Trang tiếng Anh

      Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt

   

...... ... .  . .  .  .
Kinh Ánh Sáng Hoàng Kim
(Kim quang minh tối thắng vương kinh)
bản Hoa dịch của ngài Nghĩa tịnh
HT. Thích Trí Quang dịch giải

Phần 2


Phẩm 1: Mở Đầu Pháp Thọai [^]

Tôi nghe như vầy. Một thời đức Thế tôn, tại đỉnh Thứu phong thuộc thành Vương xá, Ngài ở nơi pháp giới rất trong sáng, rất sâu xa. Pháp giới ấy là lĩnh vực của Phật đà, là trú xứ của Thế tôn.

Bấy giờ chúng đại bí sô có chín mươi tám ngàn vị, toàn là a la hán; khéo tự thuần hóa, in như voi chúa; sơ hở đã hết, không còn phiền não; tâm khéo giải thoát, tuệ khéo giải thoát; việc làm hoàn tất, bỏ mọi gánh nặng; đạt đến tự lợi, hết sạch kiết sử; được đại tự tại, ở trong tịnh giới; phương tiện khéo léo, tuệ giác trang nghiêm; được tám giải thoát, đến bờ bên kia. Danh hiệu các vị là cụ thọ A nhã kiều trần như, cụ thọ A thuyết thị đa, cụ thọ Bà thấp ba, cụ thọ Ma ha na ma, cụ thọ Bà đế lị ca, tôn giả Đại ca nhiếp ba, tôn giả Ưu lâu tần loa ca nhiếp, tôn giả Dà da ca nhiếp, tôn giả Na đề ca nhiếp, tôn giả Xá lị tử, tôn giả Đại mục kiền liên, tôn giả A nan đà, người ở vị trí đang còn tu học. Các vị đại thanh văn như vậy, sau lúc quá trưa cùng xuất định, đến chỗ đức Thế tôn, đảnh lễ ngang chân Ngài, đi quanh Ngài ba vòng theo chiều bên phải, rồi lui ra cùng ngồi một phía.

Chúng đại bồ tát trăm ngàn vạn ức vị, có uy đức lớn, như đại long vương; tiếng khen vang khắp, ai cũng biết đến; thường thích phụng hành tịnh thí tịnh giới; nhẫn nhục tinh tiến qua vô số kiếp; vượt mọi thiền định, tâm ở trước mắt; mở cửa tuệ giác, thiện dụng phương tiện; tự tại du hành thần thông vi diệu; thành đạt tổng trì, hùng biện vô tận; cắt đứt phiền não, hệ lụy không còn; đã gần thành đạt trí tuệ toàn giác; chế ngự ngoại đạo cho sinh tịnh tâm; chuyển đẩy pháp luân, hóa độ người trời; mười phương cõi Phật đều trang hoàng cả; sáu nẻo hữu tình đều nhờ ích lợi; thành tựu đại trí, viên mãn đại nhẫn; có tâm đại từ bi, có lực đại kiên cố; phụng sự chư Phật, không nhập niết bàn; phát nguyện rộng lớn, cùng tận vị lai; nơi các đức Phật trồng sâu tịnh nhân; cả ba thì gian ngộ vô sinh nhẫn; vượt qua lĩnh vực nhị thừa bước đi; đem đại thiện phương tiện mà hóa đạo thế giới; phu diễn được hết giáo huấn của Phật; với đạo lý Không sâu xa bí mật, đều thấu triệt cả không còn nghi hoặc. Danh hiệu các vị là bồ tát Vô chướng ngại chuyển pháp luân, bồ tát Thường phát tâm chuyển pháp luân, bồ tát Thường tinh tiến, bồ tát Bất hưu tức, bồ tát Từ thị, bồ tát Diệu cát tường, bồ tát Quan tự tại, bồ tát Tổng trì tự tại vương, bồ tát Đại biện trang nghiêm vương, bồ tát Diệu cao sơn vương, bồ tát Đại hải thâm vương, bồ tát Bảo tràng, bồ tát Đại bảo tràng, bồ tát Địa tạng, bồ tát Hư không tạng, bồ tát Bảo thủ tự tại, bồ tát Kim cang thủ, bồ tát Hoan hỷ lực, bồ tát Đại pháp lực, bồ tát Đại trang nghiêm quang, bồ tát Đại kim quang trang nghiêm, bồ tát Tịnh giới, bồ tát Thường định, bồ tát Cực thanh tịnh tuệ, bồ tát Kiên cố tinh tiến, bồ tát Tâm như hư không, bồ tát Bất đoạn đại nguyện, bồ tát Thí dược, bồ tát Liệu chư phiền não bịnh, bồ tát Y vương, bồ tát Hoan hỷ cao vương, bồ tát Đắc thượng thọ ký, bồ tát Đại vân tịnh quang, bồ tát Đại vân trì pháp, bồ tát Đại vân danh xưng hỷ lạc, bồ tát Đại vân hiện vô biên xưng, bồ tát Đại vân sư tử hống, bồ tát Đại vân ngưu vương hống, bồ tát Đại vân cát tường, bồ tát Đại vân bảo đức, bồ tát Đại vân nhật tạng, bồ tát Đại vân nguyệt tạng, bồ tát Đại vân tinh quang, bồ tát Đại vân hỏa quang, bồ tát Đại vân điện quang, bồ tát Đại vân lôi âm, bồ tát Đại vân tuệ vũ sung biến, bồ tát Đại vân thanh tịnh vũ vương, bồ tát Đại vân hoa thọ vương, bồ tát Đại vân thanh liên hoa hương, bồ tát Đại vân bảo chiên đàn hương thanh lương thân, bồ tát Đại vân trừ ám, bồ tát Đại vân phá ế. Các vị đại bồ tát như vậy, sau lúc quá trưa cùng xuất định, đến chỗ đức Thế tôn, đảnh lễ ngang chân Ngài, đi quanh Ngài ba vòng theo chiều bên phải, rồi lui ra cùng ngồi một phía.

Lại có năm trăm tám ngàn đồng tử Lê xa tì, tên là đồng tử Sư tử quang, đồng tử Sư tử tuệ, đồng tử Pháp thọ, đồng tử Nhân đà ra thọ, đồng tử Đại quang, đồng tử Đại mãnh, đồng tử Phật hộ, đồng tử Pháp hộ, đồng tử Tăng hộ, đồng tử Kim cang hộ, đồng tử Hư không hộ, đồng tử Hư không hống, đồng tử Bảo tạng, đồng tử Cát tường diệu tạng. Những đồng tử như vậy làm người đứng đầu. Họ cùng đứng vững nơi vô thượng giác, thâm tín vui thích đối với đại thừa. Sau lúc quá trưa họ đến chỗ đức Thế tôn, đảnh lễ ngang chân Ngài, đi quanh Ngài ba vòng theo chiều bên phải, rồi lui ra cùng ngồi một phía. Có bốn mươi hai ngàn thiên tử, tên là thiên tử Hỷ kiến, thiên tử Hỷ duyệt, thiên tử Nhật quang, thiên tử Nguyệt kế, thiên tử Minh tuệ, thiên tử Hư không tịnh tuệ, thiên tử Trừ phiền não, thiên tử Cát tường. Những thiên tử như vậy làm người đứng đầu. Họ phát đại nguyện hộ vệ đại thừa, làm cho chánh pháp rực rỡ liên tục. Sau lúc quá trưa, họ đến chỗ đức Thế tôn, đảnh lễ ngang chân Ngài, đi quanh Ngài ba vòng theo chiều bên phải, rồi lui ra cùng ngồi một phía. Có hai mươi tám ngàn long vương, long vương Liên hoa, long vương EÁ la diệp, long vương Đại lực, long vương Đại hống, long vương Tiểu ba, long vương Trì sử thủy, long vương Kim diện, long vương Như ý. Những long vương như vậy làm người đứng đầu. Họ thường thích nhớ chánh pháp đại thừa, tin tưởng sâu xa, tán dương duy trì. Sau lúc quá trưa, họ đến chỗ đức Thế tôn, đảnh lễ ngang chân Ngài, đi quanh Ngài ba vòng theo chiều bên phải, rồi lui ra cùng ngồi một phía. Có ba mươi sáu ngàn Dược xoa, đứng đầu bởi Tì sa môn thiên vương, tên của họ là dược xoa Yêm bà, dược xoa Trì yêm bà, dược xoa Liên hoa quang tạng, dược xoa Liên hoa diện, dược xoa Tần mi, dược xoa Hiện đại bố, dược xoa Động địa, dược xoa Thôn thực. Những dược xoa như vậy ưa thích chánh pháp của đức Thế tôn, chân thành duy trì, không hề giải đãi. Sau lúc quá trưa, họ đến chỗ đức Thế tôn, đảnh lễ ngang chân Ngài, đi quanh Ngài ba vòng theo chiều bên phải, rồi lui ra cùng ngồi một phía. Có bốn mươi chín ngàn yết lộ trà vương, đứng đầu bởi Hương tượng thế lực vương; có kiền thát bà, a tô la, khẩn na la, mạc hô lạc dà, vân vân; có các thần tiên rừng núi sông biển; có quốc vương của các quốc gia lớn, được tháp tùng bởi hoàng hậu hoàng phi; có nam nữ đức tin trong sáng. Các chúng nhân loại và chư thiên cùng đến vân tập, cùng nguyện hộ vệ đại thừa tối thượng, đọc xét văn nghĩa, tụng tập thuộc lòng, học hỏi tiếp nhận, nắm giữ trong trí, sao chép lưu thông (2) . Sau lúc quá trưa, họ đến chỗ đức Thế tôn, đảnh lễ ngang chân Ngài, đi quanh Ngài ba vòng theo chiều phải, rồi lui ra cùng ngồi mỗi chúng một phía.

Đại hội như vậy, bao gồm thanh văn, bồ tát, nhân loại, chư thiên, tám bộ long thần, vân tập cả rồi, ai cũng nhất tâm, chắp tay cung kính, chiêm ngưỡng Thế tôn, mắt không rời Ngài. Họ thích thú muốn nghe chánh pháp siêu việt, nhiệm mầu.

Lúc ấy đức Thế tôn, sau lúc quá trưa, xuất khỏi thiền định, quan sát đại hội mà nói những lời chỉnh chú sau đây.

