Trang tiếng Anh

      Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt

   

...... ... .  . .  .  .

Kinh Hoa Sen Chánh Pháp
HT. Thích Trí Quang dịch giải


Phần 7


Phẩm 9: Thọ Ký Cho Các Vị Tu Học Tiếp Tục Và Tu Học Hoàn Tất [^]

Lúc ấy các tôn giả A nan đà và La hầu la đều nghĩ, chúng ta tự xét nếu được đức Thế tôn trao cho lời ghi thành tựu tuệ giác vô thượng thì thích thú biết bao. Các tôn giả ấy liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đến trước đức Thế tôn, đầu mặt lạy ngang chân ngài và cùng thưa, bạch đức Thế tôn, trong việc thọ ký chúng con cũng đáng có phần, chỉ có đức Thế tôn là đấng chúng con nương tựa. Chúng con được thế giới này, kể cả chư thiên, nhân loại và tu la, ai cũng biết đến. Họ biết A nan đà con đây thường làm thị giả của đức Thế tôn, coi giữ kho tàng chánh pháp của ngài ; còn La hầu la con đây là con trai của đức Thế tôn khi ngài chưa xuất gia. Nếu đức Thế tôn trao cho chúng con lời ghi thành tựu tuệ giác vô thượng, thì ước nguyện của chúng con đã đạt mà ước vọng của các chúng cũng thỏa. Bấy giờ hai ngàn vị đệ tử thanh văn của đức Thế tôn mà sự tu học đang tiếp tục hay đã hoàn tất, cũng đều đứng dậy khỏi chỗ mình ngồi, vai bên phải trần pháp y, cùng đến trước đức Thế tôn, chuyên chú mà chắp tay chiêm ngưỡng, cùng biểu lộ sự ước nguyện như ước nguyện của các tôn giả A nan đà và La hầu la, rồi đứng cách một khoảng.

Khi ấy đức Thế tôn bảo tôn giả A nan đà, trong thì vị lai, tôn giả sẽ được thành Phật với danh hiệu Sơn hải tuệ tự tại thông vương như lai, đủ mười đức hiệu. Tôn giả sẽ hiến cúng sáu mươi hai ức chư Phật, coi giữ kho tàng chánh pháp của các ngài, sau đó thực hiện tuệ giác vô thượng, giáo hóa bồ tát nhiều bằng số cát hai mươi ngàn vạn ức sông Hằng, làm cho thành thục tuệ giác vô thượng. Quốc độ tên là Ngọn cờ siêu việt thường dựng cao lên, toàn cõi trong sạch, đất bằng lưu ly. Thời kỳ tên là Âm thanh tinh túy vang dội khắp cả. Sơn hải tuệ tự tại thông vương như lai sống lâu vô số ngàn vạn ức thời kỳ vô số, giả sử có ai tính kể trong ngàn vạn ức thời kỳ vô số cũng không biết được. Giáo pháp nguyên chất tồn tại thế giới gấp đôi thì gian sống lâu, giáo pháp tương tự tồn tại thế giới gấp đôi giáo pháp nguyên chất. A nan đà, Sơn hải tuệ tự tại thông vương như lai được vô lượng ngàn vạn ức hằng sa chư Phật ở khắp mười phương cùng nhau ca tụng tán dương thành quả của ngài.

Đức Thế tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.

(1) Như lai ngày nay
nói giữa chư Tăng,
rằng A nan đà
người giữ (140) chánh pháp,
tương lai hiến cúng
chư vị Phật đà,
rồi thành một bậc
Biết đúng và khắp.
(2) Bậc ấy tên là
Sơn hải tuệ vương.
Quốc độ trong sạch
và có tên là
Ngọn cờ siêu việt
thường dựng cao lên.
(3) Ngài giáo hóa cho
chư vị bồ tát
số lượng nhiều bằng
cát của sông Hằng.
Uy đức ngài có
vô cùng lớn lao,
danh tiếng vang động
khắp cả mười phương.
(4) Vì thương chúng sinh,
ngài sống vô lượng.
Giáo pháp nguyên chất
gấp đôi sống lâu,
giáo pháp tương tự
gấp đôi nguyên chất.
(5) Hằng hà sa số
vô lượng chúng sinh
ở trong giáo pháp
của đức Phật ấy
gieo trồng nhân tố
tuệ giác Phật đà.

Bấy giờ trong đại hội, bồ tát mới phát tâm có tám ngàn vị cùng nghĩ rằng, đến như chư vị đại bồ tát mà chúng ta cũng không nghe thấy được thọ ký như vầy, vì nguyên nhân nào mà chư vị thanh văn lại được phán quyết như vậy? Đức Thế tôn biết ý nghĩ ấy của các vị bồ tát mới phát tâm nên bảo, chư thiện nam tử, Như lai cùng với tôn giả A nan đà, và các vị đồng hàng với tôn giả ấy, đã từng ở nơi đức Không vương như lai, đồng thời phát ra tâm chí mong cầu tuệ giác vô thượng. Nhưng tôn giả A nan đà thường thích đa văn, còn Như lai thường siêng tinh tiến, nên Như lai thành tựu tuệ giác vô thượng mà tôn giả A nan đà coi giữ kho tàng chánh pháp của Như lai. Tôn giả ấy cũng coi giữ kho tàng chánh pháp của chư Phật vị lai, giáo hóa tác thành chư vị bồ tát. Bản nguyện tôn giả ấy là như vậy nên được thọ ký như trên.

Tôn giả A nan đà đối diện đức Thế tôn, đích thân nghe được lời ghi nhận của ngài trao cho, nghe được sự huy hoàng của quốc độ tương lai của mình, thì ước nguyện thỏa mãn, lòng rất hoan hỷ, được sự chưa từng có, tức khắc nhớ được kho tàng chánh pháp của vô lượng ngàn vạn ức chư Phật quá khứ, thông suốt vô ngại như thể hiện tại mới nghe, lại nhớ được cả bản nguyện của mình. Tôn giả thưa đức Thế tôn với lời chỉnh cú sau đây.

(6) Thế tôn quả thực
cực kỳ hiếm có:
làm con nhớ lại
kho tàng chánh pháp
của vô số Phật
thuộc thì quá khứ,
tựa như mới nghe
trong ngày hôm nay.
(7) Nay con không còn
nghi hoặc gì nữa;
đứng vững ở trong
tuệ giác Phật đà,
phương tiện mà làm
một vị thị giả
để được coi giữ
chánh pháp chư Phật.

Khi ấy đức Thế tôn bảo tôn giả La hầu la, trong thì vị lai, tôn giả sẽ được thành Phật với danh hiệu Đạp thất bảo hoa như lai, đủ mười đức hiệu. Tôn giả sẽ hiến cúng chư Phật bằng số vi trần của mười thế giới và, y như đời này, tôn giả thường làm trưởng tử của các ngài. Sự huy hoàng của quốc độ, số lượng thời kỳ của sự sống lâu, đệ tử được giáo hóa, giáo pháp nguyên chất và tương tự, tất cả điều này của đức Đạp thất bảo hoa như lai đều giống như của đức Sơn hải tuệ tự tại thông vương như lai, không khác gì cả. Tôn giả cũng sẽ làm trưởng tử của ngài, và qua thì gian ấy rồi sẽ được tuệ giác vô thượng. Đức Thế tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.

(8) Thì gian Như lai
còn làm thái tử
thì La hầu la
là vị trưởng tử,
ngày nay Như lai
đã thành Phật đà
thì La hầu la
tiếp nhận chánh pháp
mà làm pháp tử
của đức Như lai.
(9) Trong thì vị lai
tôn giả gặp được
vô số ức Phật,
cũng làm trưởng tử
chuyên tâm mà cầu
tuệ giác Phật đà.
(10) Hạnh nguyện kín đáo
của La hầu la,
chỉ có Như lai
mới thấu hiểu được,
thị hiện mà làm
trưởng tử Như lai
là để khải thị
cho bao chúng sinh.
(11) La hầu la đây
có vô số lượng
vạn ức công đức
không thể tính kể.
Tôn giả sống trong
chánh pháp Như lai
để cầu đạt được
tuệ giác vô thượng.

Đức Thế tôn lại thấy hai ngàn vị tu học tiếp tục và tu học hoàn tất tâm ý của họ mềm dịu, vắng lặng, trong suốt, chuyên chú nhìn ngài, nên ngài bảo tôn giả A nan đà, tôn giả thấy hai ngàn vị còn học và học xong này chăng? Con thấy, bạch đức Thế tôn. A nan đà, các vị này sẽ hiến cúng chư Phật nhiều bằng vi trần của năm chục thế giới, cung kính, tôn trọng, coi giữ kho tàng chánh pháp của các ngài, và cuối cùng thì đồng thời thành Phật ở khắp mười phương quốc độ, với danh hiệu đồng nhất là Bảo tướng như lai, đủ mười đức hiệu. Lại cùng sống lâu một thời kỳ. Sự tráng lệ của quốc độ, chúng thanh văn và chúng bồ tát, giáo pháp nguyên chất và tương tự, tất cả cũng đồng đẳng. Đức Thế tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.

(12) Hai ngàn thanh văn
trước Như lai đây,
Như lai phán quyết
vị lai thành Phật.
(13) Chư Phật như lai
mà các vị ấy
sẽ được hiến cúng
thì như vi trần
mà Như lai đã
so sánh ở trên.
Các vị coi giữ
kho tàng chánh pháp
của chư Phật ấy,
và rồi cuối cùng
được thành một bậc
Biết đúng và khắp.
(14) Tại các quốc độ
khắp cả mười phương,
tất cả các vị
đồng một danh hiệu,
đồng thời cùng ngồi
nơi bồ đề tràng,
để cùng thành tựu
tuệ giác vô thượng.
(15- 16) Danh hiệu Bảo tướng,
quốc độ, đệ tử,
giáo pháp nguyên chất,
giáo pháp tương tự,
tất cả điều này
đồng đẳng không khác.
Lại cũng đồng đẳng
sử dụng thần lực
giáo hóa cứu độ
mười phương chúng sinh,
danh tiếng vang dội
lan tràn khắp cả,
và rồi dần dần
cùng lúc nhập diệt.

