, là diệt tất cả tội lỗi cùng loại, nói tóm là diệt tất cả tội lỗi làm trở ngại cho sự đắc quả. Đắc quả là thực hiện cho mình và cho người sự Không thoái chuyển, bằng cách ý nghĩ này liên tiếp ý nghĩ khác sống theo tuệ giác của Phật.

Vũ trụ có cùng,
chúng sinh có tận,
hạnh nghiệp có tận,
phiền não có cùng,
tâm nguyện của con
cũng không cùng tận;
nguyện sự hồi hướng
của con cũng vậy.

Đây là hồi hướng sự bái sám Hồng danh mà cầu nguyện cho hạnh nguyện của mình, trong đó có hạnh nguyện hồi hướng, được liên tục và quảng đại.

Nam mô đại hạnh Phổ hiền bồ tát (3 lần).

Sám hối là 1 trong 10 đại nguyện vương của đức Phổ hiền. Nội dung sự sám hối gồm có lạy Phật và hướng nguyện, thì cũng là lạy Phật và hướng nguyện theo 10 đại nguyện vương Phổ hiền, nên sám Hồng danh kết thúc bằng cách niệm hồng danh của ngài.

 

Trích Lục Lại 10 Hạnh Nguyện Phổ Hiền

Như đã nói, sám Hồng danh trích lục 10 đại nguyện vương mà chỉ có 8 là vì văn khó trích lục. Nhưng khó mà vẫn có thể và vẫn nên trích lục lại cho đủ. Làm việc này chỉ vì cần làm chứ không cốt để thay đổi sự trích lục của sám Hồng danh. Mặt khác, sự trích lục lại ở đây dĩ nhiên vẫn trích lục từ phẩm Phổ hiền, nhưng vừa đủ thì thôi.

Trước hết, đây là phần dịch âm: Một, lễ kính chư Phật:

Sở hữu thập phương thế giới trung
Tam thế nhất thế Nhân sư tử,
Ngã dĩ thanh tịnh thân ngữ ý
Nhất thế biến lễ tận vô dư.
Hai, xưng tán Như lai:
Ngã dĩ nhất thế âm thanh hải
Phổ xuất vô tận diệu ngôn từ
Tận ư vị lai nhất thế kiếp
Tán Phật thậm thâm công đức hải.
Chú thích : ngã dĩ là đổi chữ các dĩ.
Ba, quảng tu cúng dường:
Ngã dĩ quảng đại thắng giải tâm
Thâm tín nhất thế tam thế Phật,
Tất dĩ Phổ hiền hạnh nguyện lực
Phổ biến cúng dường chư Như lai.
Bốn, sám hối nghiệp chướng:
Ngã tích sở tạo chư ác nghiệp,
Giai do vô thỉ tham sân si,
Tùng thân ngữ ý chi sở sinh,
Nhất thế ngã kim giai sám hối.
Năm, tùy hỷ công đức:
Thập phương nhất thế chư chúng sinh,
Nhị thừa hữu học cập vô học,
Nhất thế Như lai dữ Bồ tát,
Sở hữu công đức giai tùy hỷ.
Sáu, thỉnh chuyển pháp luân:
Thập phương sở hữu Thế gian đăng
Tối sơ thành tựu bồ đề giả,
Ngã kim nhất thế giai khuyến thỉnh
Chuyển ư vô thượng diệu pháp luân.
Bảy, thỉnh Phật trú thế:
Chư Phật nhược dục thị niết bàn,
Ngã tất chí thành nhi khuyến thỉnh,
Duy nguyện cửu trú sát trần kiếp
Lợi lạc nhất thế chư chúng sinh.
Tám, thường tùy Phật học:
Quá hiện vị lai Thiên nhân sư
Nhất thế ý lạc giai viên mãn,
Ngã nguyện phổ tùy tam thế học,
Tốc đắc thành tựu đại bồ đề.

Chú thích: Quá hiện vị lai Thiên nhân sư là tóm tắt 3 câu: cúng dường quá khứ chư Như lai, cập dĩ hiện tại thập phương Phật, vị lai nhất thế Thiên nhân sư.