(1) Ánh sáng hoàng kim,
bản kinh nhiệm mầu,
siêu việt hơn hết,
vua của các kinh.
Kinh ấy rất sâu,
khó mà được nghe;
kinh ấy chính là
lĩnh vực của Phật.
(2- 3) Như lai ngày nay
sẽ tuyên thuyết đến
bản kinh như vậy
cho cả đại hội.
Hướng đông có đức
A súc như lai,
hướng nam có đức
Bảo tướng như lai,
Như lai hướng tây
là Vô lượng thọ,
Như lai hướng bắc
là Thiên cổ âm,
bốn đức Như lai
bốn hướng như vậy
cùng đem uy thần
hộ trì kinh này.
(4) Như lai sẽ nói
pháp mầu sám hối,
pháp ấy cát tường
pháp ấy thù thắng.
Năng lực pháp ấy
diệt mọi tội ác,
loại trừ sạch sẽ
những hành vi ác,
(5) tiêu tan mọi nỗi
khổ não tai họa,
thường xuyên đem lại
yên vui khó lường.
Căn bản pháp ấy
là nhất thế trí,
và được trang hoàng
bởi bao phẩm chất.
(6) Những ai cơ thể
không được hoàn hảo,
đời sống sắp sửa
đi đến hủy diệt,
những sự đáng sợ
đã biến hiện ra,
chư thiên thiện thần
cùng lánh xa cả.
(7) Thân hữu tức giận,
thân quyến phân ly,
mọi phía chống nhau,
sản vật tan tác,
(8) ác tinh tác quái,
tà độc xâm phạm,
ưu sầu quá nhiều,
khổ não lại ép,
(9) ngủ nghỉ ác mộng
từ đó phiền não.
Người ấy phải nên
tắm rửa sạch sẽ,
và mặc y phục
sạch sẽ tinh khiết.
(10) Đối với kinh này
bản kinh mầu nhiệm,
rất mực sâu xa
Như lai ca tụng,
hãy nên chuyên chú
lòng không tán loạn,
nghiên cứu, tụng thuộc,
lắng nghe, tiếp nhận,
nắm giữ trong trí
chuyên tâm phụng trì.
(11) Thì nhờ uy lực
của kinh pháp này
mà được tách rời
mọi sự tai họa,
bao nỗi khổ sở
cùng trừ diệt cả.
(12) Bốn vị thiên vương
hộ vệ thế giới,
cùng với đại thần
tùy thuộc của họ,
vô lượng dược xoa
nhất tâm hộ vệ.
(13 - 14) Lại có thiên nữ
tên Đại biện tài,
thần sông Ni liên,
thần mẹ Ha lị,
địa thần Kiên lao,
Phạn vương, Đế thích,
cùng với long vương,
và khẩn na la,
kim sí điểu vương,
tu la, chư thiên.
(15) Bao nhiêu chư thiên
thần chúng như vầy
ai cũng đem theo
tùy tùng của mình,
cùng đến hộ vệ
cho người như vậy,
cả ngày liền đêm
thường không tách rời
(16) Như lai sẽ nói
về kinh pháp này,
bản kinh rất sâu,
chỗ Như lai đi,
và là mật giáo
của chư Như lai,
ngàn vạn đời kiếp
khó mà gặp được.
(17) Ai nghe kinh này,
đem nói cho người,
hay sinh tùy hỷ
hoặc thiết cúng phẩm,
(18) thì người như vậy
sẽ vô lượng kiếp
được các thiên nhân
long thần kính trọng.
(19) Cái khối phước đức
nhiều hơn hằng sa,
nghiên cứu, tụng thuộc
kinh pháp như vầy,
thì sẽ có được
khối phước đức ấy,
(20) được chư Thế tôn
khắp trong mười phương,
được chư Bồ tát
tu hành sâu xa,
cùng hộ trì cho
tách rời khổ nạn.
(21) Hiến cúng kinh này
thì như đã nói
tắm rửa sạch sẽ,
phụng hiến hoa hương,
khởi ý từ bi
vì người phụng hiến.
(22) Muốn nghe kinh này
tâm phải sạch sẽ,
thường sinh hoan hỷ
lớn thêm công đức.
(23) Đem lòng tôn trọng
mà nghe kinh này,
thì thế chính là
khéo làm thân người,
rời xa mọi nỗi
khổ não tai nạn.
(24) Kẻ ấy thiện căn
đã là thuần thục,
được chư Như lai
cùng nhau ca tụng,
mới nghe kinh này
và sám pháp này.

 

Phaa>m 2: Thọ Lượng Thế Tôn [^]

Trong thành Vương xá có vị bồ tát tên Diệu tràng (3) , đã ở nơi quá khứ vô lượng chư Phật phụng sự, hiến cúng, trồng các thiện căn. Bấy giờ bồ tát Diệu tràng một mình ở chỗ thanh vắng, nghĩ rằng, vì lý do nào mà đức Thích ca thế tôn thọ lượng ngắn ngủi, chỉ tám mươi năm. Lại nghĩ, như đức Thế tôn dạy, có hai lý do được thọ lượng lâu dài. Hai lý do ấy là gì, một là không hại sinh mạng, hai là hiến cho ẩm thực. Mà đức Thích ca thế tôn thì đã vô số đại kiếp không hại sinh mạng, làm mười thiện nghiệp; lại thường đem ẩm thực hiến cho chúng sinh đói khát, thậm chí máu thịt xương tủy của mình cũng đem mà cho, huống chỉ ẩm thực.

Khi bồ tát Diệu tràng nghĩ về đức Thế tôn như vậy thì, do uy lực của Ngài, phòng ông bỗng nhiên rộng lớn, đẹp và sạch, với những thứ ngọc đế thanh lưu ly màu sắc xen nhau mà trang hoàng, in như tịnh độ của chư Phật. Có hơi thơm tuyệt diệu, quá hơn hương liệu chư thiên, thơm tho khắp cả. Bốn phía phòng ấy có bốn bảo tọa sư tử, thượng hạng và tinh hảo, được tạo thành bởi bốn loại ngọc. Ở trên bảo tọa trải vải quí của chư thiên. Bốn bảo tọa đều xuất hiện hoa sen tuyệt diệu, trang sức bằng những thứ ngọc quí, tầm cỡ tương xứng với các đức Thế tôn. Trên bốn hoa sen có bốn đức Thế tôn: Bất động thế tôn ở phương đông, Bảo tướng thế tôn ở phương nam, Vô lượng thọ thế tôn ở phương tây, Thiên cổ âm thế tôn ở phương bắc. Mỗi đức Thế tôn cùng ngồi xếp bằng trên một bảo tọa, phóng ánh sáng lớn chiếu rực cả thành Vương xá, cả đại thiên thế giới, cả mười phương hằng sa cõi Phật. Thiên hoa mưa xuống, thiên nhạc tấu lên. Bấy giờ trong Thiệm bộ châu và đại thiên thế giới, bao nhiêu chúng sinh đều nhờ uy lực của chư vị Thế tôn mà hưởng được cái vui siêu việt, tinh tế, không thiếu gì cả. Ai cơ thể bất toàn thì toàn hảo. Ai mù thì thấy đuợc. Ai điếc thì nghe được. Ai ngọng thì nói được. Ai ngu thì khôn. Ai điên thì tỉnh. Ai rách rưới thì được y phục. Ai bị khinh ghét thì được kính trọng. Ai dơ bẩn thì được thanh khiết. Thế giới này, bao chuyện hiếm có đều diễn ra.

Bấy giờ bồ tát Diệu tràng thấy bốn đức Thế tôn và bao điều hiếm có thì vui mừng hết sức, chắp tay, nhất tâm, chiêm ngưỡng tướng hảo thù thắng của các Ngài. Bồ tát lại nghĩ đến công đức vô lượng của đức Thích ca thế tôn, chỉ hoài nghi về thọ lượng của Ngài, rằng tại sao Thế tôn công đức vô lượng mà thọ lượng ngắn ngủi, chỉ có tám thập kỷ? Lúc ấy bốn đức Thế tôn bảo bồ tát Diệu tràng, thiện nam tử, ông không nên nghĩ Thích ca như lai thọ lượng dài ngắn. Tại sao? Vì, thiện nam tử, chư Như lai không thấy chư thiên, nhân loại, phạn vương, ma vương, sa môn, bà la môn, tất cả nhân loại và phi nhân loại, có ai tính mà biết được giới hạn thọ lượng của đức Thích ca như lai, trừ ra các bậc Vô thượng biến giác. Bốn đức Thế tôn muốn nói thọ lượng của đức Thích ca thế tôn. Do uy lực của các Ngài, chư thiên cõi Dục và cõi Sắc, tám bộ long thần, vô số bồ tát cùng đến vân tập trong cái phòng tuyệt diệu của bồ tát Diệu tràng. Đối với đại hội như vậy, bốn đức Thế tôn muốn hiển thị thọ lượng của đức Thích ca thế tôn nên nói những lời chỉnh cú sau đây.

(1) Biết được số giọt
nước các biển cả,
mà không thể biết
thọ lượng Thích tôn.
(2) Nghiền núi Tu di
thành những hạt cải,
số hạt cải ấy
có thể biết được,
mà không biết được
thọ lượng Thích tôn.
(3) Có thể biết được
số bụi đại địa,
không thể đếm biết
thọ lượng Thích tôn.
(4) Lường tính không gian
biết được biên tế,
mà không lường nổi
thọ lượng Thích tôn.
(5) Nếu ai sống đến
trăm ngàn đời kiếp,
tận lực thường xuyên
dùng toán mà tính,
cũng không biết được
thọ lượng Thích tôn.
(6) Không hại sinh mạng,
hiến cho ẩm thực,
chính do hai loại
diệu nhân như vậy
làm cho đạt được
thọ lượng lâu dài.
(7) Do đó thọ lượng
của bậc Đại giác
khó có người nào
biết được số lượng.
Tựa như thì gian (4)
vô cùng vô tận,
thọ lượng Thích tôn
cũng y như thế.
(8) Diệu tràng, nên biết:
không nên hoài nghi;
thọ lượng các đấng
Siêu việt bậc nhất,
không một người nào
biết được số lượng.

Lúc ấy bồ tát Diệu tràng nghe bốn đức Thế tôn nói thọ lượng bất tận của đức Thích ca thế tôn, thì tác bạch như vầy, kính bạch chư vị Thế tôn, tại sao đức Thích ca thế tôn thị hiện thọ lượng ngắn ngủi? Bốn đức Thế tôn dạy bồ tát Diệu tràng, thiện nam tử, khi đức Thích ca thế tôn xuất hiện trong giai đoạn đủ cả năm thứ dơ bẩn, thì thọ lượng nhân loại chỉ trên dưới bách kỷ, bẩm tính thấp hèn, thiện căn kém mỏng, không tin hiểu gì. Nhân loại như vậy đa số quan niệm bản ngã, quan niệm sinh thể, quan niệm linh hồn; quan niệm tồn tại -- những quan niệm bồi dưỡng, quan niệm sai lầm -- quan niệm bản ngã và sở hữu của bản ngã, quan niệm vĩnh hằng, quan niệm hư vô (5) . Để lợi ích cho những kẻ dị sinh và dị giáo như vậy, làm cho họ phát sinh lý giải chính xác, mau chóng đạt đến tuệ giác tối thượng, nên đức Thích ca như lai thị hiện thọ lượng ngắn ngủi. Thiện nam tử, đức Thích ca như lai muốn làm cho chúng sinh thấy Ngài niết bàn để sinh ý tưởng khó gặp, ý tưởng lo lắng; đối với kinh pháp Ngài nói, họ lo cấp tốc tiếp nhận, ghi nhớ, cứu xét, tụng thuộc cho thông suốt, đem nói cho người, không hề khinh thường. Vì muốn như vậy mà đức Thích ca như lai thị hiện thọ lượng ngắn ngủi. Lý do ở đây là, chúng sinh như đã nói ở trước, nếu thấy đức Thích ca như lai không nhập niết bàn, thì không có ý tưởng kính trọng, khó gặp; đối với kinh pháp sâu xa mà Ngài tuyên thuyết cũng không lo tiếp nhận, ghi nhớ, cứu xét, tụng thuộc cho thông suốt, và đem nói cho người. Tại sao như vậy, vì thường xuyên thấy Phật thì không kính trọng nữa. Thiện nam tử, ví như có kẻ thấy cha mẹ mình có lắm của cải vàng ngọc thì, đối với tài sản ấy, người con không sinh ý tưởng hiếm có, khó gặp, tại sao, vì đối với cha mẹ, và tài sản của cha mẹ, người con có ý tưởng còn mãi. Thiện nam tử, chúng sinh kia cũng vậy, nếu thấy đức Thích ca như lai không nhập niết bàn thì không sinh ý tưởng hiếm có, khó gặp, lý do là vì thường thấy. Thiện nam tử, ví như có kẻ cha mẹ nghèo nàn, thiếu thốn tài sản, người con nghèo thiếu đến cung vua chúa hay đến dinh đại thần, thấy tài sản tràn đầy, thì sinh ý tưởng hiếm có, khó gặp. Người con này muốn có tài sản nên làm lụng đủ cách, siêng năng không nhác, lý do là để hết nghèo nàn, hưởng an lạc. Thiện nam tử, chúng sinh kia cũng vậy, nếu thấy đức Thích ca như lai nhập vào niết bàn mới có ý tưởng khó gặp, ý tưởng lo lắng. Họ nghĩ, vô số kiếp Phật mới xuất hiện, như hoa ô đàm lâu lắm mới có một lần. Nghĩ vậy nên họ có ý tưởng hiếm có, ý tưởng khó gặp. Và gặp Phật thì tôn kính, tin tưởng, nghe Ngài thuyết pháp thì có ý tưởng nói thật, bao nhiêu kinh pháp đều tiếp nhận, ghi nhớ, chớ không khinh thường. Thiện nam tử, vì lý do đã nói trên đây mà đức Thích ca như lai không ở đời lâu dài, niết bàn mau chóng. Thiện nam tử, như thế đó, chư vị Như lai áp dụng phương tiện khéo léo mà tác thành chúng sinh. Nói như vậy rồi, bốn đức Thế tôn bỗng nhiên ẩn mất.