Bấy giờ hai ngàn vị tu học tiếp tục và tu học hoàn tất nghe đức Thế tôn thọ ký cho như vậy, ai cũng hoan hỷ, phấn chấn, cùng nói lời chỉnh cú sau đây.

(17- 18) Thưa đức Thế tôn,
Ánh sáng đèn tuệ!
Chúng con nghe được
tiếng ngài thọ ký,
tâm thức chúng con
tràn ngập hoan hỷ,
y như được rưới
với nước cam lộ.

 

Phẩm 10: Người Diễn Giảng Pháp Hoa (141) [^]

Khi ấy đức Thế tôn qua bồ tát Dược vương mà nói với tám vạn đại sĩ, Dược vương, đại sĩ hãy nhìn, đại hội này có vô lượng tám bộ, bốn chúng, những người cầu tuệ giác Thanh văn, cầu tuệ giác Duyên giác hay cầu tuệ giác Phật đà. Các chúng như thế này hiện ở trước Như lai mà nghe kinh Pháp hoa, thì dẫu chỉ nghe được một bài chỉnh cú, một câu đủ nghĩa, hay đến nỗi chỉ có được một ý niệm tùy hỷ mà thôi, Như lai cũng thọ ký cho tất cả sẽ được tuêể giác vô thượng. Dược vương, sau khi Như lai nhập diệt, nếu có người nào nghe kinh Pháp hoa, thì dẫu chỉ nghe được một bài chỉnh cú, một câu đủ nghĩa, hay đến nỗi chỉ có được một ý niệm tùy hỷ mà thôi, Như lai cũng thọ ký cho tất cả sẽ được tuệ giác vô thượng (142) .

Nếu có người nào đối với kinh Pháp hoa, dẫu chỉ một bài chỉnh cú mà thôi, mà biết tiếp nhận ghi nhớ, đọc xét văn nghĩa, tụng được thuộc lòng, giảng nói cho người, hay sao chép ấn hành (143) ... ; hoặc đối với cuốn kinh Pháp hoa mà thôi mà biết kính và nhìn như kính và nhìn Như lai, hiến cúng bằng các loại hoa, vòng hoa, các hương liệu, lọng dù, tràng phan (144) , vải lụa bao quanh (145) , kịch nhạc, hay đến nỗi chỉ chắp tay tôn kính, thì Dược vương, nên coi những người này đã từng hiến cúng mười vạn ức chư Phật và thành tựu đại nguyêển nơi chỗ các ngài, nguyện thương chúng sinh mà sinh trong loài người này. Dược vương, nếu ai hỏi người nào vị lai làm Phật, thì nên nói cho họ biết những người này vị lai quyết định làm Phật. Tại sao, vì nếu thiện nam hay thiện nữ nào đối với kinh Pháp hoa, dầu chỉ một câu đủ nghĩa mà thôi, mà biết tiếp nhận ghi nhớ cho đến sao chép ấn hành ..., biết hiến cúng cuốn kinh ấy bằng các loại hoa cho đến chắp tay tôn kính, thì người này tất cả thế gian nên chiêm ngưỡng tôn thờ, nên đem đồ hiến cúng Như lai mà hiến cúng. Hãy coi người này là vị đại bồ tát đang thành thục tuệ giác vô thượng (146) , vì thương chúng sinh nên nguyện sinh trong loài người này mà diễn giảng rộng rãi về kinh Pháp hoa. Người tiếp nhận ghi nhớ cho đến sao chép ấn hành chỉ một câu kinh Pháp hoa, hay chỉ hiến cúng cuốn kinh ấy mà đã như vậy, huống chi người tiếp nhâển ghi nhớ cho đến sao chép ấn hành được cả bộ kinh ấy và hiến cúng đủ cả (147) . Dược vương, hãy coi người sau này là người tự bỏ cái chỗ kết quả hành vi trong sạch của mình để, sau khi Như lai nhập diệt, vì thương chúng sinh mà sinh trong thời kỳ dữ dội, diễn giảng rộng rãi về kinh Pháp hoa. Lại nữa, sau khi Như lai nhập diệt, thiện nam hay thiện nữ trên đây nếu có thể kín đáo nói cho một người về kinh Pháp hoa, thì dầu chỉ nói được một câu đủ nghĩa mà thôi, cũng phải coi người ấy là sứ giả của Như lai, được Như lai phái đến để làm công việc của Như lai. Kín đáo nói kinh Pháp hoa cho một người và chỉ nói được một câu mà còn như vậy, huống chi có thể công khai ở giữa công chúng mà nói cho mọi người một cách rộng rãi về kinh ấy.

Dược vương, nếu có kẻ độc ác đem tâm độc ác, suốt một thời kỳ đối diện xúc phạm Như lai mãi, tội của kẻ ấy vẫn nhẹ. Nếu có kẻ đem một lời độc ác mà thôi mà phỉ báng người đọc xét văn nghĩa hay tụng được thuộc lòng kinh Pháp hoa, thì không kể người đọc tụng ấy là tại gia hay xuất gia, tội của kẻ này mới rất nặng. Dược vương, ai đọc xét văn nghĩa hay tụng được thuộc lòng kinh Pháp hoa thì nên coi người ấy đem trang phục của Như lai mà trang sức cho mình (148) . Người ấy được Như lai đem vai mang vác (149) . Người ấy đến đâu thì nên hướng theo mà thi lễ, nên chuyên chú chắp tay mà cung kính hiến cúng tôn trọng tán dương, nên đem các loại hoa, vòng hoa, các hương liệu, lọng dù, tràng phan, y phục, cỗ bàn, diễn tấu kịch nhạc, nói tóm, nên đem đồ hiến cúng thượng hạng trong loài người mà hiến cúng; nên đem ngọc của chư thiên mà tung rải, cả đống ngọc thượng hạng của chư thiên cũng nên đem ra mà phụng hiến. Tại sao, vì người ấy hoan hỷ diễn giảng Pháp hoa thì nghe trong chốc lát cũng mau được trọn vẹn tuệ giác vô thượng (150) .

Khi ấy đức Thế tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây:

(1) Muốn đặt mình vào
đường đi của Phật
để được thành đạt
tuệ giác tự nhiên (151)
thì phải thường xuyên
nỗ lực hiến cúng
những người tiếp nhận
kính giữ Pháp hoa.
(2) Những ai ước muốn
mau chóng đạt được
tuệ Biết tất cả (152)
thì phải tiếp nhận
ghi nhớ Pháp hoa,
và nên hiến cúng
những người tiếp nhận
kính giữ kinh ấy.
(3) Người nào có thể
tiếp nhận kính giữ
kinh Pháp hoa này,
thì nên nhận thức
người ấy chính là
Như lai phái đến,
vì thương chúng sinh
mà giảng kinh này.
(4) Người nào có thể
tiếp nhận kính giữ
kinh Pháp hoa này,
người ấy chính là
người tự rời bỏ
quốc độ trong sạch,
vì thương chúng
sinh mà sinh ở đây.
(5) Phải nhận thức rằng
người ấy là người
đã được tự tại
chỗ họ muốn sinh,
có thể sinh trong
thời kỳ dữ dội
mà nói rộng rãi
Pháp hoa tối thượng.
(6) Nên đem hoa hương
cùng với y phục
của hàng chư thiên,
lại đem cả đống
ngọc đẹp thượng hạng
cũng của chư thiên,
mà hiến cho người
diễn giảng Pháp hoa.
(7) Sau khi Như lai
nhập niết bàn rồi,
trong thời dữ dội
người nào có thể
tiếp nhận kính giữ
kinh Pháp hoa này,
thì ai cũng nên
chắp tay kính lạy,
in như tôn kính
đối với Như lai.
(8) Cỗ bàn thượng hạng
vật thực cam myՠ
y phục đủ loại
đều đem hiến cúng
con Phật như vậy,
và mong chốc lát
được nghe người ấy
diễn giảng Pháp hoa.
(9) Thời dữ sau này
ai có năng lực
tiếp nhận kính giữ
kinh Pháp hoa này,
người ấy là người
Như lai phái đến
trong loài người này
làm việc Như lai.
(10) Suốt một thời kỳ
thường mang ác ý
xúc phạm Như lai
thì tội vô lượng.
(11) Nhưng có người nào
đọc xét văn nghĩa
tụng được thuộc lòng
kính giữ Pháp hoa,
mà trong chốc lát
đem lời độc ác
đổ vào người ấy,
thì tội kẻ này
hơn cả kẻ ác
xúc phạm Như lai.
(12) Có người cầu mong
tuệ giác Phật đà,
cho nên trải qua
trọn một thời kỳ,
đứng trước Như lai
chắp tay tán dương
bằng vô số lượng
bài văn chỉnh cú.
(13) Tán dương như vậy
được phước vô cùng,
nhưng ai tán thưởng
người giữ Pháp hoa,
thì phước họ được
hơn cả người kia.
(14- 15) Trải qua thời kỳ
đến tám mươi ức,
đem cả sắc thanh
hương vị và xúc
loại quí trọng nhất,
hiến cúng cho người
kính giữ Pháp hoa,
và hiến cúng rồi
được nghe chốc lát
người ấy diễn giảng
kinh Pháp hoa này,
thì nên tự mừng
rằng mình nhận được
ích lợi lớn lao.
Dược vương đại sĩ,
ngày nay Như lai
tuyên cáo rõ ràng
để chư vị biết:
bao nhiêu kinh pháp
Như lai tuyên thuyết,
trong kinh pháp ấy
Pháp hoa hơn cả.