Chín, hằng thuận chúng sinh:
Ngã thường tùy thuận chư chúng sinh
Tận ư vị lai nhất thế kiếp,
Hằng tu Phổ hiền quảng đại hạnh,
Viên mãn vô thượng đại bồ đề.
Mười, phổ giai hồi hướng:
Sở hữu lễ tán cúng dường Phật,
Thỉnh Phật trú thế chuyển pháp luân,
Tùy hỷ sám hối chư thiện căn,
Hồi hướng chúng sinh cập Phật đạo.
Hướng nguyện:
Ngã thử Phổ hiền thù thắng hạnh
Vô biên thắng phước giai hồi hướng,
Phổ nguyện trầm nịch chư chúng sinh
Tốc vãng Vô lượng quang phật sát.
Đây là phần dịch nghĩa: Một, lễ kính Phật đà:
Hết thảy chư Phật
trong ba thì gian
tại các quốc độ
khắp cả mười phương,
con xin vận dụng
ba nghiệp thanh tịnh
kính lạy khắp cả
không có thiếu sót.
Hai, tán dương Như lai:
Biển cả âm thanh
con vận dụng cả,
xuất ra vô tận
lời chữ nhiệm mầu,
cùng tận đời kiếp
của thì vị lai,
tán dương biển cả
công đức của Phật.
Ba, hiến cúng rộng lớn:
Con đem cái biết
cao rộng hơn hết
tin tưởng sâu xa
tam thế chư Phật,
vận dụng thần lực
hạnh nguyện Phổ hiền
mà khắp hiến cúng
chư Phật như lai.
Bốn, sám hối nghiệp chướng:
Bao nhiêu nghiệp dữ
mà con đã làm,
đều bởi vô thỉ
những tham sân si,
động thân miệng ý
mà phát sinh ra,
ngày nay con xin
sám hối tất cả.
Năm, tùy hỷ công đức:
Mười phương hết thảy
các loại chúng sinh,
cùng với các vị
Thanh văn Duyên giác,
Tu học tiếp tục
Tu học hoàn tất,
tất cả Như lai
cùng với Bồ tát,
có công đức gì
con tùy hỷ cả.
Sáu, xin chuyển pháp luân:
Mười phương đâu có
Ngọn Đèn Thế Giới
khi mới thành tựu
tuệ giác vô thượng,
con xin thỉnh cầu
tất cả các ngài
chuyển đẩy bánh xe
diệu pháp tối thượng.
Bảy, xin Phật ở đời:
Chư Phật như lai
muốn hiện niết bàn,
thì con chí thành
thỉnh cầu các ngài
sống với đời kiếp
nhiều như vi trần,
để làm lợi lạc
hết thảy chúng sinh.
Tám, thường học theo Phật:
Các đức Phật đà
cả ba thì gian
bao nhiêu ý nguyện
đều viên mãn cả,
con nguyện tùy thuận
học tập các ngài
để mau hoàn thành
tuệ giác vô thượng.
Chín, hằng thuận chúng sinh:
Cùng tận đời kiếp
của thì vị lai,
con thường tùy thuận
các loại chúng sinh,
bằng cách thực thi
hạnh nguyện Phổ hiền,
viên mãn tuệ giác
tối thượng vĩ đại.
Mười, hồi hướng khắp cả:
Lạy Phật, khen Phật,
và hiến cúng Phật,
xin Phật ở đời,
chuyển đẩy pháp luân,
tùy hỷ, sám hối,
bao thiện căn này
con đem hồi hướng
ích lợi chúng sinh
có nghĩa hồi hướng
nguyện thành trí Phật.
Hướng nguyện:
Hạnh nguyện Phổ hiền này
là hạnh nguyện tối thượng,
phước đức cũng tối thượng
và vô lượng vô biên;
con xin hồi hướng cả,
nguyện cầu cho chúng sinh
đang còn bị chìm đắm
mau chóng sinh Cực lạc
quốc độ đức bổn tôn
A di đà như lai.