Bấy giờ bồ tát Diệu tràng cùng với vô lượng bồ tát, và vô số chúng sinh, cùng nhau đi đến trên đỉnh Thứu phong, chỗ đức Thích ca thế tôn, đảnh lễ ngang chân Ngài rồi đứng qua một bên. Bồ tát Diệu tràng đem sự thể trên đây trình bạch đầy đủ với đức Thế tôn. Lúc ấy bốn đức Thế tôn cũng đã đến Thứu phong, chỗ đức Thích ca thế tôn. Tùy phương hướng của mình, các Ngài đến bảo tọa mà ngồi, rồi bảo vị bồ tát thị giả, rằng thiện nam tử, ông hãy đến chỗ đức Thích ca như lai, thay lời Như lailời Như lai mà vấn an Ngài, rằng Ngài ít bịnh ít phiền, cử động linh hoạt, sống yên vui chăng. Ông lại tác bạch như vầy: Lành thay đức Thế tôn, xin Ngài nay có thể tuyên thuyết kinh Ánh sáng hoàng kim, pháp yếu cực sâu, để lợi ích chúng sinh, loại bỏ đói khát, làm cho yên vui. Đức Thế tôn của con xin tùy hỷ việc này. Các vị thị giả cùng đến chỗ đức Thích ca thế tôn, đảnh lễ hai chân của Ngài, rồi đứng qua một bên, cùng tác bạch rằng, bạch đức Thế tôn, đức Thầy trời người của chúng con vấn an vô lượng, rằng Ngài ít bịnh ít phiền, cử động linh hoạt, sống yên vui chăng. Các vị thị giả lại tác bạch như vầy: Lành thay đức Thế tôn, xin Ngài nay có thể tuyên thuyết kinh Ánh sáng hoàng kim, pháp yếu cực sâu, để lợi ích chúng sinh, loại bỏ đói khát, làm cho yên vui. Đức Thầy trời người của chúng con xin tùy hỷ việc này. Bấy giờ đức Thích ca thế tôn, bậc Như lai, bậc ứng cúng, bậc Chánh đẳng giác, nói với các vị bồ tát thị giả, rằng lành thay, bốn đức Nha lai muốn làm cho chúng sinh lợi ích yên vui mà khuyến cáo Như lai tuyên dương pháp yếu! Ngài nói mấy lời chỉnh cú sau đây.

(9) Như lai thường trú
trên đỉnh Thứu phong,
tuyên thuyết kinh bảo
Ánh sáng hoàng kim;
nhưng vì tác thành
cho bao chúng sinh,
Như lai thị hiện
nhập vào niết bàn.
(10) Chúng sinh phàm phu
quan niệm lầm lẫn,
nên không tin được
lời Như lai nói;
chính vì tác thành
chúng sinh như vậy,
Như lai thị hiện
nhập vào niết bàn.

Bấy giờ trong đại hội có một vị bà la môn họ Kiều trần như, tên Pháp sư thọ ký, cùng vô số bà la môn hiến cúng đức Thế tôn rồi, nghe Ngài nói nhập vào niết bàn, thì nước mắt nước mũi xen nhau chảy ra, bước tới lạy chân Ngài, thưa rằng, bạch đức Thế tôn, nếu thật đức Thế tôn có lòng đại từ bi đối với chúng sinh, thương xót ích lợi, làm cho yên vui, in như cha mẹ không ai sánh bằng; Ngài làm chỗ nương tựa cho cả thế giới, in như vầng thái âm tròn đầy; Ngài soi sáng bằng tuệ giác lớn lao, in như vầng thái dương mới mọc; Ngài nhìn khắp cả, thương tưởng đồng đều, coi ai cũng như tôn giả La hô la -- thì con xin Ngài ban cho con một điều ước nguyện. Nghe thưa như vậy, đức Thế tôn chỉ im lặng. Nhưng do uy lực của Ngài, trong đại hội có một vị đồng tử Lê xa tì tên Ai cũng thích nhìn, nói với bà la môn Kiều trần như, rằng thưa đại bà la môn, ông muốn xin đức Thế tôn điều ước nguyện gì, tôi có thể thỏa mãn cho ông. Bà la môn Kiều trần như nói, đồng tử, tôi muốn hiến cúng (6) đức Thế tôn tối thượng, nên cầu xin Ngài cho tôi một chút xá lợi chỉ bằng hạt cải. Tại sao tôi cầu xin như vậy? Vì tôi từng nghe nói, nếu thiện nam hay thiện nữ nào được xá lợi của đức Thế tôn chỉ bằng hạt cải thôi, để tôn kính hiến cúng, thì sẽ sinh lên tầng trời Đao lợi mà làm Đế thích. Nghe như vậy, đồng tử Lê xa tì nói với bà la môn, nếu ông muốn sinh lên Đao lợi hưởng thụ quả báo hơn người, thì hãy dốc lòng mà nghe kinh Ánh sáng hoàng kim. Kinh này hơn hết các kinh khác, khó lý giải, khó hội nhập. Thanh văn Độc giác không thể hiểu nổi. Kinh này sinh ra vô biên quả báo phước đức, cho đến hoàn thành tuệ giác vô thượng. Tôi nay chỉ nói cho ông vắn tắt như vậy. Bà la môn nói, lành thay đồng tử; nhưng kinh Ánh sáng hoàng kim cực sâu, tối thượng, khó lý giải, khó hội nhập, Thanh văn Độc giác không thể hiểu nổi, huống chi chúng tôi, những kẻ biên dã, trí tuệ kém cỏi, làm sao hiểu được. Do vậy, hôm nay tôi chỉ cầu xin xá lợi của đức Thế tôn bằng hạt cải thôi, để đem về bản xứ, tôn trí vào trong hộp ngọc, tôn kính hiến cúng. Thì mạng chung rồi được làm Đế thích, thường hưởng yên vui. Tại sao đồng tử không thể từ đấng Đủ sự sáng cầu xin cho tôi môt điều ước nguyện như vậy? Bà la môn nói rồi, đồng tử Lê xa tì liền nói cho ông nghe những lời chỉnh cú sau đây.

(11) Dòng nước chảy xiết
của sông Hằng hà
có thể mọc lên
hoa sen bạch liên;
loài chim màu vàng
có thể thành trắng,
hay chim màu đen
có thể thành đỏ;
(12) hoặc cây thiệm bộ
sinh trái đa la,
cây khát thụ la
sinh trái yêm la;
(13) sự vật hiếm có
có thể chuyển biến,
xá lợi Thế tôn
cũng không thể có.
(14) Giả sử lông rùa
dệt thành áo đẹp,
áo đó có thể
mặc vào mùa lạnh,
thì mới tìm được
xá lợi Thế tôn.
(15) Giả sử chân muỗi
đỡ được lầu đài
vô cùng kiên cố
không thể lay động,
thì mới tìm được
xá lợi Thế tôn.
(16) Giả sử miệng đỉa
mọc lên răng trắng
đã dài lại lớn
sắc như mũi nhọn,
thì mới tìm được
xá lợi Thế tôn.
(17) Giả sử sừng thỏ
làm thành cái thang
và leo thang ấy
lên đến cung trời,
thì mới tìm được
xá lợi Thế tôn.
(18) Chuột leo thang ấy
lên đánh tu la
che khuất mặt trăng
ở trong không gian,
thì mới tìm được
xá lợi Thế tôn.
(19) Ruồi uống rượu say
bay khắp làng xóm
dựng lên bao nhiêu
là những nhà cửa,
thì mới tìm được
xá lợi Thế tôn.
(20) Giả sử mõm lừa
đỏ lên in như
trái cây tần bà
lại khéo ca vũ,
thì mới tìm được
xá lợi Thế tôn.
(21) Quạ với cú mèo
đứng được một chỗ
và cả hai bên
thuận tùng với nhau,
thì mới tìm được
xá lợi Thế tôn.
(22) Nếu lá ba la
thành được tàn lọng
có thể che được
cơn mưa to lớn,
thì mới tìm được
xá lợi Thế tôn.
(23) Giả sử thuyền lớn
chở đầy vàng ngọc
mà lại lướt đi
trên mặt đất liền,
thì mới tìm được
xá lợi Thế tôn.
(24) Và nếu chim ri
mỏ ngậm Hương sơn
tùy theo ý muốn
bay đâu cũng được,
thì mới tìm được
xá lợi Thế tôn.

Bà la môn Pháp sư thọ ký nghe những lời chỉnh cú ấy, thì cũng đem chỉnh cú mà đáp lại đồng tử Ai cũng thích nhìn.

(25) Lành thay đồng tử
bậc đại cát tường,
khéo léo sử dụng
tuệ giác phương tiện,
nên được Thế tôn
thọ vô thượng ký.
(26) Uy đức Thế tôn
cực kỳ vĩ đại,
đầy cả năng lực
cứu hộ thế giới;
ông hãy nghe tôi
tuần tự nói đến.
(27) Lĩnh vực Thế tôn
rất khó nghĩ thấu,
toàn thể thế giới
không ai đồng đẳng;
pháp thân của Ngài
thể tánh thường trú,
tu hành cũng không
làm cho sai biệt.
(28) Chư vị Thế tôn
thể tánh đồng nhất,
Pháp các Ngài nói
cũng là như vậy;
nên chư Thế tôn
vốn phi tạo tác,
lại nữa cũng là
vốn phi sinh khởi.
(29) Thân thể kim cương
của chư Thế tôn
quyền biến thị hiện
thân thể ứng hóa;
thế nên xá lợi
của chư Thế tôn
cũng vốn không có
bằng một hạt cải.
(30) Thân chư Thế tôn
không phải máu thịt,
làm sao mà có
linh cốt xá lợi;
thế nhưng phương tiện
lưu lại linh cốt,
là để lợi ích
bao loại chúng sinh.
(31) Pháp thân là Phật,
pháp giới cũng Phật;
pháp thân mới thật
là thân của Phật,
Pháp của Phật nói
là pháp giới ấy.

Trong đại hội có ba mươi hai ngàn thiên tử, nghe nói như vậy về thọ mạng bất diệt đức Thế tôn, ai cũng phát tâm vô thượng bồ đề, hoan hỷ, phấn chấn, cảm được sự thể chưa bao giờ có, nên khác miệng mà đồng tiếng, nói mấy lời chỉnh cú sau đây.

(32) Phật không nhập diệt,
Pháp cũng bất diệt,
chỉ vì ích lợi
cho bao chúng sinh,
nên Phật thị hiện
có sự diệt tận.
(33) Phật thì đích thị
bất khả tư nghị,
thân mầu của Phật
không hề biến đổi,
nhưng vì ích lợi
cho bao chúng sinh
mà Phật thị hiện
mọi sự trang nghiêm.

Bấy giờ bồ tát Diệu tràng đích thân đối trước đức Thế tôn, trước bốn đức Thế tôn, trước hai vị đại nhân và bao nhiêu thiên tử, nghe nói thọ lượng của đức Thế tôn, thì lại từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay cung kính mà thưa với Ngài, rằng bạch đức Thế tôn, nếu thật chư vị Thế tôn không nhập niết bàn, không có xá lợi, thì tại sao trong các kinh trước đây nói Ngài có niết bàn, và có xá lợi để cho nhân loại và chư thiên tôn kính hiến cúng? Chư vị Thế tôn đã quá khứ rồi, hiện có linh cốt phân bố trong đời, người trời hiến cúng phước được vô hạn. Vậy mà ngày nay lại nói không có, gây ra hoài nghi. Con thỉnh cầu đức Thế tôn thương mà giải thích phong phú cho chúng con.