Khi ấy đức Thế tôn lại bảo Dược vương đại sĩ, bao nhiêu kinh pháp của Như lai tuyên thuyết, đã tuyên thuyết đang tuyên thuyết và sẽ tuyên thuyết, có đến vô lượng trăm ngàn vạn ức. Nhưng trong tất cả kinh pháp ấy, kinh Pháp hoa này rất khó tin khó hiểu. Dược vương, kinh này là kho tàng bí yếu của chư Phật, không thể bủa ra mà trao cho người một cách bừa bãi. Kinh này chư Phật giữ gìn, từ trước đến nay Như lai chưa hề nói đến một cách minh bạch. Như lai đang còn mà kinh này vẫn bị nhiều kẻ oán ghét, huống chi sau khi Như lai nhập diệt. Cho nên Dược vương, đại sĩ nên biết, sau khi Như lai nhập diệt, đối với kinh Pháp hoa, ai có năng lực sao chép ấn hành, tiếp nhận ghi nhớ, đọc xét văn nghĩa, tụng được thuộc lòng, tôn kính hiến cúng, giảng nói cho người..., thì người ấy được Như lai đem pháp y mà che phủ, lại được chư Phật hiện tại ở các quốc độ khác cùng giữ gìn cho, nên người ấy có được sức mạnh của đức tin vĩ đại, sức mạnh của chí nguyện, và sức mạnh của các gốc rễ pháp lành. Nên biết người ấy cư ngụ cùng tăng xá với Như lai, được Như lai đưa tay xoa đầu.

Dược vương, bất cứ chỗ nào có diễn giảng, có đọc tụng, có sao chép đối với kinh Pháp hoa, có đặt để cuốn kinh ấy, thì những chỗ như vậy nên xây dựng ngôi tháp bằng bảy chất liệu quí báu rất cao, rộng và đẹp, mà không cần tôn trí xá lợi vào trong ngôi tháp ấy, vì trong ngôi tháp ấy đã có toàn thân của Như lai. Ngôi tháp ấy nên đem các loại hoa, vòng hoa, hương liệu, lọng dù, tràng phan, kịch nhạc và thi ca mà hiến cúng, cung kính, tôn trọng và tán dương. Ai thấy ngôi tháp ấy mà biết lễ bái hiến cúng, thì người này phải được coi là đến gần tuệ giác vô thượng.

Dược vương, nhiều người, tại gia có xuất gia có, đi theo đường đi của bồ tát mà không được thấy nghe, đọc tụng, sao chép, ghi nhớ và hiến cúng kinh Pháp hoa, thì nên biết những người ấy chưa khéo đi theo đường đi của bồ tát. Nếu được thấy nghe cho đến hiến cúng kinh này mới là khéo đi theo đường đi của bồ tát. Những người cầu tuệ giác Phật đà mà thấy nghe kinh Pháp hoa, thấy nghe rồi tin tưởng, lý giải, tiếp nhận, ghi nhớ, thì nên biết những người ấy đã được đến gần tuệ giác vô thượng. Dược vương, ví như có người đang khát, cần nước, nên ở chỗ cao nguyên đào đất mà tìm. Đào mà còn thấy đất khô thì biết nước còn xa. Ra công liên tục, dần dần thấy đất ướt rồi thấy đất bùn, thì lòng họ biết chắc đã gần đến nước. Bồ tát cũng vậy, chưa nghe, chưa hiểu, chưa được tu tập Pháp hoa, thì nên biết người này còn cách xa tuệ giác vô thượng; nếu nghe, hiểu, tư duy và tu tập được Pháp hoa, thì nên biết chắc chắn đã đến gần tuệ giác vô thượng. Tại sao, vì tuệ giác vô thượng của hết thảy bồ tát tìm cầu đều ở trong Pháp hoa. Pháp hoa mở cửa phương tiện mà chỉ tính chân thật. Kho tàng Pháp hoa sâu, chắc, kín và xa, không ai thấu được. Như lai ngày nay vì giáo hóa tác thành cho các vị bồ tát mới mở ra, chỉ cho. Dược vương, nếu bồ tát nghe Pháp hoa mà kinh sợ ngờ vực, thì nên biết đó là bồ tát mới phát tâm chí; còn thanh văn nghe Pháp hoa mà kinh sợ ngờ vực, thì nên biết đó là kẻ tăng thượng mạn.

Dược vương, sau khi Như lai nhập diệt, thiện nam hay thiện nữ nào muốn diễn giảng Pháp hoa cho bốn chúng, thì phải làm sao mới nên diễn giảng? Dược vương, thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà của Như lai, mặc áo của Như lai và ngồi chỗ của Như lai; phải như vậy mới nên diễn giảng Pháp hoa cho bốn chúng một cách phong phú. Nhà của Như lai là lòng đại từ bi đối với hết thảy chúng sinh. Áo của Như lai là đức tính ôn hòa nhẫn nhục. Chỗ của Như lai là nguyên lý Không của tất cả các pháp. Đặt mình vững vàng vào trong ba pháp như vậy, sau đó mới đem sự không biếng nhác mà diễn giảng một cách phong phú về Pháp hoa cho chư vị bồ tát và tất cả bốn chúng. Dược vương, Như lai dẫu ở thế giới khác, vẫn phái những vị biến hóa tập hợp thính chúng cho người ấy, lại phái bốn chúng biến hóa đến nghe người ấy diễn giảng Pháp hoa. Bốn chúng biến hóa này nghe Pháp hoa của người ấy diễn giảng thì tin nhận, thích ứng, chứ không chống nghịch. Người ấy ở chỗ trống vắng, thì Như lai phái đông đảo tám bộ đến nghe người ấy diễn giảng Pháp hoa. Như lai tuy ở thế giới khác mà thường thường làm cho người ấy được thấy thân Như lai. Đối với Pháp hoa, người ấy quên mất câu nào đoạn nào, thì Như lai nói cho nhớ lại hoàn hảo.

Khi ấy đức Thế tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.

(16) Hãy bỏ biếng nhác
mà nghe Pháp hoa.
Pháp hoa khó có
cơ hội được nghe,
nghe mà tin nhận
cũng là khó có.
(17- 18) Như khát cần nước,
đào đất cao nguyên.
Đào thấy đất khô
biết nước còn xa.
(19) Đào lần thấy được
đất ướt rồi bùn,
thì biết chắc chắn
nước đã gần đến.
(20) Dược vương đại sĩ,
ví dụ như vậy
để biết những người
không nghe Pháp hoa
thì còn cách xa
tuệ giác Phật đà.
(21) Người nào nghe được
kinh sâu xa này -
bản kinh xác quyết
cho các thanh văn (153) ,
bản kinh chúa tể
của các kinh pháp -
nghe rồi tư duy
một cách chắc chắn;
(22) đại sĩ nên biết
người như thế này
đã được đến gần
tuệ giác Phật đà.
(23) Người nào chí nguyện
diễn giảng Pháp hoa,
người ấy cần phải
vào nhà Như lai
mặc áo Như lai
ngồi chỗ Như lai,
thì giữa công chúng
không sợ gì nữa,
phân tích rộng rãi
cho họ kinh này.
(24) Nhà của Như lai
là đại từ bi,
áo của Như lai
là đức nhẫn nhục,
chỗ của Như lai
là các pháp không.
Hãy đặt mình vào
trong ba pháp ấy
mà nói Pháp hoa
cho cả mọi người.
(25) Khi nói Pháp hoa,
nếu có những kẻ
độc miệng mắng nhiếc
dao chém gậy đánh
ngói ném đá liệng,
thì người ấy nên
nghĩ đến Như lai
và cần nhẫn nhịn.
(26) Như lai ở tại
vạn ức quốc độ,
biểu hiện cái thân
trong suốt cứng chắc,
trải qua vô số
vạn ức thời kỳ,
tuyên thuyết chánh pháp
cho các chúng sinh.
(27- 28) Tại quốc độ này,
sau khi Như lai
nhập niết bàn rồi,
ai có năng lực
diễn giảng Pháp hoa,
thì Như lai phái
bốn chúng biến hóa
là các tỷ kheo
và tỷ kheo ni
cùng với nam nữ
đức tin trong sáng,
cùng đến hiến cúng
người diễn giảng ấy,
lại còn hướng dẫn
bao nhiêu người khác
đến nghe Pháp hoa.
(29) Kẻ nào muốn hại
người giảng Pháp hoa,
sử dụng dao gậy
cùng với ngói đá,
thì Như lai phái
những vị biến hóa
làm người hộ vệ
hộ vệ người ấy.
(30) Người ấy một mình
ở chỗ trống vắng
không có tiếng người,
đọc xét văn nghĩa
tụng được thuộc lòng
về kinh Pháp hoa,
(31) Như lai bấy giờ
hiện thân trong sáng;
người ấy nếu quên
câu nào đoạn nào,
Như lai nói cho
được thông suốt cả.
(33) Người ấy đủ hết
ba pháp nói trên,
thì giảng Pháp hoa
cho cả bốn chúng,
hay ở chỗ vắng
đọc tụng Pháp hoa,
đều được nhìn thấy
thân thể Như lai (154) .
(32) Và khi người ấy
ở chỗ trống vắng,
thì Như lai phái
chư thiên long vương
cùng với dạ xoa
và các bộ khác
đến với người ấy
làm người nghe pháp.
(34) Người ấy thích thú
diễn giảng Pháp hoa,
phân tích rành rẽ
không có vướng mắc,
là vì thường được
chư Phật hộ trì (155) ,
cho nên làm cho
các chúng hoan hỷ.
(35) Những ai gần gũi
pháp sư như vậy
thì chóng trở thành
những vị bồ tát,
tùy thuận mà học
pháp sư như vậy
thì sẽ gặp được
hằng sa Phật đà.