Trước Khi Lược Giải Tâm Kinh

1. Lược Nói Oai Linh Của Tâm Kinh Và Đức Quan Âm, Vị Thuyết Ra Tâm Kinh

Sử truyện của ngài Huyền tráng, dịch giả Tâm kinh, chép:

... Chừng canh ba, pháp sư lén vượt được cửa ải Ngọc môn, mừng lắm, để đồ xuống, nằm ngủ cách người Hồ hơn 50 bước. Mới nằm một lát, người Hồ rút dao đứng dậy, đi nhẹ về phía pháp sư. Đi chưa được mươi bước thì lùi lại, không biết ý gì. Pháp sư ngờ người Hồ có lòng khác, nên ngồi dậy niệm đức Quan âm. Thấy vậy, người Hồ về chỗ nằm ngủ. Trời gần sáng, pháp sư gọi dậy, lấy nước, lót lòng, rồi sắp đi thì người Hồ nói, đường đi nguy hiểm, xa xôi, nước không, cỏ chẳng có, chỉ nơi 5 đồn canh mới có nước. Đồn nào cũng phải ban đêm lén đến mới lấy được nước, và có nước mới qua được sa mạc này. Nhưng bị phát giác thì chết. Đệ tử nghĩ chẳng bằng quay về thì hơn. Pháp sư không chịu nên người Hồ miễn cưỡng mà đi. Được vài dặm, đứng lại, nói, đệ tử không thể đi được. Đệ tử còn gánh nặng gia đình, phép vua lại không thể vi phạm. Pháp sư biết ý, bảo cứ về. Người Hồ nói, chắc chắn pháp sư không qua khỏi, bị bắt rồi khai đến con thì sao? Pháp sư nói, thân này bị xả nhỏ ra tôi cũng không khai đến anh. Pháp sư thề thốt nặng lời, người Hồ mới yên bụng lui về, sau khi giao lại cho pháp sư một con ngựa.

Vậy là pháp sư đơn độc đi vào sa mạc. Chỉ nhìn xương người hay phân ngựa mà đi. Một lát bỗng có mấy trăm quân binh đầy cả trước mắt, thoáng đi thoáng ngừng, người ngựa cờ xí biến ảo liền liền, nhìn xa rất rõ, đến gần lại tan. Pháp sư mới nhìn nghĩ là giặc cướp, đến gần mới biết quái dị. Nhưng nghe trong không gian có tiếng nói, bảo cứ đi, đừng sợ. Đi được 80 dặm thì thấy đồn canh thứ nhất. Sợ lính canh nhìn thấy nên pháp sư núp vào hố cát, đến đêm mới đi. Khi đến phía tây đồn canh, thấy nước, pháp sư xuống uống, rửa tay, và sắp sửa lấy nước thì một mũi tên bay vút đến, xuýt trúng đầu gối. Thoáng cái lại có một mũi nữa. Biết đã bị phát giác, pháp sư kêu lớn, xin đừng bắn, tôi là tăng sĩ. Rồi dắt ngựa đi lại đồn canh. Binh sĩ điệu vào gặp hiệu úy Vương Tường. Nhưng chính nhờ viên hiệu úy này giúp đỡ mà pháp sư đến được đồn canh thứ tư. Viên hiệu úy ở đây nghe có lời Vương Tường nên hoan hỷ, mời ngủ lại, lại biếu túi da lớn để dựng nước và biếu lúa mạch cho ngựa ăn, tiễn pháp sư mà dặn đừng đi về phía đồn canh thứ năm. Viên hiệu úy ở đó có thể hại ngài. Từ đây đi cỡ trăm dặm thì có suối Dã mã, ngài hãy lấy thêm nước ở đó.

Vậy là pháp sư đi vào đại sa mạc Mông cổ. Đại sa mạc này dài hơn 800 dặm. Trên không có chim bay, dưới không có thú chạy. Nước không có, cỏ cũng không. Bấy giờ pháp sư một mình một ngựa, chỉ niệm đức Quan âm và bài Tâm kinh mà đi. Hồi trước, khi còn ở đất Thục, pháp sư gặp một bịnh nhân, ghẻ lở hôi thối dơ bẩn, áo quần rách rưới dơ dáy. Pháp sư đưa về chùa, tặng quần áo, biếu thực phí. Bịnh nhân cảm kích, truyền thọ bài kinh ấy cho pháp sư (66) . Nhân đó pháp sư đã thường trì tụng. Bây giờ, khi vào đại sa mạc, gặp bao nhiêu hiện tượng quái dị vây bọc trước sau, pháp sư niệm bài kinh này thì tan biến liền. Bao nhiêu nguy khốn mà pháp sư phải gặp, thật do bài kinh này cứu độ.