Vào lúc ấy, đức Thế tôn bảo bồ tát Diệu tràng, và cả đại hội, rằng các người phải nhận thức, nói có niết bàn và có xá lợi là nói theo ý nghĩa bí mật. Ý nghĩa như vậy hãy chuyên nhất tâm trí mà nghe. Thiện nam tử, bồ tát đại sĩ nên biết như vầy: có mười sự thể có thể lý giải ý nghĩa chân thật của Như lai nói có niết bàn vĩ đại và cứu cánh. Thế nào là mười? Một là chư Như lai cứu cánh diệt hết phiền não chướng và sở tri chướng nên nói là niết bàn. Hai là chư Như lai khéo léo thấu triệt nhân vô tánh và pháp vô tánh nên nói là niết bàn. Ba là chư Như lai có thể chuyển thân y và pháp y nên nói là niết bàn. Bốn là chư Như lai đối với chúng sinh, một cách tự nhiên, tạm ngừng hóa độ [khi cơ duyên hóa độ đã hết], nên nói là niết bàn. Năm là chư Như lai chứng được pháp thân không có sai biệt nên nói là niết bàn. Sáu là chư Như lai thấu triệt cái tánh bất nhị của sinh tử với niết bàn nên nói là niết bàn. Bảy là chư Như lai thấu triệt căn bản của các pháp, thực hiện thanh tịnh nên nói là niết bàn. Tám là chư Như lai khéo léo tu hành sự bất sinh diệt của các pháp nên nói là niết bàn. Chín là chư Như lai chứng được chánh trí đối với chân như nên nói là niết bàn. Mười là chư Như lai chứng được sự không sai biệt của tánh các pháp và tánh niết bàn nên nói là niết bàn. Như thế đó là mười sự thể nói có niết bàn.

Thiện nam tử, bồ tát đại sĩ nên biết như vầy: có mười sự thể nữa có thể lý giải ý nghĩa chân thật của Như lai nói có niết bàn vĩ đại và cứu cánh. Thế nào là mười? Một là mọi thứ phiền não lấy ưa muốn làm gốc, từ ưa muốn mà sinh, chư Như lai dứt ưa muốn nên nói là niết bàn. Hai là chư Như lai dứt hết ưa muốn, không thủ đắc một pháp nào cả: vì không thủ đắc mà không đi không đến nên nói là niết bàn. Ba là vì không đi đến, không thủ đắc, thế là pháp thân bất sinh diệt: bất sinh diệt nên nói là niết bàn. Bốn là sự bất sinh diệt thì không phải ngôn ngữ nói thấu: ngôn ngữ loại bỏ nên nói là niết bàn. Năm là không có bản ngã và sinh thể, tư duy sự sinh diệt của các pháp mà được chuyển y nên nói là niết bàn. Sáu là phiền não là khách, pháp tánh là chủ, không đến không đi: chư Như lai thấu triệt như vậy nên nói là niết bàn. Bảy là chân như là thật, ngoài ra là giả: chân như là Như lai nên nói là niết bàn. Tám là thật tế thì không hý luận: chỉ có Như lai chứng pháp thật tế, vĩnh diệt hý luận nên nói là niết bàn. Chính là vô sinh thì thật, sinh thì dối: người ngu chìm đắm sinh tử, còn thật thể Như lai thì không giả dối nên nói là niết bàn. Mười là cái pháp không thật thì do duyên sinh, cái pháp chân thật thì phi duyên sinh, mà pháp thân Như lai là chân thật nên nói là niết bàn. Như thế đó là mười sự thể nói có niết bàn.

Thiện nam tử, bồ tát đại sĩ nên biết như vầy: có mười sự thể nữa có thể lý giải ý nghĩa chân thật của Như lai nói có niết bàn vĩ đại và cứu cánh. Thế nào là mười? Một là Như lai khéo biết bố thí và quả báo của bố thí là không bản ngã và sở hữu của bản ngã; đối với bố thí và quả báo của bố thí, sự phân biệt không chính xác vĩnh viễn loại trừ nên nói là niết bàn. Hai là Như lai khéo biết trì giới và quả báo của trì giới là không bản ngã và sở hữu của bản ngã; đối với trì giới và quả báo của trì giới, sự phân biệt không chính xác vĩnh viễn loại trừ nên nói là niết bàn. Ba là Như lai khéo biết nhẫn nhục và quả báo của nhẫn nhục là không bản ngã và sở hữu của bản ngã; đối với nhẫn nhục và quả báo của nhẫn nhục, sự phân biệt không chính xác vĩnh viễn loại trừ nên nói là niết bàn. Bốn là Như lai khéo biết tinh tiến và quả báo của tinh tiến là không bản ngã và sở hữu của bản ngã; đối với tinh tiến và quả báo của tinh tiến, sự phân biệt không chính xác vĩnh viễn loại trừ nên nói là niết bàn. Năm là Như lai khéo biết thiền định và quả báo của thiền định là không bản ngã và sở hữu của bản ngã; đối với thiền định và quả báo của thiền định, sự phân biệt không chính xác vĩnh viễn loại trừ nên nói là niết bàn. Sáu là Như lai khéo biết trí tuệ và quả báo của trí tuệ là không bản ngã và sở hữu của bản ngã; đối với trí tuệ và quả báo của trí tuệ, sự phân biệt không chính xác vĩnh viễn loại trừ nên nói là niết bàn. Bảy là Như lai khéo biết chúng sinh phi chúng sinh, các pháp phi các pháp, sự phân biệt không chính xác vĩnh viễn loại trừ nên nói là niết bàn. Tám là thương mình thì đeo đuổi, theo đuổi thì đau khổ; Như lai dứt thương mình, hết theo đuổi: hết theo đuổi nên nói là niết bàn. Chín là các pháp hữu vi thì toàn có số lượng, pháp tánh vô vi thì số lượng loại kết; Như lai rời hữu vi, chứng vô vi, không số lượng nên nói là niết bàn. Mười là Như lai thấu triệt chúng sinh và các pháp toàn không: không tánh là pháp thân chân thật nên nói là niết bàn. Như thế đó là mười sự thể nói có niết bàn.

Lại nữa, Thiện nam tử, đâu phải chỉ có cái việc không nhập niết bàn của Như lai là hiếm có, mà còn có mười sự hiếm có nữa là việc Như lai làm. Thế nào là mười? Một, sinh tử thì tội lỗi, niết bàn thì vắng lặng, thế nhưng Như lai chứng được sự bình đẳng của sinh tử với niết bàn, nên không ở sinh tử, không ở niết bàn, không chán bỏ phản bội chúng sinh, đó là việc Như lai làm. Hai, đối với chúng sinh, Như lai không nghĩ họ là ngu phu, đi theo quan niệm thác loạn, bị phiền não ép buộc, Như lai phải khai thị cho họ siêu thoát; thế nhưng do sức mạnh của từ bi quá khứ, nên đối với chúng sinh vẫn tùy trình độ, ý thích và nhận định (7) của họ mà tự nhiên cứu độ, chỉ thị và huấn dụ cho họ lợi ích và hoan hỷ (8) mà không phân biệt gì hết, cùng tận thì gian, không có kết thúc, đó là việc Như lai làm. Ba, Như lai không nghĩ Như lai phu diễn mười hai thành phần của giáo pháp (9) , lợi ích chúng sinh; thế nhưng do sức mạnh từ bi quá khứ, vẫn tuyên thuyết phong phú cho chúng sinh, cho đến cùng tận thì gian, không có kết thúc, đó là việc Như lai làm. Bốn, Như lai không nghĩ đi đến thị thành, thôn quê, những nơi dân cư, vào nhà vua chúa, đại thần, bốn giai cấp xã hội mà khất thực; nhưng do sức mạnh huân tập của thân miệng ý quá khứ mà tự nhiên đi đến, vì lợi ích cho họ mà khất thực, đó là việc Như lai làm. Năm, Như lai thì thân không đói khát, cũng không đại tiểu, nên tuy khất thực mà không thọ thực; nhưng vì tự nhiên ích lợi chúng sinh nên hiện có ăn uống, đó là việc Như lai làm. Sáu, Như lai không nghĩ chúng sinh có cao vừa thấp, tùy trình độ của họ mà thuyết pháp cho; nhưng Như lai không phân biệt mà vẫn tự nhiên tùy trình độ (10) chúng sinh, khéo ứng theo cơ duyên mà thuyết pháp cho họ, đó là việc Như lai làm. Bảy, Như lai không nghĩ có người không tôn kính Như lai, thường phát ngôn phỉ báng, Như lai không thể đối thoại; có người tôn kính Như lai, thường phát ngôn ca tụng, Như lai có thể đối thoại; thế nhưng Như lai thường có tâm từ bi, bình đẳng bất nhị, đó là việc Như lai làm. Tám, Như lai không có thương ghét, kiêu ngạo, tham tiếc, và mọi thứ phiền não đồng đẳng như vậy; mà Như lai thường thích vắng lặng, khen thiểu dục, tách rời huyên náo, đó là việc Như lai làm. Chín, Như lai không có một pháp nào không biết và không khéo thông suốt, đối với toàn bộ các pháp thì cảnh trí (11) như ở trước mắt và không có phân biệt; thế nhưng Như lai vẫn thấy công việc của chúng sinh, tùy ý họ mà phương tiện dẫn dụ cho họ siêu thoát, đó là việc Như lai làm. Mười, Như lai thấy ai giàu thịnh thì không mừng, thấy họ suy bại cũng không lo; nhưng thấy họ làm theo chánh hạnh thì vô ngại đại bi tự nhiên gia hộ, thấy họ làm theo tà hạnh thì vô ngại đại bi tự nhiên cứu hộ, đó là việc của Như lai làm. Thiện nam tử, nên biết Như lai nói có vô lượng diệu hạnh như vậy, và đó là sắc thái thật của niết bàn. Còn có khi các người thấy Như lai nhập niết bàn, thì đó là phương tiện thích nghi; các người lại thấy lưu lại xá lợi thì đó là để cho chúng sinh tôn kính hiến cúng. Những việc như vậy toàn là do sức mạnh từ bi của Như lai, để ai hiến cúng xá lợi thì vị lai xa rời tám nạn, gặp được chư vị Như lại, gặp được các bậc Thiện tri thức, thiện tâm liên tục chứ không mất, phước báo vô cùng, mau được siêu thoát, không bị sinh tử trói buộc. Diệu hạnh như vậy các người nên nỗ lực mà làm, đừng có phóng dật.

Bồ tát Diệu tràng nghe đức Thế tôn đích thân nói đến sự không nhập niết bàn và những diệu hạnh cực sâu, thì chắp tay, cung kính mà thưa, bạch đức Thế tôn, ngày nay con mới biết bậc Thầy cao cả không nhập niết bàn và lưu lại xá lợi, nhưng vì lợi ích một cách rộng lớn cho chúng sinh [mà thị hiện niết bàn và lưu lại xá lợi]. Cả cơ thể và tâm trí đều phấn chấn, vui đẹp, bồ tát Diệu tràng than rằng thật là sự thể chưa bao giờ có.

Khi phẩm thọ lượng Thế tôn được tuyên thuyết hoàn tất thì vô số chúng sinh phát tâm vô thượng bồ đề. Và bốn đức Thế tôn đều ẩn mất. Bồ tát Diệu tràng đảnh lễ ngang chân đức Thế tôn, rồi đứng dậy trở về chỗ cũ.

 

Phẩm 3: Phân Biệt Ba Thân [^]

Lúc ấy đại bồ tát Hư không tạng ở trong đại hội từ chỗ ngồi đứng dậy, vắt vạt pháp y ở vai bên phải, gối bên phải quì xuống chấm đất, chắp tay tôn kính, đảnh lễ ngang chân đức Thế tôn, đem cái lọng thượng hạng có gắn tràng phan và kết những thứ hoa vàng ngọc tinh hảo mà hiến dâng lên Ngài, thưa rằng, bạch đức Thế tôn, bồ tát đại sĩ tu hành chính xác như thế nào về bí mật sâu xa của chư vị Thế tôn? Đức Thế tôn dạy, thiện nam tử, hãy nghe cho kyլ hãy khéo suy nghĩ, Như lai sẽ phân tích giải thích cho ông.