 

Phẩm 11: Bảo Tháp Xuất Hiện [^]

Vào lúc bấy giờ, trước đức Thế tôn, một ngôi bảo tháp bằng bảy chất liệu quí báu, cao năm trăm do tuần, chu vi hai trăm năm chục do tuần, từ đất vọt lên, đứng trong không gian. Bảo tháp được trang hoàng bằng đủ thứ bảo vật. Có năm ngàn lan can và hàng ngàn hàng vạn khám thất (156) . Trang hoàng bằng vô số cờ phan, và mắc rủ xuống là những vòng hoa ngọc. Chuông nhỏ quí báu thì có cả vạn ức, cũng được treo lên. Mọi phía bảo tháp đều phát ra hơi thơm đàn hương, tỏa khắp thế giới này. Bảo cái có mắc phan phướn (157) thì do bạc, vàng, lưu ly, xa cừ, mã não, chân châu và mai khôi, bảy chất liệu quí báu như vậy kết hợp tạo thành, và cao đến cung trời Tứ thiên vương. Chư thiên của tầng trời Đao lợi thì rưới hoa mạn đà của chư thiên mà hiến cúng bảo tháp. Tám bộ và ngàn vạn ức chúng khác cũng hiến cúng, cung kính, tôn trọng và tán dương bảo tháp bằng các loại hoa, hương liệu, vòng hoa, cờ phan, lọng dù và kịch nhạc.

Từ trong bảo tháp xuất ra âm thanh rất lớn, tán dương rằng tốt lắm, thưa đức Thích ca thế tôn, ngài có thể tuyên thuyết cho đại hội các chúng như thế này về kinh Pháp hoa của tuệ giác bình đẳng vĩ đại, bản kinh dạy cho bồ tát và được Phật giữ gìn (158) . Thật đúng như vậy, thưa đức Thích ca thế tôn; những điều ngài tuyên thuyết toàn là chân thật.

Bấy giờ bốn chúng đã thấy bảo tháp vĩ đại đứng trong không gian, lại nghe âm thanh xuất ra từ bảo tháp ấy, thì ai cũng được sự vui đẹp về chánh pháp, và ngạc nhiên thấy là sự chưa từng có, nên cùng đứng dậy khỏi chỗ mình ngồi, cung kính chắp tay mà đứng mãi với một tư thế ấy. Lúc này có vị đại sĩ danh hiệu là Đại lạc thuyết (159) , biết sự hoài nghi của chư thiên, nhân loại, tu la, và bao chúng khác trong thế giới này, nên thưa đức Thích ca thế tôn, rằng bạch ngài, vì lý do nào mà ngôi bảo tháp như vầy từ đất vọt lên, và trong đó phát ra âm thanh vừa rồi? Đức Thế tôn bảo, Đại lạc thuyết, trong ngôi bảo tháp này có toàn thân của một đức Phật đà. Thì quá khứ, ở phương dưới (160) , trong vô lượng ngàn vạn ức vô số quốc độ, có một quốc độ tên là Bảo tịnh. Quốc độ ấy có đức Phật giáo chủ danh hiệu là Đa bảo phật đà. Khi còn đi trên đường đi của bồ tát, đức Đa bảo phật đà có phát lời nguyện trọng đại, nguyện rằng nếu được trở thành Phật đà thì sau khi nhập diệt, trong mười phương quốc độ, chỗ nào có Phật nói kinh Pháp hoa, bảo tháp của Như lai cũng sẽ xuất hiện trước chỗ ấy để nghe kinh ấy, và làm chứng cho kinh ấy bằng cách tán dương rằng tốt lắm. Khi thành Phật đà rồi, lúc sắp nhập diệt, đức Đa bảo phật đà ở giữa đại hội chư thiên nhân loại mà tuyên cáo chư vị tỷ kheo, rằng khi Như lai nhập diệt rồi, ai muốn hiến cúng toàn thân của Như lai thì nên chung nhau xây dựng một ngôi bảo tháp cho vĩ đại. Rồi đức Đa bảo phật đà vận dụng sức mạnh thần thông và sức mạnh đại nguyện, bất cứ chỗ nào trong mười phương quốc độ có Phật tuyên thuyết Pháp hoa, bảo tháp của ngài cũng vọt lên, xuất hiện ở trước, và toàn thân của ngài ở trong bảo tháp tán dương rằng tốt lắm (161) . Đại lạc thuyết, hôm nay đức Đa bảo phật đà nghe Như lai tuyên thuyết Pháp hoa, nên bảo tháp của ngài từ đất vọt lên mà tán dương rằng tốt lắm.

Đại lạc thuyết đại sĩ, lúc ấy, do thần lực của đức Thế tôn nên thưa rằng, bạch đức Thế tôn, chúng con ước muốn được nhìn thấy toàn thân của đức Đa bảo phật đà. Đức Thế tôn bảo, Đại lạc thuyết, đức Đa bảo phật đà còn có lời nguyện sâu xa và trọng đại nữa, nguyện rằng khi bảo tháp của Như lai xuất hiện trước các đức Phật để nghe Pháp hoa, nếu đức Phật nào muốn đem toàn thân của Như lai chỉ cho bốn chúng, thì chư Phật hóa thân của đức Phật ấy đang thuyết pháp giáo hóa ở khắp mười phương quốc độ đều qui tụ lại một chỗ, bấy giờ toàn thân của Như lai mới xuất hiện. Đại lạc thuyết, chư Phật hóa thân của Như lai hiện đang thuyết pháp giáo hóa ở mười phương quốc độ, hôm nay Như lai cũng nên chiêu tập. Đại lạc thuyết đại sĩ thưa, bạch đức Thế tôn, chúng con cũng ước muốn được nhìn thấy chư Phật hóa thân của đức Thế tôn để lễ bái, hiến cúng.

Khi ấy đức Thế tôn liền phóng một đường ánh sáng của tướng lông trắng, chiếu qua hướng đông. Cả đại hội tức thì thấy được chư Phật của năm trăm vạn ức trăm triệu hằng sa quốc độ ở hướng ấy. Các quốc độ này toàn là đất bằng pha lê, với những cây ngọc được trang hoàng bằng những dải vải đẹp. Vô số ngàn vạn ức bồ tát tràn đầy trong mỗi quốc độ, và được dăng khắp lên trên là những màn và lưới đính kết các thứ ngọc. Cả đại hội ai cũng nghe thấy chư Phật ở các quốc độ ấy thuyết pháp bằng âm thanh cực kỳ tinh túy, nghe thấy vô số ngàn vạn ức bồ tát khắp trong mỗi quốc độ cũng thuyết pháp cho các chúng. Hướng đông như vậy thì các hướng tây nam bắc, bốn góc và trên dưới, hướng nào ánh sáng của tướng lông trắng cũng chiếu đến, và cả đại hội ai cũng nghe thấy như đã nghe thấy về hướng đông.

Chư Phật hóa thân ở mười phương hướng đều bảo các vị bồ tát, chư thiện nam tử, Như lai nay nên đến quốc độ Kham nhẫn, chỗ đức Thích ca thế tôn, để hiến cúng ngài và hiến cúng bảo tháp của đức Đa bảo phật đà. Bấy giờ quốc độ Kham nhẫn tức thì biến thành sạch sẽ, đất bằng lưu ly, cây ngọc trang trí, hoàng kim làm dây phân ranh tất cả đường sá thành những đường ngã tám. Không có thôn xóm, làng mạc, thành phố, thị trấn, sông biển, khe suối, núi non, rừng rú. Đốt lên hương liệu rất quí, và hoa mạn đà bủa khắp mặt đất. Màn lưới đính kết các thứ ngọc thì dăng che ở trên, và mắc vào đó còn có những cái chuông nhỏ quí báu. Chỉ để lại đại hội các chúng này, còn bao nhiêu nhân loại và chư thiên đều dời để ở quốc độ khác.

Bấy giờ chư Phật hóa thân ngài nào cũng đem theo một vị đại bồ tát mà làm thị giả, cùng đến quốc độ Kham nhẫn này, và bước đến dưới các cây ngọc. Mỗi cây ngọc cao năm trăm do tuần, nhánh lá hoa quả đều có thứ tự và rất đẹp. Dưới mỗi cây ngọc đều có một tòa sư tử, cao năm do tuần và trang sức bằng ngọc lớn. Chư Phật hóa thân mỗi ngài ngồi xếp bằng trên một tòa sư tử ấy. Lần lượt như vậy, đầy cả đại thiên thế giới này mà chư Phật hóa thân tại một phương hướng của đức Thích ca thế tôn vẫn chưa hết.

Đức Thích ca thế tôn muốn đủ chỗ ngồi cho chư Phật hóa thân, nên cả tám phương hướng, mỗi phương hướng biến hai trăm vạn ức trăm triệu quốc độ thành quốc độ sạch sẽ, không có địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh và tu la. Nhân loại và chư thiên cũng được dời để ở quốc độ khác. Tất cả quốc độ đã biến thành quốc độ sạch sẽ này cũng lấy lưu ly làm đất và trang trí bằng cây ngọc. Cây ngọc cũng cao năm trăm do tuần, nhánh lá hoa quả cũng có thứ tự và rất đẹp. Dưới mỗi cây ngọc cũng có một tòa sư tử cao năm do tuần, trang trí bằng các thứ ngọc. Cũng không có sông biển, không có núi Mục chân và Đại mục chân, núi Thiết vi và Đại thiết vi, núi Tu di và những núi lớn cùng loại. Suốt cả một ngàn sáu trăm vạn ức trăm triệu quốc độ ấy thành một cõi Phật, đất ngọc bằng thẳng. Che khắp lên trên là những màn được đính kết các thứ ngọc một cách xen nhau và bủa ra. Bảo cái có phan phướn được treo lên. Đốt lên hương liệu rất quí. Các loại hoa quí của chư thiên rải khắp mặt đất.