Pháp sư đi cỡ trăm dặm thì lạc đường, tìm suối Dã mã không thấy. Lấy túi nước xuống để uống thì lỡ tay đổ cả. Vật độ mạng trên đường ngàn dặm, thoáng cái sạch hết! Vậy mà còn lạc đường đến nỗi quanh quẩn không biết nên đi theo ngã nào. Pháp sư nghĩ quay lại hướng đông, chỗ đồn canh thứ tư đã. Nhưng đi hơn mươi dặm, pháp sư tự nghĩ, mình đã nguyện không đến xứ Phật thì không lui về hướng đông một bước, sao nay quay về. Thà đi tới hướng tây mà chết, chứ không quay về hướng đông để sống. Trở ngựa lại, pháp sư chuyên tâm niệm đức Quan âm mà đi tới hướng tây bắc. Bấy giờ bốn bề cát nóng mênh mông, người ngựa đều lả. Đêm thì yêu quái nhấp nháng như sao, ngày thì cuồng phong cuốn cát lên, tung bay như mưa mùa. Pháp sư không nao núng gì cả, chỉ khổ vì khát quá, không đi được nữa. Đã 4 đêm 5 ngày rồi, pháp sư không có một giọt nước thấm môi. Cổ, miệng và bụng khô nóng gần chết. Quị xuống mặt cát nóng rát dưới cái nắng sa mạc mà pháp sư vẫn thầm niệm đức Quan âm, khốn đốn đến thế mà không ngừng, thầm bạch rằng con đi đây không cầu lợi lộc, không mong danh vọng, chỉ vì Phật pháp vô thượng mà thôi. Bồ tát là đức Từ bi, thương người mà cứu khổ. Con thế này là đang khổ đây, lẽ nào ngài không biết. Pháp sư tác bạch như vậy và không ngừng niệm danh hiệu của ngài. Nửa đêm hôm ấy là đêm thứ năm, đột nhiên có luồng gió mát thổi đến thân thể pháp sư. Pháp sư nghe mát như tắm nước lạnh. Nhờ vậy mà sáng mắt, ngựa cũng dậy được. Cơ thể đã thư, pháp sư thiếp được một lát, mộng thấy vị thần cao lớn, bảo sao không gắng dậy mà đi, lại nằm như thế này. Pháp sư hoãng dậy, đi được mươi dặm thì đột nhiên ngựa tự rẽ qua ngã khác, kéo lại cũng không chịu. Đi vài dặm bỗng thấy cả mẫu cỏ xanh. Pháp sư cho ngựa ăn, và đi mươi bước thì thấy một ao nước, trong và ngọt. Uống rồi người ngựa đều khỏe, nghỉ lại 1 ngày. Hôm sau múc nước, lấy cỏ, và đi tới. Hai ngày sau nữa pháp sư mới ra khỏi sa mạc ... (Chính 50/223).

... Lại đến nước Y lan noa bát phạt đa. Trên đường đến đó có già lam Ca bố đức. Phía nam già lam này, cách vài ba dặm, có hòn núi đơn độc, cây cao cỏ tốt, lá rậm hoa thơm, ao trong suối đẹp. Núi là thắng cảnh mà lại có chùa thiêng, cảm ứng thần kỳ. Tinh xá chính giữa có ngôi tượng Quan âm bằng gỗ đàn hương, uy thần đặc tôn. Thường có vài mươi người, trong một hay hai tuần không ăn cơm, không dùng cả nước có thực phẩm nghiền nát, thành tâm cầu nguyện. Ai chân thành thì cảm ứng. Và cảm ứng luôn, nên người đến càng đông. Người trong chùa sợ tượng bị bẩn, nên bốn phía cách tượng chừng 7 bước, dựng lan can gỗ. Ai đến cũng triều bái ở ngoài lan can. Hoa hương hiến cúng cũng từ ngoài tung vào. Hoa của ai nằm trong tay hay mắc vào cánh tay của Bồ tát thì được cát tường.