Thiện nam tử, chư vị Như lai có ba thân, một là hóa thân, hai là ứng thân, ba là pháp thân. Ba thân như vậy bao quát đầy đủ về vô thượng bồ đề, nhận thức chính xác thì mau chóng siêu thoát sinh tử. Thiện nam tử, bồ tát nên nhận thức hóa thân như thế nào? Nên nhận thức rằng Như lai quá khứ ở trong vị trí tu hành, vì chúng sinh mà tu tập diệu pháp. Tu tập cho đến vị trí viên mãn. Thì do sức mạnh tu tập mà được sự tự tại lớn lao. Được sự tự tại nên tùy ý muốn của chúng sinh, tùy việc làm của chúng sinh, tùy thế giới của chúng sinh, biết rành tất cả. Rồi không chờ đợi cơ hội, không lỡ mất cơ hội, thích ứng địa phương, thích ứng thì gian, thích ứng việc làm, thích ứng thuyết pháp, mà thị hiện mọi loại thân hình, đó là hóa thân. Thiện nam tử, bồ tát nên nhận thức ứng thân như thế nào? Nên nhận thức rằng Như lai vì làm cho bồ tát được sự thông đạt mà nói về chân đế, rằng do thấu triệt sinh tử với niết bàn là nhất thể, do loại trừ sự sợ hãi và sự vui mừng của chúng sinh chấp ngã, do làm căn bản cho vô biên phẩm chất Phật đà, do sức mạnh bản nguyện thích ứng đích thực với như như trí của như như lý, mà hình thành thân thể với ba mươi hai tướng tốt và tám mươi nét đẹp, sau cổ là vầng sáng tròn, đó là ứng thân. Thiện nam tử, bồ tát nên nhận thức pháp thân như thế nào? Nên nhận thức rằng do loại trừ phiền não chướng và sở tri chướng, do đầy đủ thiện pháp, mà chỉ có như như lý của như như trí (12) , đó là pháp thân.

Thiện nam tử, hai thân trước là có giả, thân thứ ba mới có thật, làm căn bản cho hai thân trước. Tại sao? Vì tách rời như như lý và như như trí thì chư vị Như lai không có phẩm chất nào cả. Nhưng chư vị Như lai thì tuệ giác toàn hảo, phiền não diệt tận, thủ đắc vị trí Phật đà tối cực thanh tịnh. Thế nên như như lý và như như trí tổng quát tất cả phẩm chất Phật đà.

Thiện nam tử, chư vị Như lai tuyệt đối lợi ích mình người (13) . Lợi ích mình là như như lý. Lợi ích người là như như trí. Như như lý và như như trí làm cho đạt được tự tại trong sự lợi ích mình người, hoàn thành vô biên diệu dụng, do vậy mà phẩm chất Phật đà có vô biên các dạng dị biệt. Thiện nam tử, ví như do vọng tưởng mà nói các loại phiền não, các loại nghiệp dụng, các loại quả báo; cũng y như vậy, do như như lý và như như trí mà nói các pháp Phật đà, các pháp Độc giác, các pháp Thanh văn. Do như như lý và như như trí mà tự tại hoàn thành tất cả Phật pháp, đó là sự thể bậc nhất, bất khả tư nghị. Thiện nam tử, như vẽ đồ dùng trong không gian, đó là sự khó thể nghĩ bàn; do như như lý và như như trí mà hoàn thành phẩm chất Phật đà cũng khó nghĩ bàn như vậy. Tại sao như như lý và như như trí cả hai đều không phân biệt mà lại tự tại hoàn thành sự thể? Điều này ví như Như lai nhập niết bàn, nhưng do nguyện lực tự tại mà thành được đủ mọi sự thể. Như như lý và như như trí mà tự tại hoàn thành mọi sự cũng là như vậy. Thiện nam tử, bồ tát đại sĩ nhập định vô tâm (14) , nhưng do nguyện lực trước đó mà xuất định vẫn làm mọi sự; như như lý và như như trí không phân biệt mà vẫn tự tại thành sự cũng vậy. Như trời trăng không có phân biệt, nước gương không có phân biệt, ánh sáng không có phân biệt, nhưng cả ba thứ này hợp lại thì có hình ảnh; như như lý và như như trí không phân biệt, nhưng do nguyện lực tự tại mà chúng sinh thấy có ứng thân và hóa thân. Thiện nam tử, rất nhiều nước gương do ánh sáng mà không ảnh (15) hiện ra đủ hình dạng khác nhau, nhưng không gian thì không có hình dạng như vậy. Cũng y như vậy, những người tiếp nhận giáo hóa chính là hình ảnh của pháp thân. Do nguyện lực mà hai thân đủ mọi hình tướng, nhưng pháp thân thì không có hình tướng khác nhau.

Thiện nam tử, do hai thân mà nói chư vị Như lai là niết bàn hữu dư, do pháp thân mà nói chư vị Như lai là niết bàn vô dư, vì những gì dư lại đã tuyệt đối diệt tận. Lại do ba thân mà nói chư vị Như lai không trụ niết bàn. Hai thân là không trụ niết bàn, còn tách rời pháp thân thì không có Phật thân nào biệt lập, [nên pháp thân cũng là không trụ niết bàn]. Tại sao hai thân không trụ niết bàn, vì hai thân là có giả, sinh diệt như mỗi ý nghĩ, không cố định trụ lại, lại luôn luôn xuất hiện chứ không cố định. Pháp thân thì không như vậy. Nên hai thân thì không trụ niết bàn, còn pháp thân thì vì bất nhị [với hai thân] nên cũng là không trụ niết bàn mà thôi. Do vậy, căn cứ ba thân mà nói chư vị Như lai không trụ niết bàn (16) .

Thiện nam tử, phàm phu vì ba tướng mà có ràng buộc, có ngăn cách, rời xa ba thân, không đạt đến ba thân. Ba tướng là gì, một là biến kế, hai là y tha, ba là thành tựu. Ba tướng như vậy mà không thể lý giải [cái nên lý giải], không thể diệt trừ [cái nên diệt trừ], không thể trong sáng [cái nên trong sáng], thế nên không thể đạt đến ba thân. Ba tướng như vậy mà có thể lý giải, có thể diệt trừ, có thể trong sáng, thì toàn hảo ba thân của chư vị Như lai. Thiện nam tử, phàm phu chưa trừ bỏ được ba tâm nên rời xa ba thân, không thể đạt đến. Ba tâm là gì, một là tâm sinh sự, hai làm tâm dựa vào căn bản, ba là tâm căn bản. Do đạo tạm dẹp mà tâm sinh sự diệt tận, do đạo đoạn trừ mà tâm dựa vào căn bản diệt tận, do đạo hơn hết mà tâm căn bản diệt tận. Tâm sinh sự diệt tận thì biến hiện hóa thân, tâm dựa vào căn bản diệt tận thì hình thành ứng thân, tâm căn bản diệt tận thì hiển lộ pháp thân. Do vậy, chư vị Như lai đủ cả ba thân.

Thiện nam tử, nơi thân thứ nhất thì chư vị Như lai đồng nhất công việc, nơi thân thứ hai thì chư vị Như lai đồng nhất ý muốn, nơi thân thứ ba thì chư vị Như lai đồng nhất thể tánh.

Thiện nam tử, thân Phật thứ nhất là tùy ý chúng sinh có lắm dạng nên hiện ra lắm dạng, do vậy mà nói thân này là nhiều. Thân Phật thứ hai thì ý của đệ tử là một tướng nên hiện ra một tướng, do vậy mà nói thân này là một. Thân Phật thứ ba siêu việt tất cả dạng tướng, không phải lĩnh vực dạng tướng, do vậy mà nói thân này là phi nhất phi dị.

Thiện nam tử, thân thứ nhất dựa ứng thân mà biểu hiện, thân thứ hai dựa pháp thân mà biểu hiện, còn thân thứ ba thì có thật, không cần chỗ dựa.

Thiện nam tử, ba thân như vậy có nghĩa nói là thường còn, có nghĩa nói là vô thường. Hóa thân thường chuyển pháp luân, nơi nơi tùy duyên, phương tiện liên tục, không có chấm dứt, nên nói là thường còn; nhưng không phải là căn bản, đại dụng đầy đủ không được biểu hiện, nên nói là vô thường. thân thì vô thỉ đến nay liên tục bất đoạn, thu giữ được hết thảy phẩm chất đặc hữu của chư vị Như lai, chúng sinh vô tận nên diệu dụng cũng vô tận, nên nói là thường còn; nhưng cũng không phải là căn bản, đại dụng đầy đủ cũng không biểu hiện, nên nói là vô thường. Pháp thân không phải là hữu vi (17) , không có các dạng khác nhau, mà là căn bản, tựa như không gian, nên nói là thường còn. Thiện nam tử, rời như như trí thì không có tuệ giác tối thượng nào nữa, rời như như lý thì không có đối cảnh tối thượng nào nữa. Một mặt là như như của các pháp, một mặt là như như của tuệ giác, hai mặt như như ấy là như như, phi đồng nhất phi dị biệt. Do vậy, pháp thân thì tuệ giác trong sáng, diệt trừ trong sáng, do hai sự trong sáng này mà pháp thân hoàn toàn trong sáng.

Thiện nam tử, phân biệt ba thân thì có 4 sự khác nhau: có hóa thân không phải ứng thân, có ứng thân không phải hóa thân, có hoá thân cũng là ứng thân, có không phải hoá thân cũng không phải ứng thân. Hóa thân không phải ứng thân là thế nào, là chư Như lai nhập niết bàn rồi, do đại nguyện tự tại mà vẫn tùy duyên lợi ích chúng sinh. thân không phải hóa thân là thế nào, là cái thân được thấy bởi bồ tát trước mười địa (18) . Hóa thân cũng là ứng thân là thế nào, là cái thân ở nơi niết bàn hữu dư. Không phải hóa thân cũng không phải ứng thân là thế nào, là chính pháp thân. Thiện nam tử, pháp thân như vậy do hai sự vô sở hữu mà hiển lộ. Hai sự vô sở hữu là thế nào, là nơi pháp thân thì ngã chấp pháp chấp (19) toàn là không, phi có phi không, phi một phi khác, phi số lượng phi siêu số lượng, phi sáng suốt phi ngu tối, ấy vậy, như như trí thì không thấy ngã chấp pháp chấp, không thấy phi có phi không, cho đến không thấy phi sáng suốt phi ngu tối. Thế nên phải biết đối cảnh trong sáng với tuệ giác trong sáng là bất khả phân biệt, không phải ở giữa [những khái niệm đối lập lẫn nhau]; làm căn bản cho diệt đế và đạo đế (20) , nên pháp thân đầy tính năng biểu hiện đủ loại sự nghiệp của chư vị Như lai.

Thiện nam tử, thân này (21) thì bản thân, yếu tố, đối cảnh, đối tượng, kết quả, tất cả toàn là dựa vào căn bản [như như lý] (22) và nó thật khó mà nghĩ bàn. Nếu hiểu nghĩa ấy thì biết thân này là cỗ xe vĩ đại, là thể tánh Như lai, là bào thai Như lai (23) . Dựa vào thân này thì được cái tâm vị trí mới phát và cái tâm vị trí tu hành đều hiện ra, cái tâm vị trí bất thoái cũng hiện ra, cái tâm vị trí bổ xứ, cái tâm vị trí kim cang, cái tâm vị trí Như lai cũng hiện ra cả, vô lượng vô biên phẩm chất tinh tế của Như lai cũng hiện ra. Thiện nam tử, dựa vào pháp thân mà đại định và đại trí được thực hiện, và do đó mà hóa thân dựa vào đại định với ứng thân dựa vào đại trí cũng được thực hiện. Pháp thân như vậy do tự thể của Nó mà nói là thường và nói là ngã, do đại định của Nó mà nói là lạc, do đại trí của Nó mà nói là tịnh. Do vậy mà Như lai thường trú, tự tại, an lạc, thanh tịnh (24) .

Do đại định mà hết thảy thiền định, định Thủ lăng nghiêm và các định đồng đẳng, hết thảy niệm xứ, đại pháp niệm xứ và những niệm xứ đồng đẳng, đại từ đại bi, hết thảy tổng trì, hết thảy thần thông, hết thảy tự tại, hết thảy bình đẳng, hết thảy các pháp Phật đà như vậy đều được thực hiện. Do đại trí mà mười lực, bốn vô úy, bốn vô ngại biện, một trăm tám mươi pháp bất cọng (25) , hết thảy các pháp bất khả tư nghị như vậy đều được thực hiện. Ví như do ngọc như ý mà vô số các loại ngọc quí đều được xuất hiện, cũng là như vậy, do ngọc đại định và ngọc đại trí mà xuất ra vô số diệu pháp của chư vị Như lai.