Để đủ chỗ ngồi cho chư Phật hóa thân sẽ đến nữa, nên cả tám phương hướng, mỗi phương hướng đức Thích ca thế tôn lại biến thêm hai trăm vạn ức trăm triệu quốc độ nữa, cũng thành quốc độ sạch sẽ, cũng không có địa ngục ngạ quỉ súc sinh và tu la. Bao nhiêu nhân loại và chư thiên cũng được dời để ở quốc độ khác. Tất cả quốc độ đã biến thành quốc độ sạch sẽ lần này cũng lấy lưu ly làm đất, cũng trang trí bằng cây ngọc. Cây ngọc cũng cao năm trăm do tuần, nhánh lá hoa quả cũng có thứ tự và rất đẹp. Dưới mỗi cây ngọc cũng có một tòa sư tử cao năm do tuần, trang trí bằng ngọc lớn. Cũng không có sông biển, không có núi Mục chân và Đại mục chân, núi Thiết vi và Đại thiết vi, núi Tu di và những núi lớn cùng loại. Suốt cả một ngàn sáu trăm vạn ức trăm triệu quốc độ này, cùng với số ấy ở trước, thành một cõi Phật, đất ngọc bằng thẳng. Che khắp lên trên cũng là những màn được đính kết các thứ ngọc một cách xen nhau và bủa ra. Bảo cái có phan phướn cũng được treo lên. Cũng đốt lên hương liệu rất quí. Và các loại hoa quí của chư thiên cũng được rải khắp mặt đất.

Lúc ấy hóa thân của đức Thích ca thế tôn ở hướng đông, tức chư Phật giáo chủ tại các quốc độ nhiều bằng số cát của trăm ngàn vạn ức trăm triệu sông Hằng thuộc hướng ấy, ngài nào cũng hiện đang thuyết pháp giáo hóa ở quốc độ của mình, và bấy giờ cũng đến qui tụ ở quốc độ Kham nhẫn này. Lần lượt như vậy, chư Phật hóa thân ở mười phương hướng đều đến qui tụ, ngồi vào tám phương hướng. Tám phương hướng này, bấy giờ mỗi phương hướng có đến bốn trăm vạn ức trăm triệu quốc độ, và chư Phật hóa thân ngồi đầy trong đó. Ngài nào cũng ngồi trên tòa sư tử ở dưới cây ngọc, cùng phái vị đại bồ tát thị giả đến vấn an đức Thích ca thế tôn. Các ngài cầm mà đưa hoa ngọc cho các vị ấy bưng đầy hai tay, bảo rằng Thiện nam tử, hãy đến Linh sơn, chỗ đức Thích ca thế tôn, thưa với ngài đúng như lời của Như lai, rằng đức Thế tôn ít bịnh ít phiền, khí lực yên vui chăng, các chúng thanh văn và bồ tát yên ổn cả chăng. Hãy rải hoa ngọc này mà hiến cúng ngài, và bạch rằng đức Thế tôn của con danh hiệu như vậy, muốn được cùng đức Thế tôn mở cửa bảo tháp của đức Đa bảo phật đà. Tất cả chư Phật hóa thân cũng phái vị đại bồ tát với phong cách như vậy.

Khi ấy đức Thích ca thế tôn thấy chư Phật hóa thân đã qui tụ, cùng ngồi trên tòa sư tử, lại nghe chư Phật ấy muốn được cùng mở cửa bảo tháp, nên ngài đứng dậy, rời khỏi pháp tòa, đứng trong không gian. Tất cả bốn chúng, vốn đã đứng lên và chắp tay, bây giờ chăm chú mà nhìn đức Thế tôn. Đức Thế tôn liền dùng ngón tay bên phải mở cửa bảo tháp làm bằng bảy chất liệu quí báu, làm phát ra âm thanh lớn như cửa thành lớn được tháo khóa chốt mà mở ra. Tức thì toàn thể đại hội các chúng đều được thấy đức Đa bảo phật đà ngồi trong bảo tháp, trên tòa sư tử, toàn thân không rã, y như đang nhập thiền định. Cả đại hội lại được nghe lời của đức Đa bảo phật đà nói, rằng tốt lắm, thưa đức Thích ca thế tôn, ngài đã tuyên thuyết một cách thích thú về kinh Pháp hoa. Tôi đến đây là để nghe kinh ấy.

Bốn chúng cùng bao bộ chúng khác, nghe thấy đức Phật nhập diệt vô lượng ngàn vạn ức thời kỳ rồi mà nói như vậy thì ai cũng ca tụng là sự chưa từng có. Cả khối hoa quí của chư thiên được họ đem tung rải trên đức Đa bảo phật đà và đức Thích ca thế tôn. Còn đức Đa bảo phật đà thì ở trong bảo tháp để một nửa pháp tòa của mình nhường cho đức Thích ca thế tôn mà nói rằng thưa ngài, mời ngài đến ngồi ở đây. Tức thì đức Thích ca thế tôn vào trong bảo tháp, ngồi trên một nửa pháp tòa, cũng theo cách ngồi xếp bằng. Cả đại hội các chúng thấy hai ngài cùng ngồi xếp bằng trên pháp tòa sư tử ở trong bảo tháp, thì nghĩ rằng hai ngài ngồi cao xa quá, xin đức Thế tôn dùng sức mạnh thần thông mà làm cho chúng con cũng được lên ở trên không gian. Tức thì đức Thích ca thế tôn dùng sức mạnh thần thông mà tiếp cả đại hội các chúng cùng lên ở trên không gian, rồi đem âm thanh vĩ đại mà phổ cáo bốn chúng, rằng ai là người có thể ở trong quốc độ Kham nhẫn này mà giảng nói rộng rãi về kinh Pháp hoa, thì bây giờ chính là lúc nên nói ra. Như lai không bao lâu nữa sẽ nhập niết bàn. Như lai muốn có người để phó thác kinh Pháp hoa này.

Khi ấy đức Thế tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.

(1) Đa bảo phật đà
vị chúa thánh triết
nhập diệt từ lâu,
thân ở trong tháp,
mà vì chánh pháp
còn hiện đến đây.
Như vậy các người
bởi lý do gì
không vì chánh pháp
mà cố nỗ lực?
(2) Đa bảo phật đà
nhập diệt đến nay
thì gian đã có
vô số thời kỳ,
còn hiện khắp chỗ
để nghe Pháp hoa,
như thế là vì
Pháp hoa khó gặp.
(3) Ngài vốn phát nguyện:
nhập niết bàn rồi,
Như lai vẫn đến
tất cả mọi chỗ
để được thường xuyên
nghe nói Pháp hoa.
(4) Và vô số Phật
nhiều bằng Hằng sa,
vốn do Như lai
phân thân biểu hiện,
cũng đến nơi này
để nghe Pháp hoa
và để yết kiến
Đa bảo phật đà.
(5) Các ngài rời bỏ
quốc độ tốt đẹp,
các chúng đệ tử,
tám bộ thiên long,
bao sự hiến cúng,
muốn làm chánh pháp
tồn tại lâu dài
nên cùng đến đây.
(6) Để có đủ chỗ
chư Phật ngự tọa,
Như lai vận dụng
sức mạnh thần thông,
di chuyển vô lượng
các loại chúng sinh,
biến quốc độ này
sạch sẽ rộng lớn.
(7) Chư Phật đi đến
dưới mỗi cây ngọc,
trông như hoa sen
làm đẹp hồ sạch.
(8) Những tòa sư tử
dưới mỗi cây ngọc,
chư Phật ngự tọa
thì sáng đẹp ra,
tựa như đêm tối
đuốc lớn đốt lên.
(9) Thân của chư Phật
phát ra hương thơm
tỏa khắp quốc độ
trong cả mười phương,
làm cho chúng sinh
cùng được xông cả,
và lòng say sưa
không tự chủ nổi,
như nhánh cây nhỏ
được thổi gió lớn.
Bao nhiêu phong cách
phương tiện như vậy
để làm chánh pháp
tồn tại lâu dài.
*
(10) Như lai phổ cáo
toàn thể các chúng,
rằng khi Như lai
nhập niết bàn rồi,
những ai có thể
kính giữ Pháp hoa
bằng mọi pháp hạnh
trong đó gồm có
nghiên cứu, diễn giảng (162) ...,
thì ngày hôm nay
đối trước Như lai
hãy tự phát nguyện.
(11) Đa bảo phật đà
tuy đã nhập diệt
từ lâu lắm rồi,
mà do đại nguyện
vẫn phát âm thanh
như sư tử gầm,
chứng minh ca tụng
Diệu pháp liên hoa.
(12) Đức Đa bảo ấy
cùng với Như lai
và chư hóa Phật
sẽ cùng chứng biết
cho ý nguyện ấy
của những con Phật.
Vậy những con Phật
ai kính giữ được
Diệu pháp liên hoa,
hãy phát đại nguyện
nguyện làm pháp ấy
tồn tại lâu dài.
(13) Ai có năng lực
kính giữ Pháp hoa
thì thế là đã
hiến cúng Như lai;
cùng với hiến cúng
Đa bảo phật đà -
một đức Phật đà
ở trong tháp rồi
vẫn đến mười phương
chỉ vì Pháp hoa.
(14) Cũng là hiến cúng
chư Phật hóa thân -
những đấng làm cho
tráng lệ huy hoàng
hết thảy quốc độ
khắp cả mười phương.
(15) Ai có năng lực
diễn giảng Pháp hoa,
thì thế tức là
thấy được Như lai,
thấy đức Đa bảo
cùng chư hóa Phật.
(16) Chư thiện nam tử,
hãy suy nghĩ kyծ
Đây là trách vụ
rất là khó khăn
mà các người nên
phát nguyện đảm nhận.
*
(17) Hằng sa kinh điển
ngoài kinh Pháp hoa,
diễn giảng hết cả
chưa đủ là khó;
(18) đón núi Tu di
ném qua vô số
thế giới hướng khác
cũng chưa đủ khó;
(19) chỉ dùng ngón chân
mà hất đại thiên
văng xa cõi khác
cũng chưa đủ khó;
(20) trên đỉnh hiện hữu (163)
đứng đó nói cho
tất cả bộ chúng
về các kinh khác
nhiều đến vô lượng
cũng chưa đủ khó;
(21) sau khi Như lai
nhập niết bàn rồi,
ở trong thời kỳ
dữ dội đáng sợ,
nói được Pháp hoa
như vậy mới khó.
(22) Giả sử có người
nắm được hư không
mà đem đi dạo
cũng chưa đủ khó;
(23) sau khi Như lai
nhập niết bàn rồi,
sao chép ấn hành
giữ cho còn mãi
Diệu pháp liên hoa,
và khuyên người khác
cũng làm tương tự,
như vậy mới khó.
(24- 25) Đem cả địa cầu
để trên móng chân
vọt lên Phạn thiên
cũng chưa đủ khó;
(26) sau khi Như lai
nhập niết bàn rồi,
trong thời kỳ dữ
học được một lúc
kinh Pháp hoa này,
như vậy mới khó.
(27) Gánh vác cỏ khô
vào lửa hoại kiếp (164)
mà không bị cháy
cũng chưa đủ khó;
(28) sau khi Như lai
nhập niết bàn rồi,
ai giữ Pháp hoa
kín đáo giảng được
cho một người thôi,
như vậy mới khó.
(29) Kho tàng chánh pháp
đến tám vạn tư,
và bao kinh pháp
mười hai thể loại (165) ,
nếu ghi nhớ hết
và giảng cho người,
(30) làm cho người nghe
được sáu thần thông,
dẫu là như vậy
cũng chưa đủ khó;
(31) sau khi Như lai
nhập niết bàn rồi,
đối với Pháp hoa
nếu có năng lực
lắng nghe, tiếp nhận,
hỏi thấu nghĩa ý,
giảng nói cho người,
như vậy mới khó.
(32) Có ai thuyết pháp
làm cho vạn ức
vô số vô lượng
hằng sa chúng sinh
được thành La hán
đủ sáu thần thông,
ích lợi đến vậy
cũng chưa đủ khó;
(33) sau khi Như lai
nhập niết bàn rồi,
ai có năng lực
diễn giảng kính giữ
Diệu pháp liên hoa
như vậy mới khó.
(34) Vì cho chúng sinh
được tuệ giác Phật,
Như lai ở trong
vô lượng quốc độ,
từ lúc mở đầu
cho đến hiện nay,
tuyên thuyết phong phú
bao nhiêu kinh pháp.
(35) Trong kinh pháp ấy
Pháp hoa bậc nhất:
nếu có năng lực
giữ được Pháp hoa,
tức là giữ được
toàn thân Như lai.
(36) Chư thiện nam tử,
sau khi Như lai
nhập niết bàn rồi,
ai có năng lực
tiếp nhận kính giữ
Diệu pháp liên hoa
bằng mọi pháp hạnh
trong đó gồm có
đọc xét văn nghĩa,
tụng được thuộc lòng...,
nay trước Như lai
hãy tự phát nguyện.
(37) Diệu pháp liên hoa
khó mà giữ nổi;
những ai giữ nổi
ít thì gian thôi,
Như lai hài lòng,
chư Phật cũng vậy.
(38) Những ai giữ nổi
Pháp hoa như vậy
thì thế là được
chư Phật tán dương,
thế là dũng mãnh,
thế là tinh tiến,
thế là giữ giới,
tu hạnh đầu đà,
thế là chóng được
tuệ giác vô thượng.
(39) Thời ác sau này
những ai có thể
học hỏi kính giữ
Diệu pháp liên hoa,
người ấy chính là
con Phật đích thực,
đứng vào ở nơi
vị trí Thuần thiện;
sau khi Như Lai
nhập niết bàn rồi
vẫn lý giải được
nghĩa ý Pháp hoa.
(40- 41) Người ấy chính là
mắt của thế gian
trong đó có cả
chư thiên nhân loại.
Ở trong thời kỳ
khủng bố khiếp sợ,
người ấy nói được
Diệu pháp liên hoa,
dầu chỉ có thể
nói trong chốc lát,
hết thảy trời người
đều nên hiến cúng.