Pháp sư cũng đến cầu nguyện. Mua hoa, xâu thành vòng, pháp sư đến chỗ tôn tượng, chí thành lễ bái tán dương rồi, quì xuống cầu nguyện 3 điều. Một, tại đất Ấn độ này con học tập xong rồi, về nước mà được an toàn thì xin hoa nằm trong bàn tay của ngài. Hai, bao nhiêu phước tuệ có được, con nguyện sinh Đâu suất nội viện, phụng sự Di lạc từ tôn, nguyện này như ý thì xin hoa mắc vào cánh tay của ngài. Ba, giáo lý có chỗ nói chúng sinh có một số không có Phật tánh, nay con nghi hoặc, không rõ có hay không có; nếu một số ấy cũng có Phật tánh, có thể tu hành thành Phật, thì xin hoa mắc vào cổ của ngài. Tác bạch rồi, pháp sư tung hoa vào, được đúng cả như lời cầu nguyện. Pháp sư hoan hỷ hết sức. Những người lễ bái và người trong chùa ai cũng vỗ tay, dậm chân, mà nói thật là chưa từng có (Chính 50/239).

... Từ biệt rồi, pháp sư yên lặng, chánh niệm, miệng tụng: sắc không, thọ tưởng hành thức cũng không, nhãn giới không, cho đến ý thức giới cũng không, vô minh không, cho đến lão tử cũng không, thậm chí bồ đề cũng không, không ấy cũng không ... Đệ tử là Đại thừa quang hỏi pháp sư chắc chắn được sinh Di lạc nội viện không, pháp sư nói chắc chắn. Nói rồi, hơi thở nhẹ dần, một lát pháp sư mất mà nhẹ nhàng đến nỗi thị giả không biết liền ... (Chính 50/277).

Sử truyện của ngài Huyền tráng đến nay đã được dịch ra nhiều thứ tiếng. Học giả ra sức khảo chứng càng không ít. Trong bao nhiêu nguy khốn mà ngài trải qua có sa mạc Gobi. Ở đó, ngày nay không nói cuồng phong cuốn cát lên tung bay như mưa mùa, mà nói là bão cát. Cũng ngày nay, phi cơ loại trung bình bay trên vùng trời sa mạc này vẫn dồi sốc rất khó chịu. Nên học giả thế giới đã và vẫn còn khiếp phục ngài Huyền tráng, nhận rằng phi sức mạnh tôn giáo thì không dễ gì vượt qua bao nhiêu nguy khốn mà ngài đã gặp. Oai linh của đức Quan âm, và của bài Tâm kinh mà đức Quan âm tuyên thuyết, chính cuộc đời và công nghiệp của ngài Huyền tráng là một minh chứng (67) .

2. Lược Nói Bát Nhã Và Không Của Bát Nhã Trong A Hàm

Bát nhã trong A hàm.- Trong bộ A hàm, chánh tri kiến chính là Bát nhã. Chánh tri kiến gọi tắt là chánh kiến, có nghĩa thấy biết chính xác. Nên chánh tri kiến cũng gọi là như thật tri kiến hay như thật tri, có nghĩa thấy biết đúng như sự thật. Và tri kiến mà chánh, mà như thật, thì có nghĩa vô đắc: không thủ đắc. Trưởng giả Cấp cô độc hằng ngày đến yết kiến đức Thế tôn. Một hôm ra đi hơi sớm, trưởng giả ghé vào tinh xá của ngoại đạo. Hai bên chào hỏi nhau rồi, các vị ngoại đạo hỏi trưởng giả, ông yết kiến đức Cù đàm mà thấy biết những gì? Trưởng giả thưa, xin quí vị nói sự thấy biết của quí vị rồi tôi sẽ thưa sự thấy biết của tôi. Các vị ấy nói những sự thấy biết của mình: đối với thế giới thì thấy cố định hay thấy chuyển biến, thấy hữu hạn hay thấy vô hạn, đối với sinh mạng và bản thân thì thấy đồng nhất hay thấy biệt lập, đối với sự diệt khổ rồi thì thấy vĩnh cửu hay thấy hư vô. Vị nào cũng nói cái mình thấy biết là chân lý, ngoài ra đều tà ngụy cả, và bảo trưởng giả hãy nói sự thấy biết của ông. Trưởng giả thưa, cái tôi thấy biết là duyên khởi (tương quan): thấy biết duyên khởi thì đối với mọi sự thấy biết đều không thủ đắc (Tạp, Chính 2/248, lược dịch).

Thấy biết như vậy là thanh tịnh kiến: thấy biết trong sáng. Thấy biết trong sáng là thấy Không; Không ấy là Thánh pháp ấn: ấn tín của Phật đối với vạn hữu (Tăng, Chính 2/20).