Thiện nam tử, pháp thân như vậy, và đại định đại trí của Nó, toàn là siêu việt hết thảy khái niệm (26) , không vướng mắc khái niệm nào hết, không thể phân biệt, phi thường phi đoạn, gọi là trung đạo (27) ; tuy phân biệt mà thể tánh không phân biệt, tuy có ba số (28) mà thể tánh không phải ba số, bất tăng bất giảm, tựa như mộng ảo không có năng chấp với sở chấp; là pháp thể như như, là xứ sở giải thoát, vượt qua lĩnh vực của vua chết, vượt qua luôn sự tối tăm của sinh tử, là chỗ chúng sinh không thể tu hành và đạt đến [bằng khái niệm của mình], là chỗ an trú của chư vị Phật đà và chư vị Bồ tát.

Thiện nam tử, như người muốn có vàng nên tìm kiếm khắp nơi, và tìm được mỏ vàng. Rồi đập ra, chọn phần nào tinh hơn thì bỏ vào lò mà luyện, nên thành vàng ròng, chế tạo đủ thứ đồ trang sức, đồ trang sức khác nhau mà vàng không biến đổi. Thế nên, thiện nam tử, thiện nam hay thiện nữ nào muốn cầu giải thoát siêu việt mà tu hành thiện căn thuộc phạm vi thế gian (29) , thì được thấy chư vị Như lai, và đệ tử của các Ngài, được thân gần, rồi thưa rằng, bạch đức Thế tôn, cái gì là thiện? cái gì là ác? cái gì là chính tu hành được thanh tịnh hạnh? Chư vị Như lai, và đệ tử của các Ngài, thấy họ hỏi thì nghĩ, thiện nam thiện nữ này muốn cầu thanh tịnh, muốn nghe chánh pháp. Nghĩ vậy nên liền nói cho họ khai ngộ. Họ nghe rồi chính xác ghi nhớ, phát tâm tu hành, được sức mạnh tinh tiến, loại trừ sự chướng ngại vì biếng nhác, diệt mọi tội lỗi, đối với giới pháp họ tách rời sự không tôn trọng, ngưng cả sự háo động và tiếc nuối, nên nhập vào địa thứ nhất. Do tâm của địa thứ nhất này loại trừ sự chướng ngại cho sự lợi ích chúng sinh, nên nhập vào địa thứ hai. Trong địa thứ hai này loại trừ sự chướng ngại cho sự không áp bức quấy rối chúng sinh, nên nhập vào địa thứ ba. Trong địa thứ ba này loại trừ sự chướng ngại cho tâm mềm dịu trong sáng, nên nhập vào địa thứ tư. Trong địa thứ tư này loại trừ sự chướng ngại cho phương tiện khéo léo, nên nhập vào địa thứ năm. Trong địa thứ năm này loại trừ sự chướng ngại vì thấy chân đế tục đế đối lập với nhau, nên nhập vào địa thứ sáu. Trong địa thứ sáu này loại trừ sự chướng ngại vì thấy có hành tướng, nên nhập vào địa thứ bảy. Trong địa thứ bảy này loại trừ sự chướng ngại vì không thấy sự diệt, nên nhập vào địa thứ tám. Trong địa thứ tám này loại trừ sự chướng ngại vì không thấy sự sinh, nên nhập vào địa thứ chín. Trong địa thứ chín này loại trừ sự chướng ngại cho lục thông, nên nhập vào địa thứ mười. Trong địa thứ mười này loại trừ sự chướng ngại vì ngu muội các pháp sở tri, loại trừ cái tâm căn bản, nên nhập vào Như lai địa. Như lai địa do ba sự trong sáng mà gọi là cực trong sáng. Ba sự ấy là những gì? Một là trong sáng vì loại trừ phiền não, hai là trong sáng vì loại trừ khổ não, ba là trong sáng vì loại trừ tập khí. Như vàng thật chảy ra vì nung luyện, nung luyện rồi thì không còn quặng bẩn nữa, chứng tỏ vàng vốn trong sáng, chứ không phải không có vàng. Như nước dơ mà lọc trong thì không còn cặn bẩn, chứng tỏ nước vốn trong suốt, chứ không phải không có nước. Cũng là như vậy, pháp thân vốn tách rời phiền não, khổ và tập loại trừ rồi thì không còn tập quán thừa lại, chứng tỏ thể tánh pháp thân vốn trong sáng, chứ không phải không có thể tánh. Như không gian bị khói mây bụi mù che đi, trừ cái che ấy rồi thì không gian trong sáng, chứ không phải không có không gian; pháp thân cũng vậy, mọi sự khổ não loại bỏ hết rồi thì nói là trong sáng, không phải không có thể tánh pháp thân. Như có kẻ trong mộng thấy bị trôi theo dòng nước sông lớn, nên vận dụng cả tay chân mà bơi qua, đến được bờ bến bên kia, ấy là do cả thân tâm kẻ ấy không nhác, không lùi. Khi mộng tỉnh thì không còn thấy nước, thấy bờ bên này bờ bên kia, nhưng không phải không có cái tâm: vọng tưởng sinh tử loại bỏ hết rồi thì tuệ giác trong sáng, chứ không phải không có tuệ giác. Ấy vậy, pháp thân thì mọi thứ vọng tưởng không còn phát sinh nên nói là trong sáng, chứ không phải chư vị Như lai không có thật thể.

Lại nữa, thiện nam tử, pháp thân do làm sạch hoặc chướng mà biểu hiện ứng thân, do làm sạch nghiệp chướng mà biểu hiện hóa thân, do làm sạch trí chướng mà pháp thân tự biểu hiện. Ví như do không gian mà phát điện lực, do điện lực mà phát ánh sáng; cũng là như vậy, do pháp thân mà biểu hiện ứng thân, do ứng thân mà biểu hiện hóa thân. Do thể trong sáng mà pháp thân tự biểu hiện, do trí trong sáng mà biểu hiện ứng thân, do định trong sáng mà biểu hiện hóa thân. Ba sự trong sáng như vậy là pháp tánh như như, bất dị như như, nhất vị như như, giải thoát như như, cứu cánh như như, do vậy, chư vị Như lai thì thể tánh không có dị biệt. Thiện nam tử, nếu thiện nam hay thiện nữ nào nói đức Thế tôn là bậc Thầy cao cả của tôi, tin tưởng quyết định như vậy, thì người ấy, từ trong tâm trí sâu xa, thấu hiểu pháp thân Như lai không có dị biệt. Và thiện nam tử, do vậy mà, đối với các pháp, người ấy loại trừ hết cả sự tư duy không chính xác, biết các pháp là phi nhị biên, là vô phân biệt, là thánh giả tu hành. Đối với các pháp, chính xác tu hành sự không có nhị biên như thế nào, thì đối với các chướng cũng loại trừ như vậy; loại trừ các chướng như thế nào thì như như lý và như như trí cũng tối cực trong sáng như vậy; như như lý và như như trí trong sáng như thế nào thì mọi sự tự tại cũng như vậy, bao quát đầy đủ, thành đạt tất cả. Các chướng loại trừ, các chướng lọc sạch, đó là chân tướng của như như lý và như như trí. Thấy như vậy là cái thấy của thánh giả, và thế gọi là thật thấy Như lai, tại sao, vì đó là đúng như sự thật mà thấy như như lý của các pháp. Do vậy, chư vị Như lai thấy biết tất cả chư vị Như lai. Còn chư vị Thanh văn và Độc giác tuy siêu thoát ba cõi, nhưng cầu mà không thể thấy biết như như lý. Thánh giả mà còn không thể thấy biết, huống chi phàm phu thì nghi hoặc, phân biệt thác loạn, nên không thể vượt đến. Khác nào thỏ mà bơi qua biển cả thì bơi không qua được, vì sức lực của thỏ quá kém, phàm phu cũng vậy, họ không thể thông đạt như như lý của các pháp. Nhưng chư vị Như lai thì siêu phân biệt, nên được đại tự tại đối với hết thảy các pháp, được đầy đủ tuệ giác trong sáng và sâu xa, và đó là lĩnh vực của chư vị Như lai, chứ không phải chung cùng với người khác. Do vậy mà biết chư vị Như lai trong vô số kiếp không tiếc tính mạng, làm khổ hạnh khó làm, mới được pháp thân tối thượng, không thể sánh bằng, bất khả tư nghị, vượt quá lĩnh vực ngôn ngữ, vắng lặng nhiệm mầu, rời hết mọi sự sợ hãi (30) .

Ấy vậy, thiện nam tử, thấy biết như như lý của các pháp thì không sinh không già không chết, thọ lượng bất tận, không ngủ nghỉ, không đói khát, tâm thường thiền định, không có loạn động. Đối với Như lai mà tranh luận thì thế là không thể thấy được Như lai. Chư vị Như lai thì nói gì cũng lợi ích, ai nghe cũng giải thoát, và vì nghe pháp mà phước báo bất tận, đến nỗi chim dữ, thú dữ, người dữ, quỉ dữ, tất cả không bao giờ gặp phải. Nhưng chư vị Như lai không có sự vô ký (31) , không sinh tâm muốn biết đối với các pháp [mà vẫn tự nhiên biết hết], không có ý tưởng sinh tử với niết bàn khác nhau. Chư vị Như lai phán quyết gì cũng là chắc chắn. Chư vị Như lai thì tất cả cử động toàn là tuệ giác, tất cả sự việc toàn là từ bi, không có gì không vì lợi ích yên vui chúng sinh. Thiện nam tử, đối với bản kinh Ánh sáng hoàng kim này, thiện nam hay thiện nữ nào nghe, tin, hiểu, thì không sa vào các nẻo địa ngục, ngạ quỉ, bàng sinh, tu la, thường sinh trong nhân loại và chư thiên mà không phải những nơi thấp hèn; thì thân gần chư vị Như lai, nghe và tiếp nhận chánh pháp; thì thường sinh thế giới trong sạch của chư vị Như lai: tất cả thành quả này là do nghe được kinh pháp cực kỳ sâu xa này. Thiện nam hay thiện nữ như vậy là được Như lai đã thấy biết và đã ghi nhận sẽ được không thoái chuyển vô thượng bồ đề. Thiện nam hay thiện nữ nào được kinh pháp cực kỳ sâu xa này một khi lướt qua thính giác, thì nên biết người ấy không phỉ báng Phật, không hủy hoại Pháp, không khinh dể Tăng. Ai chưa gieo trồng thiện căn họ làm cho gieo trồng, ai gieo trồng thiện căn rồi họ làm cho tăng trưởng và thành thục. Họ khuyến khích mọi người trong mọi thế giới làm theo sáu pháp ba la mật.

Bấy giờ đại bồ tát Hư không tạng, Phạn vương, Đế thích, bốn Thiên vương, chư thiên, tức thì từ chỗ ngồi đứng dậy, vắt vạt áo của vai bên phải, chắp tay cung kính, đảnh lễ ngang chân đức Thế tôn, rồi thưa rằng, bạch Ngài, ở đâu mà có giảng diễn bản kinh mầu nhiệm Ánh sáng hoàng kim này, thì quốc gia ấy có bốn cái lợi. Một, quân đội hoàng gia cường thịnh, không có thù địch, vua và dân không bịnh tật, sống lâu dài, an lạc cát tường, hưng hiển Phật pháp. Hai, hoàng gia và quần thần vui đẹp với nhau, rời xa sự dua nịnh, vua cũng trọng nể. Ba, tu sĩ và quốc dân thực tu Phật pháp, không bịnh, yên vui, không ai uổng tử, phụng sự tất cả ruộng phước. Bốn, ngày đêm cơ thể điều hòa, thư thái, chư thiên tăng thêm giữ gìn hộ vệ, tâm lý từ bi, bình đẳng, không có sự thương tổn, tác hại, làm cho ai cũng qui kính Tam bảo, ai cũng nguyện tu tập bồ đề hạnh. Như thế đó là bốn cái lợi. Bạch đức Thế tôn, chúng con cũng thường xuyên vì làm cho kinh pháp này lan rộng nên theo dõi những người thọ trì, họ ở đâu chúng con cũng đem lại lợi ích cho họ. Đức Thế tôn dạy rằng, lành thay các thiện nam tử, các người hãy làm đúng như vậy. Các người hãy nỗ lực phổ biến bản kinh nhiệm mầu và chúa tể này, và thế là làm cho Phật pháp ở đời lâu dài.