 

Phẩm 12: Đề Bà Đạt Đa (166) [^]

Khi ấy đức Thế tôn bảo chư vị bồ tát, bốn chúng và các chúng nhân loại chư thiên, rằng trong thì quá khứ, Như lai đã cầu Pháp hoa trong vô lượng thời kỳ, không biếng nhác, không mỏi mệt. Trong nhiều thời kỳ, Như lai thường làm quốc vương, phát nguyện cầu tuệ giác vô thượng, lòng không thoái lui hay lệch khỏi mục đích ấy. Để hoàn thiện sáu pháp ba la mật nên quốc vương nỗ lực bố thí, lòng không tiếc lẫn gì hết về voi ngựa, bảy thứ quí báu, về quốc thành, thê tử, về tôi tớ, tùy tùng, về đầu mắt, tủy não, thân thịt, tay chân; tính mạng cũng không nuối tiếc. Bấy giờ dân chúng sống lâu vô lượng. Quốc vương vì cầu chánh pháp nên bỏ ngôi vua, ủy thác chính sự cho thái tử, rồi đánh trống truyền lịnh mà cầu chánh pháp khắp nơi, rằng ai có khả năng nói cho ta về pháp đại thừa thì ta sẽ cung phụng phục dịch suốt đời. Bấy giờ có một vị tiên đến tâu, tôi biết bản kinh đại thừa tên là Pháp hoa. Quốc vương không trái ý tôi thì tôi sẽ dạy cho. Quốc vương nghe vị tiên nói, vui mừng rộn rã, tức thì đi theo vị ấy, cung phụng mọi sự vị ấy cần đến. Những việc hái trái, múc nước, nhặt củi, dọn ăn, đến nỗi đem thân làm giường làm ghế cũng không mỏi mệt cơ thể hay tâm trí. Quốc vương lúc ấy phụng sự như vậy đến cả ngàn năm, vì chánh pháp mà siêng năng một cách tinh chuyên, cung đốn hầu hạ không thiếu sót điều gì. Đức Thế tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.

(42) Như lai nhớ lại
trong thì quá khứ,
vì cầu cho được
chánh pháp vĩ đại,
nên dẫu làm vua
của cả một nước,
vẫn không đam mê
năm thứ dục lạc.
(43) Đánh chuông gióng trống
tuyên cáo khắp nơi,
rằng ai biết được
chánh pháp vĩ đại
mà đem giảng giải
thuyết trình cho ta,
thì ta đích thân
làm kẻ tôi tớ.
Bấy giờ vị tiên
tên là Vô tỷ
đến tâu với vua
rằng tôi có biết
chánh pháp tinh túy
hiếm nhất thế gian.
(44) Vua thực hành được
thì tôi dạy cho.
Nghe vị tiên nói
vua rất vui đẹp,
tức thì đi theo
cung phụng cần dùng.
Ngay việc nhặt củi
kiếm trái hái rau
cũng vẫn kính cẩn
cung phụng đúng lúc.
(45) Dồn hết tâm tình
vào pháp tinh tuý,
nên cả thân tâm
không nhác không mệt.
Khắp vì tất cả
bao loại chúng sinh
mà cố nỗ lực
cầu pháp vĩ đại,
chứ không vị gì
bản thân của mình,
cũng không cầu hồ
thú vui ngũ dục.
(46) Như lai cố ý
làm đại quốc vương
siêng cầu cho được
chánh pháp vĩ đại,
do đó mà được
thành đức Phật đà,
và bây giờ đây
cố đem chánh pháp
vĩ đại như vậy
nói cho các người.

Đức Thế tôn bảo chư vị tỷ kheo, quốc vương lúc ấy nay là Như lai, còn vị tiên lúc ấy nay là Đề bà đạt đa. Do người bạn tốt Đề bà đạt đa mà làm cho Như lai hoàn bị sáu pháp ba la mật, bốn tâm vô hạn, ba mươi hai tướng quí, tám mươi vẻ đẹp, thân màu hoàng kim, mười đại năng lực, bốn sự không sợ, bốn sự nhiếp hóa, mười tám sự đặc biệt, sức mạnh thần thông, sức mạnh tuệ giác, trở thành bậc Biết khắp và đúng, hóa độ sâu rộng các loại chúng sinh, toàn là do người bạn tốt Đề bà đạt đa.

Như lai nay tuyên cáo với tất cả bốn chúng, Đề bà đạt đa sau này qua vô lượng thời kỳ rồi, sẽ được thành Phật danh hiệu là Thiên vương như lai, đủ mười đức hiệu. Quốc độ của ngài tên là Thiên đạo. Ngài tồn tại hai mươi thời kỳ bậc giữa, tuyên thuyết cho chúng sinh một cách rộng rãi về chánh pháp tinh túy, làm cho hằng sa chúng sinh được tuệ giác La hán, vô lượng chúng sinh phát tâm Duyên giác, hằng sa chúng sinh phát tâm Tuệ giác vô thượng, thực hiện tuệ giác Không sinh, đạt đến địa vị Không thoái chuyển. Thiên vương như lai nhập niết bàn rồi, giáo pháp nguyên chất tồn tại hai mươi thời kỳ bậc giữa, xá lợi toàn thân được xây dựng tôn thờ trong ngôi tháp bằng bảy chất liệu quí báu, cao sáu chục do tuần, chu vi bốn chục do tuần. Chư thiên, nhân loại, ai cũng đem bông hoa đa dạng, các hương liệu, vải vóc, vòng hoa, tràng phan, bảo cái, kịch nhạc, ca khúc và thi thơ mà lễ bái và hiến cúng bảo tháp tuyệt diệu như vậy, và sự lễ bái hiến cúng này làm cho vô lượng chúng sinh được tuệ giác La hán, vô lượng chúng sinh được tuệ giác Duyên giác, không thể nghĩ bàn chúng sinh phát tâm Tuệ giác vô thượng, đến bậc Không thoái chuyển.

Chư vị tỷ kheo, trong thì vị lai, thiện nam hay thiện nữ nào nghe được phẩm Đề bà đạt đa này của kinh Pháp hoa mà lòng trong sáng, tin kính cẩn, không ngờ vực, không lầm lẫn, thì người ấy không sa vào địa ngục ngạ quỉ súc sinh, mà lại sinh trong nhân loại chư thiên, hay sinh trước chư Phật ở bất cứ phương hướng nào. Và sinh ở đâu cũng thường được nghe kinh Pháp hoa. Sinh trong nhân loại hay chư thiên thì hưởng thụ sự yên vui tuyệt diệu và hơn hết, còn sinh trước chư Phật thì hóa sinh bằng hoa sen.