Không trong bộ A hàm.- Trước đây hay nói Không của tiểu thừa là phân tích không, nói Không của đại thừa là đương sinh vô sinh, lại nói Không của tiểu thừa là không trong 4 hành tướng vô thường khổ không vô ngã. Những cách nói như vậy xét ra thật là võ đoán. Bởi vì Tạp a hàm đã nói minh bạch, rằng Không là tánh tự nhĩ: thực chất tự như thế (Chính 2/56). Kinh ấy còn nói không phải tự sinh, tha sinh, cọng sinh, vô nhân sinh (Chính 2/81 và 93). Vậy thì Không không phải chỉ là không trong 4 hành tướng, mà Không là căn bản của tất cả lý, hạnh, quả, là Không tam muội.

Về Không là căn bản của tất cả lý hạnh quả thì hãy tham cứu 2 bài kinh chuyên nói về Không trong Trung a hàm (Chính 1/736-740); 2 bài kinh này nếu không biết đến thì đừng nói gì về Không cả. Còn Không là Không tam muội thì như Phật nói với tôn giả Xá lợi phất, Không tam muội là rất bậc nhất ... Không tam muội thì không chấp ngã nhân, thọ mạng, không chấp chúng sinh, không chấp các hành, nên không tạo nghiệp mới, không tạo nghiệp mới nên không còn hậu hữu, không còn hậu hữu thì không có quả báo khổ vui của thế gian. Xá lợi phất, khi ta chưa được tuệ giác Phật đà, ngồi dưới bồ đề đại thọ nghĩ rằng chúng sinh vì không được phương pháp gì mà phải lưu chuyển sinh tử, không được giải thoát? Ta lại nghĩ, chúng sinh vì không có Không tam muội nên lưu chuyển sinh tử mà không cứu cánh giải thoát ... Được Không tam muội thì được Vô nguyện tam muội, được Vô tướng tam muội; được Không tam muội thì thành tựu Vô thượng giác. Lúc bấy giờ ta được Không tam muội nên 7 ngày đêm ta nhìn bồ đề đại thọ không nháy mắt. Xá lợi phất, do vậy mà biết Không tam muội là tam muội bậc nhất; tam muội chúa tể chính là Không tam muội (Tăng, Chính 2/773).

Không tam muội còn được gọi là Thượng tọa thiền (Tạp, Chính 2/57). Đại sĩ thiền của kinh này nói (Chính 2/236) cũng thực sự là Không tam muội. Vô tránh đạo của ngài Tu bồ đề (68) chính là thực hành chân thực không (Trung, Chính 1/703). Không, như vậy, là tâm trí không đi theo 2 cực đoan nên chánh hướng trung đạo (Tạp, Chính 2/84).

Chánh tri kiến và Không tam muội như vậy hủy diệt cái gì? Cái ấy, hay nói đến nhất là ngã và ngã sở, nhưng hay nói đến hơn nữa là 2 chấp có và không. Có và không, không phải chỉ là 2 cực đoan, 2 phạm trù khẳng định và phủ định, mà Tăng a hàm giải thích thật đặc biệt: Đức Thế tôn nói với các vị tỷ kheo, có 2 sự thấy là thấy có với thấy không. Thấy có là thế nào? Là thấy có dục có sắc có vô sắc -- Thấy có dục là 5 dục: mắt thấy sắc thì rất ưa, quí và nhớ, chưa bao giờ rời bỏ mà cứ tôn thờ mãi; tai nghe tiếng, mũi ngửi hơi, lưỡi biết mùi, thân biết xúc, ý biết pháp (cũng như vậy), và đó gọi là thấy có. Thấy không là thế nào? Là thấy có thường thấy không thường, thấy có đoạn thấy không đoạn, thấy có biên thấy không biên, thấy có mạng thấy không mạng, thấy thân mạng khác nhau thấy thân mạng là một, (và) 62 sự thấy (xuất từ các sự thấy) như trên gọi là thấy không, và toàn là không phải sự thấy chính xác (Chính 2/577). Do đó luận Du dà đã nói: Không tam muội là tâm trí chuyên nhất quán sát về Không, và Không ấy đại khái có 4. Một là quán sát không: quán sát các pháp không thường, không lạc, cho đến không tự ngã, không ngã sở ... Hai là kết quả không: tâm trí giải thoát, không mọi phiền não tham sân si ... Ba là bên trong không: không bản thân, nghĩa là không có mọi cố chấp lệch lạc về tự ngã, ngã sở, ngã mạn ... Bốn là bên ngoài không: không ngũ dục, nghĩa là không ái không dục đối với ngũ dục ấy (Chính 30/337).