 

Phẩm 4: Âm Thanh Trống Vàng (32) [^]

Vào lúc bấy giờ, bồ tát Diệu tràng đích thân ở trước đức Thế tôn nghe diệu pháp Ngài nói, thì hoan hỷ, phấn chấn, nhất tâm tư duy, trở về chốn cũ. Trong đêm hôm ấy, bồ tát mộng thấy cái trống vàng ròng to lớn, ánh sáng rực rỡ như vầng thái dương. Trong ánh sáng ấy, bồ tát thấy được chư vị Thế tôn khắp mười phương hướng, cùng ngồi trên pháp tòa lưu ly ở dưới cây ngọc, được bao quanh bởi đại chúng gồm có vô số người. Bồ tát lại thấy một vị Bà la môn cầm dùi mà đánh trống vàng ấy, xuất ra âm thanh to lớn. Âm thanh này nói lên những bài chỉnh cú nhiệm mầu, diễn đạt diệu pháp sám hối. Bồ tát Diệu tràng nghe rồi nắm giữ tất cả trong ký ức, buộc trí nhớ lại như ở trước mắt. Trời sáng, bồ tát cùng với hàng trăm hàng ngàn người đem các cúng phẩm ra khỏi thành Vương xá, vào đỉnh Thứu phong, đến chỗ đức Thế tôn. Bồ tát đảnh lễ ngang chân của Ngài, sắp hương hoa ra, đi quanh Ngài ba vòng, lui lại ngồi một phía, chấp tay cung kính, chiêm ngưỡng tôn nhan mà thưa, bạch đức Thế tôn, trong đêm vừa rồi, con mộng thấy một vị Bà la môn lấy tay cầm dùi, đánh một cái trống bằng hoàng kim, rất đẹp, xuất ra âm thanh rất lớn. Âm thanh ấy nói lên những bài chỉnh cú nhiệm mầu, diễn đạt diệu pháp sám hối. Nghe rồi, con nắm giữ trong trí tất cả. Kính xin đức Thế tôn đại từ đại bi, cho con tường thuật. Đối trước đức Thế tôn, bồ tát Diệu tràng nói những chỉnh cú sau đây.