*

Bấy giờ Trí tích, vị bồ tát thị tùng đức Đa bảo phật đà, vốn ở phương dưới, bạch với ngài hãy trở về quốc độ của mình. Đức Thích ca thế tôn bảo bồ tát Trí tích, thiện nam tử, hãy chờ một lát. Quốc độ này có vị bồ tát tên là Văn thù, các vị đáng gặp nhau, luận thuyết chánh pháp tinh túy rồi về. Lúc bấy giờ bồ tát Văn thù ngồi trên hoa sen có cả ngàn cánh, lớn như bánh xe, các vị bồ tát tùy tùng cũng ngồi trên hoa sen quí báu, từ Diêm hải long cung trong biển cả, đột nhiên vọt lên, lên cao trong không gian, lướt đến Linh sơn, bước xuống hoa sen, lại chỗ đức Thích ca thế tôn và đức Đa bảo phật đà, đem đầu mặt kính lạy ngang chân hai ngài. Làm sự tôn kính như vậy rồi, bồ tát Văn thù bước qua chỗ bồ tát Trí tích, hỏi thăm nhau và ngồi một bên. Bồ tát Trí tích hỏi bồ tát Văn thù, nhân giả đến long cung giáo hóa chúng sinh số lượng được mấy? Bồ tát văn thù nói, số lượng ấy vô lượng, không thể tính kể, không thể miệng nói hay trí lường mà biết được. Xin nhân giả đợi một chút, sẽ tự có chứng cứ. Nói chưa xong thì vô số bồ tát cũng ngồi hoa sen quí báu, từ biển vọt lên, lướt đến Linh sơn, ở trong không gian. Các vị bồ tát này toàn do bồ tát Văn thù hóa độ, hoàn bị phong cách bồ tát, và cùng luận thuyết sáu pháp ba la mật. Gốc của các vị này là thanh văn, ở trong không gian mà nói về việc làm thanh văn, nhưng nay thì ai cũng thực hành nguyên lý Không của đại thừa. Bồ tát Văn thù nói với bồ tát Trí tích, sự giáo hóa của tôi ở trong biển cả là như vậy. Bồ tát Trí tích liền dùng những lời chỉnh cú sau đây vừa tán dương vừa hỏi bồ tát Văn thù (167) .

(47) Bậc đại trí đức
dũng mãnh tinh tiến!
bằng chánh pháp nào
ngài giáo hóa được
vô lượng bồ tát
mà đại hội này
và chính tôi đây
đã thấy như kia?
(48) Ngài giảng thật tướng,
thuyết minh thế nào
đối với giáo pháp
cỗ xe duy nhất,
hướng dẫn đầy đủ
các vị như vầy
làm cho chóng được
tuệ giác vô thượng?

Bồ tát Văn thù nói, trong biển cả tôi chỉ thường xuyên tuyên thuyết Pháp hoa. Bồ tát Trí tích hỏi, kinh ấy cực kỳ sâu xa tinh túy, quí báu nhất trong các kinh, thế giới hiếm có; trong biển cả có hay không có người nỗ lực tinh tiến, thực hành được kinh ấy và thành Phật được một cách mau chóng? Bồ tác Văn thù nói, có. Long nữ của Diêm hải long vương mới tám tuổi mà trí tuệ, lợi căn, khéo biết trình độ và hành vi của chúng sinh. Được pháp tổng trì, tiếp nhận và ghi nhớ đủ hết kho tàng bí yếu sâu xa của chư Phật tuyên thuyết. Vào sâu thiền định, thấu suốt các pháp. Trong khoảng đơn vị ngắn nhất của thì gian mà phát lộ Tuệ giác vô thượng, thành bậc Không còn thoái chuyển. Đủ các tài hùng biện. Thương chúng sinh y như thương con đỏ. Công đức hoàn hảo. Lòng nghĩ, miệng nói, toàn là tinh túy cao cả. Từ bi, khiêm nhượng, chí ý hoà nhã. Long nữ ấy có đủ năng lực đạt đến tuệ giác vô thượng. Bồ tát Trí tích nói, tôi thấy đức Thích ca thế tôn trải qua vô lượng thời kỳ, làm những khổ hạnh khó làm, chứa công dồn đức, cầu tuệ giác vô thượng không lúc nào ngừng nghỉ. Quan sát cả đại thiên thế giới này thì thấy không có chỗ nào, dầu chỉ bằng hạt cải mà thôi, mà không phải là chỗ ngài xả bỏ thân mạng vì chúng sinh, sau đó mới được thành tựu tuệ giác vô thượng. Tôi không tin long nữ nào đó chỉ trong khoảnh khắc mà thành được một bậc Biết đúng và khắp. Nói bàn chưa xong, long nữ đột nhiên xuất hiện trước mắt, đem cả đầu mặt lễ bái tôn kính đức Thế tôn rồi đứng lui một khoảng, dùng lời chỉnh cú sau đây mà tán dương ngài.

(49) Thế tôn thấu suốt
thật tướng tội phước,
ánh sáng của ngài
soi khắp mười phương.
Thân ngài: pháp thân,
tinh túy, trong suốt,
đủ ba mươi hai
tướng đại trượng phu.
(50) Pháp thân như vậy
còn được trang hoàng
bằng cả tám chục
vẻ đẹp tùy thuộc.
Nhân loại, chư thiên,
long vương, thiện thần,
ai cũng kính ngưỡng,
tất cả chúng sinh
ai cũng tôn thờ
như bậc đồng tông (168) .
(51) Nghe đức Văn thù (169)
nói con chóng thành
tuệ giác vô thượng,
việc ấy chỉ có
Thế tôn đại giác
chứng biết cho con;
con sẽ tuyên dương
chánh pháp đại thừa,
hóa độ giải thoát
chúng sinh đau khổ.

Lúc ấy tôn giả Xá lợi phất nói với long nữ, thiện nữ nói thành đạt mau chóng tuệ giác vô thượng, việc ấy thật khó tin. Tại sao, vì thân thể nữ nhân dơ bẩn, không phải là vật dụng chứa đựng chánh pháp, thiện nữ làm sao mà thành được tuệ giác vô thượng ẩ Trong khi tuệ giác vô thượng của Phật thì xa xôi, mênh mông, trải qua vô số thời kỳ, siêng và khổ mà tích lũy công hạnh, thực hành đủ hết các pháp ba la mật, sau đó mới hoàn thành. Huống chi thân thể nữ nhân còn có năm sự bị cản trở, ấy là không được làm Phạn vương, Đế thích, Ma vương, Luân vương và Phật thân. Như vậy thân thể thiện nữ làm sao thành Phật, mà lại thành Phật mau chóng? Long nữ có một viên ngọc quí, giá bằng cả đại thiên thế giới. Bấy giờ long nữ hai tay nâng viên ngọc ấy hiến lên đức Thế tôn. Đức Thế tôn nhận liền. Long nữ thưa bồ tát Trí tích và tôn giả Xá lợi phất, con hiến ngọc quí, đức Thế tôn nhận cho con, việc này mau chóng không? Rất mau chóng; hai ngài trả lời như vậy. Long nữ thưa, đem thần lực của các ngài nhìn sự thành Phật của con, thì sự ấy còn mau hơn việc này. Tức thì toàn thể đại hội các chúng lúc ấy cùng thấy, trong khoảnh khắc đột nhiên, long nữ biến thành nam tử, đầy đủ phong cách bồ tát, lướt qua thế giới hệ Vô cấu ở hướng nam, ngồi trên đài sen quí báu, thành bậc Biết đúng và khắp, với cái thân đủ hết ba mươi hai tướng quí và tám mươi vẻ đẹp, tuyên thuyết chánh pháp tinh túy cho chúng sinh mười phương. Tại quốc độ Kham nhẫn này, các vị bồ tát, các vị thanh văn, tám bộ thiên long, tất cả nhân loại và loài khác, từ xa thấy sự thành Phật và thuyết pháp của long nữ thì tâm thần người nào cũng rất hoan hỷ, vọng xa mà lạy. Thế giới hệ Vô cấu thì vô lượng chúng sinh nghe pháp đều lý giải, tỏ ngộ, được sự không thoái chuyển, vô lượng chúng sinh nữa được nhận sự thọ ký về tuệ giác vô thượng, và thế giới hệ ấy chấn động đủ cả sáu cách. Thế giới hệ Kham nhẫn thì ba ngàn người đứng vào vị trí không thoái chuyển, ba ngàn người nữa phát triển tuệ giác vô thượng và được nhận sự thọ ký về tuệ giác ấy. Bồ tát Trí tích, tôn giả Xá lợi phất, và cả đại hội các chúng, đều yên lặng mà tin nhận.

Phẩm 13: Kinh Giữ Pháp Hoa (170) [^]

Lúc ấy Dược vương đại sĩ, Đại lạc thuyết đại sĩ, và hai vạn bồ tát tùy thuộc, cùng đối trước đức Thế tôn mà phát nguyện như vầy: Kính xin đức Thế tôn đừng lo nghĩ. Sau khi đức Thế tôn nhập niết bàn, chúng con nguyện kính giữ Pháp hoa bằng cách đọc tụng, giảng giải... Con người trong thời kỳ dữ dội sau này gốc rễ điều lành thì ít dần, sự tăng thượng mạn thì nhiều lên, ham hố danh lợi và sự hiến cúng, tăng thêm bất thiện, tách xa giải thoát. Tuy khó giáo hóa, chúng con vẫn nổi dậy sức mạnh của sự ẩn nhẫn lớn lao mà kính giữ Pháp hoa bằng cách đọc tụng, giảng giải, sao chép, hiến cúng... Chúng con không tiếc nuối thân mạng của chúng con trong việc kính giữ Pháp hoa.