Không như vậy vì sao có thể thực hiện? Vì như Trung a hàm đã nói: Nếu có ai nói một cách đúng đắn để nói cái điều sáng suốt này: tất cả chúng sinh sinh ra ở đời thực chất đều siêu việt, không bị đau khổ hay khoái lạc khuất lấp, thì người ấy chính là ta đây -- Bởi vì chính ta nói đến cái điều sáng suốt này: tất cả chúng sinh sinh ra ở đời thực chất đều siêu việt, không bị đau khổ hay khoái lạc khuất lấp (Chính 1/680). Tạp a hàm còn nói rõ: Không phải giác quan buộc đối cảnh hay đối cảnh buộc giác quan, mà sự buộc chỉ là tham dục; ví như 2 con bò chẳng con nào buộc con nào, mà buộc cả 2 con chính là cái ách (Chính 2/60). Pháp thoại sau đây càng nên chú ý. Ma la ca thưa, bạch đức Thế tôn, con già cả, giác quan suy tàn, nhưng vẫn muốn được nghe đức Thế tôn cho con một lời dạy tóm tắt. Con nghe rồi sẽ tinh chuyên tư duy, cho đến tự biết không còn hậu hữu. Đức Thế tôn bảo thôi. Ma la ca vẫn cầu thỉnh lần thứ hai rồi lần thứ ba. Bấy giờ đức Thế tôn mới nói, ... thấy là thấy, nghe là nghe, hay là hay, biết là biết, và nói chỉnh cú sau đây: cái này không phải cái kia, cái kia không phải cái này, cũng không phải giữa hai cái, đó là biên cương đau khổ (đau khổ chấm dứt). Ma la ca thưa, con biết rồi bạch đức Thế tôn, con hiểu rồi bạch đức Thiện thệ! Đức Thế tôn hỏi, ông hiểu biết thế nào? Ma la ca thưa lại bằng lời chỉnh cú (lược dịch): sáu giác quan thấy nghe hay biết sáu đối cảnh mà không chánh niệm thì nổi tham sân si, nếu chánh niệm thì không tham sân si: đó là niết bàn. Rồi đó Ma la ca bất phóng dật mà tinh chuyên tư duy và thành bậc La hán (Tạp, Chính 2/90).

Như vậy thì vì "không" mới "có".- Không, như vậy, thực chất là đem cái tâm vốn không mà quán sát các pháp vốn không (Tạp, Chính 2/72). Không, như vậy, không phải đoạn kiến: không phải phủ định, hoài nghi, nên Tạp a hàm (Chính 2/92) đã nói: các tỷ kheo, có nghiệp báo mà không có tác giả: có hành vi và có kết quả của hành vi mà không có cái gọi là chủ thể (bản ngã). Trường a hàm nói càng rõ và đủ hơn: Như lai sử dụng phương tiện, nói các pháp mà không thủ đắc, nói sạch không mà có thành tựu (Chính 1/35). Như vậy đúng là "dĩ hữu không nghĩa cố, nhất thế pháp đắc thành" (Trung luận, Chính 30/33). Nên phải chiêm nghiệm lời dạy đầy tính tích cực sau đây của Phật: Cái thân vô thường mà ông cho là tự ngã đó, ta nói nó là ô nhiễm, là thanh tịnh, là giải thoát. Ông đừng nói ô nhiễm không thể diệt trừ, thanh tịnh không thể phát sinh, con người phải ở mãi trong sự đau khổ; đừng nói như vậy, vì ô nhiễm có thể diệt trừ, thanh tịnh có thể phát sinh, con người có thể ở trong an lạc (Trường, Chính 1/112).


Chân thành cảm ơn quý cư sĩ Nguyễn Văn Củng, Đoàn Viết Hiệp và Nguyễn Anh Tuấn đã phát tâm chuyển tác phẩm này từ dạng Help File, VPS font sang dạng Word, VNI font. Thích Nhật Từ 3-5-2000


Phần | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 |

 


Cập nhật: 3-6-2000

Trở về thư mục "Kinh điển"

Đầu trang