(1) Đêm hôm vừa rồi
trong mộng con thấy
cái trống bằng vàng
rất lớn và đẹp,
khắp cả thân trống
có ánh sáng vàng.
(2) Như vầng thái dương,
ánh sáng như vậy
chiếu rực khắp cả
mười phương thế giới,
làm ai cũng thấy
chư vị Thế tôn.
(3) Dưới những cây ngọc,
các Ngài cùng ngồi
pháp tòa lưu ly,
có hàng ngàn người
rất mực cung kính
bao quanh các Ngài.
(4) Một bà la môn
cầm dùi mà đánh
trống vàng hoàng kim
phát âm thanh lớn,
và chính âm thanh
phát từ trống ấy
nói những chỉnh cú
nhiệm mầu sau đây.
(5) Trống vàng sáng rực
phát ra tiếng mầu
vang khắp tất cả
đại thiên thế giới,
diệt tội cực nặng
trong ba đường ác
cùng bao khổ ách
của trong nhân loại.
(6) Uy lực âm thanh
của trống vàng này
diệt hẳn hết thảy
phiền não chướng ngại
loại trừ sợ hãi
làm cho yên vui,
in như chính đấng
Mâu ni tự tại.
(7) Chính trong cái nơi
biển cả sống chết,
Thế tôn tu hành
thành trí toàn giác,
làm cho chúng sinh
đủ các giác phần,
cứu cánh qui về
biển cả công đức.
(8) Trống vàng xuất ra
âm thanh mầu nhiệm
người nghe cùng được
phạn âm thâm thúy,
và rồi chứng được
vô thượng bồ đề,
thường chuyển pháp luân
trong sáng nhiệm mầu.
(9) Lại được thọ lượng
bất khả tư nghị,
tùy nghi thuyết pháp
lợi ích chúng sinh,
cắt đứt dòng nước
bao nhiêu khổ lụy,
bao nhiêu phiền não
cũng diệt trừ cả.
(10) Những người ở trong
nẻo đường rất dữ,
ngọn lửa dữ dội
phủ cả châu thân,
nghe được tiếng mầu
của trống vàng này
thì liền thoát khổ
qui y Phật đà.
(11) Và rồi thành được
trí biết đời trước,
nhớ được quá khứ
đến trăm ngàn đời,
nên cùng nhớ đến
đức Đại mâu ni,
được nghe kinh pháp
sâu xa của Ngài.
(12) Bởi nghe tiếng mầu
xuất từ trống vàng,
nên thường thân gần
chư vị Thế tôn,
lại thường rời bỏ
mọi hành vi ác,
thuần túy tu tập
các loại thiện pháp.
(13) Tất cả chúng sinh
nhân loại chư thiên
thiết tha chí thành
nguyện cầu những gì,
thì nghe tiếng mầu
xuất từ trống vàng
là thỏa mãn cả
những nguyện cầu ấy.
(14) Những kẻ sa vào
địa ngục vô gián,
lửa dữ bùng lên
đốt cháy thân thể,
và kẻ ở nơi
không ai cứu hộ,
nghe tiếng trống vàng
khổ sở mất cả.
(15) Chư thiên nhân loại
và các loài khác,
những ai hiện chịu
bao nỗi khổ nạn,
mà nghe tiếng mầu
xuất từ trống vàng
cũng hết đau khổ
và được giải thoát.
(16) Nguyện cầu tất cả
đấng Lưỡng túc tôn
hiện tại đang ở
mười phương thế giới,
đem lòng đại bi
nhớ nghĩ đến con.
(17) Tất cả những ai
không nơi nương tựa
không ai cứu hộ,
con nguyện làm nơi
nương tựa lớn lao
cho những người ấy.
(18) Trước đây con làm
bao nhiêu tội lỗi
trong đó gồm có
ác nghiệp nặng nề,
ngày nay đối trước
các đấng Thập lực
dốc lòng chí thành
sám hối tất cả.
(19) Con đã không tin
chư vị Thế tôn,
cũng không kính trọng
cha mẹ tôn trưởng,
không chăm tu hành
mọi thứ thiện nghiệp,
nên thường tạo ra
bao nhiêu ác nghiệp.
(20) Con đã tự thị
tôn quí cao sang
dòng dõi đẳng cấp
tiền tài địa vị,
tự thị trẻ mạnh
kiêu xa phóng túng,
nên thường tạo ra
bao nhiêu ác nghiệp.
(21) Tâm trí thường xuyên
nổi dậy tà niệm,
miệng nói độc ác,
không thấy tội lỗi,
nên thường tạo ra
bao nhiêu ác nghiệp.
(22) Con đã thường xuyên
làm việc phàm phu,
vô minh ám chướng
đi theo bạn xấu,
nên thường tạo ra
bao nhiêu ác nghiệp.
(23) Hoặc vì ăn chơi,
hoặc vì buồn nản,
ham muốn, tức giận
thắt kết trong lòng,
nên thường tạo ra
bao nhiêu ác nghiệp.
(24) Thân với người xấu,
keo kiết, ganh ghét
nghèo nàn, cùng khổ
nịnh hót, lừa dối,
nên thường tạo ra
bao nhiêu ác nghiệp.
(25) Cũng có những lúc
không thích tội ác,
nhưng vì e sợ,
vì bị sai sử,
nên thường tạo ra
bao nhiêu ác nghiệp.
(26) Hoặc vì háo động
hoặc vì hận thù
hoặc vì đói khát
dày vò hành hạ,
nên thường tạo ra
bao nhiêu ác nghiệp.
(27) Vì ăn vì mặc
vì ham nữ sắc,
vì lửa phiền não
thiêu đốt nung nấu,
nên thường tạo ra
bao nhiêu ác nghiệp.
(28) Với Phật Pháp Tăng
không biết tôn kính,
nên đã tạo ra
ác nghiệp như trên,
ngày nay con xin
sám hối tất cả.
(29) Độc giác Bồ tát
cũng không kính trọng,
nên đã tạo ra
ác nghiệp như trên,
ngày nay con xin
sám hối tất cả.
(30) Phỉ báng Phật pháp
bất hiếu cha mẹ,
nên đã tạo ra
ác nghiệp như trên,
ngày nay con xin
sám hối tất cả.
(31) Ngu muội kiêu căng
tham lam giận dữ
nên đã tạo ra
ác nghiệp như trên,
ngày nay con xin
sám hối tất cả.
(32) Trong mọi thế giới
hiến cúng vô lượng
chư vị Thế tôn,
con nguyện cứu vớt
cho bao chúng sinh
thoát ly khổ nạn.
(33) Nguyện cầu chúng sinh
đứng trong mười địa,
tròn đầy phước trí
thành Phật đà rồi
hướng dẫn bao kẻ
mê mờ ngu muội.
(34) Con vì chúng sinh
tu hành khổ hạnh
trăm ngàn đời kiếp,
đem đại trí lực
mà làm cho họ
vượt qua biển khổ.
(35) Con vì chúng sinh
diễn giảng kinh pháp
Ánh sáng hoàng kim,
bản kinh tối thượng
năng lực trừ được
bao thứ ác nghiệp.
(36) Những ai trải qua
trăm ngàn đời kiếp
tạo ra bao tội
cực kỳ nặng nề,
mà biết phát lộ
thì cũng tiêu trừ.
(37) Y theo kinh pháp
Ánh sáng hoàng kim,
sám hối như trên,
thì mau tận diệt
bao nhiêu ác nghiệp
đã gây đau khổ.
(38) Cả trăm cả ngàn
thiền định siêu việt,
cùng với tổng trì
bất khả tư nghị,
năm căn năm lực
bảy chi tuệ giác
tám chi thánh đạo
ba mươi bảy pháp,
con nguyện thường xuyên
tu tập không mỏi.
(39) Và con sẽ đến
mười bồ tát địa,
nơi đầy đủ cả
mọi thứ quí báu,
viên mãn tất cả
phẩm chất Phật đà,
cứu vớt chúng sinh
vượt dòng sinh tử.
(40) Đối với biển cả
quả vị Phật đà,
và với kho tàng
công đức sâu xa,
tuệ giác mầu nhiệm
bất khả tư nghị,
con nguyện thành tựu
một cách đầy đủ.
(41) Nguyện cầu mười phương
chư vị Thế tôn
hộ niệm cho con,
đem tâm đại bi
thương tưởng chấp nhận
cho con sám hối.
(42) Trong bao đời kiếp
con tạo ác nghiệp,
do ác nghiệp ấy
mà sinh đau khổ,
nguyện Phật thương tưởng
cho con trừ diệt.
(43) Con gây ác nghiệp
nên thường lo sợ,
trong mọi cử động
đi đứng nằm ngồi,
chưa hề có được
một chút vui vẻ.
(44) Thế tôn đại từ
trừ cho chúng sinh
bao nỗi sợ hãi,
nguyện xin chấp nhận
cho con sám hối
thoát ly lo sợ.
(45) Con có đủ cả
hoặc chướng nghiệp hướng
cùng với báo chướng,
nguyện xin Thế tôn,
đem nước đại bi
rửa cho sạch sẽ.
(46) Ác nghiệp quá khứ
ác nghiệp hiện tại
mà con tạo ra,
con xin chí thành
phát lộ tất cả
nguyện tiêu diệt hết.
(47) Và bao ác nghiệp
trong thì vị lai,
con xin giữ gìn
không cho nổi dậy,
giả sử vi phạm
lời thệ nguyện này
thì không bao giờ
con dám che giấu.
(48) Thân có ba nghiệp
miệng có bốn nghiệp,
ý có ba nghiệp
trói buộc chúng sinh
vô thỉ đến nay
thường xuyên liên tục.
(49) Do thân miệng ý
mà tạo thập ác,
tội ác như vậy
rất nhiều sắc thái,
ngày nay con xin
sám hối tất cả.
(50) Ác nghiệp con làm
sẽ phải tự chịu
ác báo đau khổ
[nếu không sám hối];
ngày nay đối trước
chư vị Thế tôn
con xin chí thành
sám hối tất cả.
(51) Đại lục Thiệm bộ
và bao thế giới
trong đó được có
bao nhiêu thiện nghiệp,
ngày nay con xin
tùy hỷ tất cả.
(50) Nguyện bỏ thập ác
nguyện tu thập thiện
an trú mười địa
thường thấy Thế tôn.
(53) Bao nhiêu những nghiệp
phước đức trí tuệ
mà thân miệng ý
của con tu được,
con xin vận dụng
thiện nghiệp như vậy
mau chóng đạt đến
tuệ giác tối thượng.
(54) Nay con đích thân
đối trước Thế tôn
chân thành phát lộ
lắm cái ác nạn :
cái nạn ngu muội
si mê ba cõi,
cái nạn thường làm
ác nghiệp cực nặng,
(55) cái nạn tập hợp
dục vọng, tà kiến,
cái nạn tham ái
thường xuyên chảy dài,
cái nạn đam mê
thế giới hiện hữu,
cái nạn toàn là
phiền não phàm phu,
(56) cái nạn cuồng phóng
náo động thác loạn,
cái nạn thân gần
bạn bè bất lương,
cái nạn tham nhiễm
trong chốn sinh tử,
cái nạn sân si
ngu độn làm ác,
(57) cái nạn sinh nhằm
tám nơi không rảnh (33) ,
cái nạn chưa hề
tập hợp công đức,
nay con đối trước
các đấng Tối thắng
sám hối vô số
ác nạn như vậy.
(58) Nay con qui y
các đấng Thiện thệ,
kính lạy các đấng
Biển đức vô thượng;
Ngài, núi vàng lớn
chiếu sáng khắp cả,
nguyện xin từ bi
gia hộ cho con.
(59) Thân Phật rực lên
ánh sáng hoàng kim,
mắt Phật tựa như
lưu ly xanh biếc;
là đấng cát tường
uy đức đặc tôn,
Ngài đem mặt trời
của lòng đại bi
xua tan u ám
cho bao chúng sinh.
(60) Phật như mặt trời
sáng soi khắp cả,
sáng không vẩn đục,
sáng sạch bụi dơ ;
Phật như mặt trăng
sáng soi mát mẻ,
sáng tan nhiệt lực
của bao phiền não.
(61) Ba hai tướng tốt
châu thân uy nghiêm,
tám mươi tướng phụ
toàn hảo cả người,
phước đức tuyệt bậc
khó nghĩ khó bàn,
như vầng thái dương
chiếu soi thế giới.
(62) Sắc thân tựa như
lưu ly trong suốt
lại như trăng đầy
ở giữa không trung.
Thân vàng như phủ
mạng lưới pha lê
rực rỡ bởi những
ánh sáng đủ màu.
(63) Trong cái thác nước
sinh tử khổ não,
già bịnh lo rầu
trôi cuốn chúng sinh;
biển khổ như vậy
khó mà chịu nổi,
mặt trời Phật đà
chiếu cho khô cạn.
(64) Con xin lạy đấng
Trí tuệ toàn giác,
đấng Hiếm có nhất
thế giới đại thiên,
đấng mình vàng tía
sáng lên rực rỡ,
đấng trang sức mình
với bao cái đẹp.
(65) Ngài như đại dương
mênh mông khó biết,
Ngài như đại địa
bụi nhỏ khó tính,
Ngài như núi cao
trọng lượng khó cân,
Ngài như không gian
giới hạn khó cùng.
(66) Phật đức là vậy,
chúng sinh khó biết;
càng nghĩ càng xét
trong lắm đời kiếp,
càng không biết nổi
bờ biển Phật đức.
(67) Nghiền nát đại địa
toán biết cực vi,
toán biết nước giọt
của cả đại dương
số lượng Phật đức
vẫn không biết nổi.
(68) Tất cả chúng sinh
cùng nhau ca tụng
phẩm chất danh tiếng
tướng hảo thanh tịnh
uy nghiêm nhiệm mầu
của đức Thế tôn,
cũng không khả năng
hết được giới hạn.
(69) Bao nhiêu thiện nghiệp
mà con có được,
con nguyện mau chóng
thành đấng Vô thượng,
thuyết pháp phong phú
ích lợi sinh linh,
làm cho tất cả
giải thoát khổ đau.
(70) Chiến thắng ma quân
có sức mạnh lớn,
chuyển đẩy bánh xe
chánh pháp tối thượng,
ở đời với những
thì gian khó tính,
con đem cam lộ
sung mãn chúng sinh.
(71) Y như quá khứ
các đấng Tối thắng
đã viên mãn cả
sáu ba la mật,
hủy diệt tham dục
sân hận ngu si,
loại trừ phiền não,
triệt đoạn khổ lụy.
(72) Con nguyện thường được
trí biết đời trước
nhớ được quá khứ
cả trăm ngàn đời,
nhất là thường nhớ
đấng Đại mâu ni,
được nghe diệu pháp
rất sâu của Ngài.
(73) Nguyện con biết đem
thiển căn như vậy
phụng sự vô biên
các đấng Tối thắng,
viễn ly hết thảy
nghiệp nhân bất thiện,
thường được tu hành
Pháp mầu chân thật.
(74) Làm cho chúng sinh
trong mọi thế giới
khổ não thoát ly
yên vui thật hiện,
bao kẻ giác quan
không được toàn hảo
thì làm cho được
cơ thể đầy đủ.
(75) Những ai gặp phải
khổ vì bịnh tật,
thân hình ốm yếu
không nơi nương tựa,
thì con làm cho
hết cả bịnh khổ,
sức khỏe tướng tốt
cùng được đủ cả.
(76) Những ai phạm pháp
sắp bị hành hình,
khổ sở hành hạ
lo sợ dày vò ;
khi họ đau khổ
cực độ như vậy,
không biết nhờ ai
thì con cứu giúp.
(77) Ai bị đánh khảo
gông cùm xiềng xích,
đủ loại hình cụ
hành hạ thân thể,
trong khi vô số
những nỗi lo sợ
dày vò tâm trí
không chút yên vui ;
(78) thì con làm cho
thoát được giam cầm
mà bao hình cụ
đã làm khổ họ,
sắp bị hành hình
thì toàn tính mạng,
bao khổ sở khác
cũng hết vĩnh viễn.
(79) Có những chúng sinh
đói khát hoành hành,
thì con làm cho
hưởng đủ myՠvị,
làm mù được thấy
làm điếc được nghe
làm què được đi
làm ngọng được nói.
(80) Những kẻ nghèo nàn
thì được kho báu,
kho lẫm dẫy đầy
không thiếu thốn chi.
Con làm tất cả
hưởng vui thượng thặng,
không còn một ai
chịu lấy đau khổ.
(81) Người nào cũng được
mọi người thích nhìn,
dung nghi phong nhã
mà lại nghiêm chỉnh,
ai nấy cùng được
hiện tại yên vui,
đời sống phong phú
phước đức đủ cả.
(82) Tùy ý chúng sinh
nghĩ đến âm nhạc,
âm nhạc tuyệt hảo
tức thì tấu lên ;
và nghĩ đến nước
nước mát đầy hồ,
sen màu hoàng kim
nổi trên nước ấy.
(83) Tùy ý chúng sinh
nghĩ đến vật dụng,
vật dụng đủ cả
cơm áo ghế giường,
đủ vàng đủ ngọc,
đủ ngọc lưu ly,
chuỗi ngọc vòng xuyến
có đủ hết thảy.
(84) Lại làm chúng sinh
không nghe tiếng dữ,
cũng không nhìn thấy
những gì trái ý;
dung mạo có được
toàn là đoan trang,
và hướng về nhau
toàn bằng lòng từ.
(85) Lạc cụ để sống
nghĩ là có đủ,
vàng ngọc có được
không hề tiếc nuối,
phân cho tất cả
những ai cần thiết.
(86) Các loại hương liệu
và các loại hoa
từ cây rơi xuống
mỗi ngày ba lần,
tùy ý hưởng dụng
lòng tràn hoan hỷ.
(87) Con nguyện chúng sinh
đều biết hiến cúng
các đấng Tối thắng
thế giới mười phương,
hiến cúng Diệu pháp
hoàn bị cả ba
cỗ xe sáng sủa,
hiến cúng Thánh chúng
đủ cả Bồ tát
Độc giác Thanh văn.
(88) Con nguyện chúng sinh
đừng ai ở vào
những nơi hèn hạ
những chỗ tám nạn,
thường sinh làm người
có thể tu hành,
thường được phụng sự
chư vị Thế tôn.
(89) Con nguyện chúng sinh
sinh nhà sang giàu
tài sản bảo vật
đầy kho đầy lẫm,
tướng mạo, danh tiếng
không ai sánh bằng,
thọ lượng trải qua
nhiều kiếp lâu dài.
(90) Con nguyện chúng sinh
nữ biến thành nam
thông minh khỏe mạnh
đa trí đa năng,
và ai cũng đi
đường đi bồ tát
là siêng mà tu
sáu ba la mật.
(91) Con nguyện chúng sinh
thường thấy chư Phật
an tọa bảo tòa
dưới những cây ngọc --
bảo tòa sư tử
bằng chất lưu ly,
thường được thân nghe
Phật chuyển pháp luân.
(92) Quá khứ hiện tại
nếu con luân hồi
ở trong ba cõi
tạo các ác nghiệp
khả năng rước lấy
ác báo đáng ghét,
thì nguyện diệt sạch
không còn thừa sót.
(93) Ở trong biển có (34)
bao nhiêu chúng sinh
bị buộc thắt chặt
trong lưới sinh tử,
con nguyện vì họ
cắt đứt lưới ấy
bằng kiếm trí tuệ,
làm cho mau chóng
thoát khỏi sinh tử
chứng đắc tuệ giác.
(94) Đại lục Thiệm bộ
hay thế giới khác,
chúng sinh trong đó
tạo bao thắng phước,
nay con nguyện xin
tùy hỷ tất cả.
(95) Con nguyện vận dụng
sự tùy hỷ này,
và bao thiện hạnh
của than miệng ý,
làm cho thắng nghiệp
thường xuyên lớn lên,
thực hiện mau chóng
tuệ giác vĩ đại.
(96) Bao nhiêu thắng phước
lễ bái tán dương
công đức chư Phật,
với tâm sâu xa
cực kỳ trong sáng
không chút gợn bẩn,
con đem hồi hướng,
lại đem phát nguyện,
thì sáu mươi kiếp
vượt nẻo đường dữ.
(97) Nếu có thiện nam
hay thiện nữ nào,
hoặc các vọng tộc
như Bà la môn,
chắp tay dốc lòng
tán dương chư Phật,
thì sinh ở đâu
cũng nhớ đời trước,
(98) giác quan toàn hảo
cơ thể toàn myլ
và hoàn thành hết
công đức siêu việt,
thì trong vị lai
sinh ra ở đâu
chư thiên nhân loại
cũng thường chiêm ngưỡng.
(99) Người ấy không phải
ở nơi một đức
mười đức Phật đà
tu tập thiện căn
mà nay nghe được
pháp sám hối này,
mà phải ở nơi
trăm ngàn Phật đà
gieo trồng thiện căn,
mới được nghe đến
pháp mầu sám hối
như thế này đây.

Bấy giờ đức Thế tôn nghe những lời chỉnh cú ấy thì tán dương bồ tát Diệu tràng, rằng lành thay thiện nam tử, âm thanh xuất từ trống vàng mà ông mộng thấy, đã tán dương công đức Phật đà và diệu pháp sám hối. Ai nghe âm thanh như vậy cũng được rất nhiều phước đức. Âm thanh ấy lợi ích rộng lớn cho bao chúng sinh, loại trừ nghiệp chướng cho họ. Ông nên biết sự thể siêu việt này nguyên nhân là do tập quán quá khứ ông đã quen tán dương chư Phật và sám hối phát nguyện, lại do uy lực chư Phật da trì cho ông. Nguyên nhân ấy, rồi đây vì ông mà Như lai sẽ nói đến (35) .

Lúc ấy, cả đại hội nghe pháp thoại này, ai cũng hoan hỷ, tin chịu, phụng hành.


Chân thành cảm ơn quý cư sĩ Nguyễn Văn Củng, Đoàn Viết Hiệp và Nguyễn Anh Tuấn đã phát tâm chuyển tác phẩm này từ dạng Help File, VPS font sang dạng Word, VNI font. Thích Nhật Từ 3-5-2000


Phần | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 |

 


Cập nhật: 3-6-2000

Trở về mục "Kinh điển"

Đầu trang