Trong đại hội, năm trăm vị La hán đã được thọ ký, lúc ấy cũng thưa, bạch đức Thế tôn, chúng con cũng tự nguyện ở trong các quốc độ khác mà diễn giảng rộng rãi về kinh Pháp hoa. Tám ngàn vị tu học tiếp tục và tu học hoàn tất đã được thọ ký cũng từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay hướng về đức Thế tôn, thệ nguyện như vầy: Bạch đức Thế tôn, chúng con cũng sẽ ở tại các quốc độ khác mà diễn giảng rộng rãi về kinh Pháp hoa. Tại sao, vì trong quốc độ Kham nhẫn này con người phần nhiều tàn tệ độc ác, thượng mạn đầy lòng, công đức mỏng mảnh, giận ghét, dua nịnh, tâm không chắc thật.

Lúc ấy di mẫu của đức Thế tôn là tỷ kheo ni Đại thắng sinh chủ, cùng sáu ngàn vị tỷ kheo ni tu học tiếp tục và tu học hoàn tất, cũng đứng dậy khỏi chỗ mình ngồi, chuyên chú chắp tay mà chiêm ngưỡng đức Thế tôn, mắt không rời ngài một thoáng. Đức Thế tôn bảo, Đại thắng sinh chủ, tại sao bà nhìn Như lai với vẻ ưu tư? Bà nghĩ rằng Như lai không gọi tên bà mà trao cho lời ghi về tuệ giác vô thượng chăng? Đại thắng sinh chủ, trước đây Như lai đã nói tổng quát, rằng hết thảy thanh văn đều được thọ ký. Nay bà muốn biết sự thọ ký ấy thì, vị lai, trong chánh pháp của sáu vạn tám ngàn ức chư Phật, bà sẽ làm nhà diễn giảng vĩ đại, sáu ngàn tỷ kheo ni tu học tiếp tục và tu học hoàn tất cũng làm những nhà diễn giảng, và bằng cách này mà bà hoàn thiện một cách đều đặn đường đi của bồ tát, trở thành một đức Phật đà với danh hiệu Nhất thế chúng sinh hỷ kiến như lai, đủ mười đức hiệu. Đại thắng sinh chủ, đức Nhất thế chúng sinh hỷ kiến như lai sẽ cùng sáu ngàn bồ tát tuần tự thọ ký cho nhau mà thành tựu tuệ giác vô thượng.

Bấy giờ thân mẫu của tôn giả La hầu la là tỷ kheo ni Trì dự, nghĩ rằng, trong sự thọ ký này đức Thế tôn đặc biệt không đề cập đến ta. Biết rõ ý nghĩ ấy nên đức Thế tôn bảo, Trì dự, vị lai, bà sẽ ở trong chánh pháp của trăm ngàn vạn ức chư Phật mà làm việc làm của bồ tát, bằng cách cũng làm nhà diễn giảng vĩ đại, đều đặn và hoàn tất đường đi của Phật, rồi được thành Phật tại cõi Thiện quốc (171) , với danh hiệu Cụ túc thiên vạn quang tướng như lai, đủ mười đức hiệu, sống lâu đến vô lượng thời kỳ vô số.

Tỷ kheo ni Đại thắng sinh chủ, tỷ kheo ni Trì dự, cùng những người tùy thuộc, bấy giờ ai cũng hoan hỉ cùng cực, có được sự chưa từng có, tức thì đối trước đức Thế tôn mà thưa ngài với lời chỉnh cú này.

(1) Bạch đức Thế tôn,
bậc thầy lãnh đạo
đem lại an ủi
cho cả trời người!
Chúng con được nghe
lời ghi làm Phật,
trong lòng ổn định
thỏa mãn hoàn toàn.

Chư vị tỷ kheo ni thưa lời chỉnh cú ấy rồi lại nói, bạch đức Thế tôn, chúng con cũng có thể ở các quốc độ khác mà tuyên thuyết rộng rãi về kinh Pháp hoa.

Khi ấy đức Thế tôn nhìn vào tám chục vạn ức trăm triệu bồ tát đại sĩ. Các vị này toàn là những bậc Không thoái chuyển, có thể chuyển đẩy bánh xe chánh pháp Không thoái chuyển bằng các pháp tổng trì mà các vị đã được hoàn thiện. Khi đức Thế tôn nhìn vào, các vị liền đứng dậy khỏi chỗ mình ngồi, đến trước ngài, tập trung tâm trí, chắp hai tay lại, suy nghĩ như vầy: Nếu đức Thế tôn phán bảo chúng ta duy trì và công bố Pháp hoa, thì chúng ta sẽ làm đúng như lời ngài mà tuyên thuyết phong phú về kinh pháp ấy. Các vị lại nghĩ: Nhưng đức Thế tôn yên lặng mà không phán bảo, vậy chúng ta phải làm gì? Kính thuận tình ý của đức Thế tôn, lại muốn viên mãn tâm nguyện của mình, nên các vị đối trước ngài, cất tiếng nói uy dũng như tiếng sư tử gầm mà phát nguyện như vầy: Bạch đức Thế tôn, sau khi ngài nhập diệt, chúng con sẽ qua lại mười phương thế giới, đem hết năng lực mà làm cho chúng sinh, đối với kinh Pháp hoa, biết sao chép ấn hành, tiếp nhận ghi nhớ, đọc xét văn nghĩa, tụng được thuộc lòng, giảng giải ý nghĩa, làm đúng kinh dạy, nhớ nghĩ chính xác... Chúng con làm được như vậy toàn là nhờ uy lực của đức Thế tôn. Kính xin đức Thế tôn dẫu ở quốc độ khác cũng vẫn chăm sóc che chở cho chúng con. Các vị đồng thanh mà nói những lời chỉnh cú sau đây.

(2) Kính xin Thế tôn
khỏi phải lo nghĩ.
Sau khi Thế tôn
nhập niết bàn rồi,
ở trong thời kỳ
khủng bố tàn ác,
chúng con thệ nguyện
sẽ cùng tuyên thuyết
một cách phong phú
về kinh Pháp hoa.
(3) Những kẻ vô trí
độc miệng chưởi mắng,
sử dụng dao gậy
hành hung chúng con,
chúng con cũng nguyện
ẩn nhẫn hết thảy.
(4) Thời ác có kẻ
tự xưng tỷ kheo,
nhưng trí thì lầm
mà tâm lại dối,
chưa thật được gì
tự bảo là được,
cả người tràn ngập
tâm lý ngã mạn.
(5) Hoặc xưng lan nhã
quấn tấm vải vá
ở chỗ trống vắng,
tự cho mình làm
đạo hạnh chân thật,
khinh thị nhân gian.
(6) Hoặc vì tham lam
quan tâm lợi lộc,
họ bày thuyết pháp
cho người trần thế,
được người trần thế
kính như tôn kính
một vị La hán
đủ sáu thần thông.
(7) Những người như vậy
ôm giữ lòng ác,
thường xuyên nghĩ đến
những việc trần tục,
giả danh là kẻ
tu hạnh lan nhã
mà chỉ ưa thích
chỉ trích chúng con.
(8) Họ tuyên ngôn rằng
những tỷ kheo này
vì ham lợi lộc
nói thuyết ngoại đạo.
(9) Ngụy tạo kinh sách,
họ lừa thế nhân.
Và vì danh lợi,
họ cũng bày ra
diễn giảng Pháp hoa,
ở giữa công chúng
thường chê chúng con
lấy thuyết của họ.
(10) Họ lại đi đến
quốc vương, đại thần,
đến bà la môn,
đến các cư sĩ
và tỷ kheo khác,
phỉ báng chúng con.
(11) Họ bảo chúng con
là kẻ tà kiến
diễn giảng lý thuyết
các phái ngoại đạo.
Kính thuận Thế tôn,
cho nên chúng con
ẩn nhẫn tất cả
tệ ác như vậy.
(12) Bị họ mai mỉa
bằng cách nói rằng
các người toàn là
Phật đà cả đó!
Khinh ngạo đến thế
chúng con cũng nhẫn.
(13) Thời kỳ khủng khiếp
lắm kẻ đáng sợ,
quỉ dữ nhập vào
thân tâm của họ,
nên họ thóa mạ
hạ nhục chúng con.
(14) Thế nhưng chúng con
kính tin Thế tôn,
nên mặc áo giáp
của sự nhẫn nhục,
nhẫn hết bao nhiêu
khó khăn tai nạn
để mà tuyên thuyết
Diệu pháp liên hoa.
(15) Chúng con không tiếc
tính mạng chúng con,
chúng con chỉ tiếc
đạo pháp vô thượng.
Nên chúng con nguyện
trong thì vị lai
kính giữ Pháp hoa
Thế tôn ký thác (172) .
(16) Như đức Thế tôn
tự biết quá rõ,
trong thời vẩn đục
tỷ kheo bất hảo
đâu có thấu hiểu
về cách phương tiện
tùy nghi thuyết pháp
của đức Thế tôn.
(17) Miệng dữ, mặt cáu,
họ đuổi chúng con
ra khỏi chùa chiền:
tàn tệ đến thế.
(18) Chúng con nhớ lời
Thế tôn phán dạy,
ẩn nhẫn tất cả
sự tình như vậy.
(19) Thôn xóm thị thành
có ai cầu pháp,
chúng con cũng đến
mà nói cho họ
cái pháp Thế tôn
đã đem ký thác.
(20) Là những sứ giả
của đức Thế tôn,
chúng con không sợ
ở giữa công chúng.
Chúng con sẽ khéo
tuyên thuyết Pháp hoa,
và cùng thỉnh nguyện
Thế tôn yên tâm.
(21) Trước đức Thế tôn
trước đức Đa bảo
và chư Phật đà
đến từ mười phương,
chúng con ngày nay
thệ nguyện như vậy,
nguyện xin các ngài
biết cho chúng con.

Chân thành cảm ơn quý cư sĩ Nguyễn Văn Củng, Đoàn Viết Hiệp và Nguyễn Anh Tuấn đã phát tâm chuyển tác phẩm này từ dạng Help File, VPS font sang dạng Word, VNI font. Thích Nhật Từ 3-5-2000


Phần | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 |

 


Cập nhật: 3-6-2000

Trở về thư mục "Kinh điển"

Đầu trang