KINH VIÊN
GIÁC
HT. Thích Trí Quang dịch giải
Phần
5
- Chương Kim
Cang Tạng Nói Về Viên Giác Vĩnh Viễn Viên Giác [^]
- Đ1. Bồ Tát Kim Cang Tạng Hỏi
- Đ2. Đức Thế Tôn Đáp
- E1. Chấp Nhận Lời Thỉnh Cầu
- E2. Đáp Chung 3 Câu Hỏi
- G1. Viên Giác Ngoài Tầm Kiến Thức Luân Hồi
- G2. Viên Giác Vĩnh Viễn Viên Giác
- H1. Viên Giác Vốn Thông Vô Minh
- H2. Viên Giác Không Tái Sinh Vô Minh
- G3. Đừng Đem Kiến Thức Luân Hồi Phân Tích
Viên Giác
- E3. Trùng Tuyên Bằng Chỉnh Cú
Bồ Tát Kim Cang Tạng Hỏi
Chính Văn.-
Lúc ấy bồ tát Kim cang tạng ở
trong đại chúng, từ chỗ ngồi đứng dậy, đem đỉnh đầu của mình lạy
ngang chân đức Thế tôn, theo chiều bên phải của ngài đi quanh ngài ba
vòng, rồi quì thẳng, chắp tay mà tác bạch: Thưa đức Thế tôn lòng thương
cao cả, ngài đã khéo vì các vị bồ tát mà tuyên dương đại tổng trì
Viên giác là căn bản sơ khởi của ngài, lại chỉ dạy phương tiện thứ
tự để tu tập đại tổng trì ấy. Ngài đã khai phá mù mờ cho chúng sinh
. Mọi người trong đại hội này nhờ vâng lãnh huấn dụ từ bi của ngài
mà màng huyễn ảo tiêu tan, mắt tuệ giác trong sáng. Thưa đức Thế tôn,
nếu chúng sinh vốn là Phật đà (39) thì vì sao lại có vô minh? Nếu vô
minh là chúng sinh vốn có thì vì sao đức Thế tôn nói chúng sinh vốn là
Phật đà? Nếu chúng sinh vốn là Phật đà, sau đó mới nổi lên vô minh ,
như thế thì chư vị Thế tôn lúc nào trở lại phát sinh phiền não? Kính
xin đức Thế tôn không xả bỏ lòng thương cao cả vốn không ngăn chận
ai hết, vì các vị bồ tát mà khai mở cho họ được thấy kho tàng viên
giác bí mật, lại làm cho những người sau này được nghe kinh pháp viên
giác liễu nghĩa, ai cũng hết hẳn mọi sự ngờ vực. Tác bạch rồi, bồ
tát Kim cang tạng gieo xuống sát đất tất cả năm bộ phận của thân thể
mà kính lạy đức Thế tôn. Bồ tát thỉnh cầu như vậy đến ba lần, mỗi
lần thỉnh cầu xong lại làm lại từ đầu.
Lược Giải.-
Lời hỏi của bồ tát Kim cang tạng
có 3 câu: câu một, chúng sinh vốn là Phật đà thì vì sao có vô minh? câu
hai, nếu vô minh vốn có thì vì sao nói chúng sinh vốn là Phật đà? câu
ba, nếu chúng sinh vốn là Phật đà, sau đó mới nổi lên vô minh, thì lúc
nào Phật đà lại nổi vô minh? Đáng ra còn 1 câu hỏi nữa: nếu chúng
sinh vốn là Phật đà thì cần gì phải tu hành mới thành Phật đà? Văn
chỉnh cú cho thấy như vậy. Và câu này nên đứng trước câu ba.
Chấp Nhận Lời Thỉnh Cầu
Chính Văn.-
Bấy giờ đức Thế tôn dạy bồ
tát Kim cang tạng: Tốt lắm, thiện nam tử, ông có thể vì các vị bồ
tát, và những người sau này, mà hỏi Như lai về viên giác rất sâu xa và
sự cứu cánh của viên giác (40) ấy. Viên giác ấy là giáo huấn tối thượng
và đại thừa liễu nghĩa truyền đạt cho bồ tát, có năng lực làm cho mười
phương các vị bồ tát đang còn tu học, và tất cả mọi người thời kỳ
cuối cùng, được lòng tin cố định, hết hẳn nghi ngờ. Ông hãy nghe kyլ
Như lai sẽ nói cho. Bồ tát Kim cang tạng vâng lời, hoan hỷ, cùng cả đại
chúng yên lặng lắng nghe.
Viên Giác Ngoài Tầm Kiến Thức
Luân Hồi
Chính Văn.-
Đức Thế tôn dạy: Thiện nam tử,
chúng sinh, và thế giới của chúng sinh (41) , mở đầu hay kết cuộc, phát
sinh hay hủy diệt, lúc trước hay lúc sau, hiện hữu hay trống không, tụ lại
hay tan ra, nổi lên hay ngưng lại, những hình thái này nối tiếp với nhau
ngay trong từng đơn vị thì gian chỉ như sự thoạt hiện hay thoạt biến của
ý nghĩ, qua lại liền liền, lấy bỏ đủ cách (42) , toàn là luân hồi
(43) . Chưa vượt luân hồi như vậy mà nói viên giác, thì tính cách viên
giác ấy cũng là tính cách luân hồi, vậy mà mong thoát khỏi luân hồi
thì thật vô lý. Sự thể ví như hoa mắt thì nước đứng mà thấy ra xao
động, đờ mắt thì lửa quay mà thấy thành vòng tròn, mây bay mà thấy trăng
chạy, đò lướt mà thấy bờ đi... ; những trạng thái xoay đảo (44) của
sự thấy như vậy nếu chưa đình chỉ mà muốn những thứ được thấy
phải đứng lại trước (45) , thì ý muốn đó còn không thể nào thực hiện
được, huống chi cái tâm trí luân hồi chưa được lắng trong, thì nhìn
vào viên giác của Như lai làm sao khỏi thấy xoay đảo. Đó là lý do lầm
lẫn trong ba câu hỏi của ông.
Lược Giải.-
Những dí vụ trong đoạn này cho thấy
kiến thức luân hồi (loại kiến thức thể hiện những phạm trù đối lập
lẫn nhau, đầy tính biến động) không thể thấy biết viên giác một
cách chính xác, nói cách khác, viên giác siêu việt mọi kiến thức luân hồi.
Đó là cách trả lời chung cả 3 câu hỏi: 3 câu hỏi toàn là kiến thức
luân hồi, mà viên giác thì ngoài tầm kiến thức ấy.
Viên Giác Vốn Thông Vô Minh
Chính Văn.-
Thiện nam tử, ví như con mắt bị
bịnh màng mắt nên nhìn không gian thấy có hoa đốm . Khi bịnh màng mắt
đã lành vĩnh viễn thì không nên hỏi màng mắt đã mất đó bao giờ lại
nổi lên nữa, vì lẽ con mắt với màng mắt không phải đi đôi với nhau.
Hơn nữa, hoa đốm đã mất đi trong không gian, thì khi ấy không nên hỏi
lúc nào không gian lại nổi lên hoa đốm, vì lẽ không gian vốn không có
hoa đốm, vì lẽ bản thể không gian vốn không phải nổi lên hay mất đi.
Mà sinh tử với niết bàn thì chỉ như sự nổi lên hay sự mất đi của
hoa đốm, còn viên giác thì vốn không có hoa đốm và màng mắt. Phải biết
không gian mà còn không phải có một cách tạm thời, cũng không phải
không một cách tạm thời, huống chi viên giác mà Như lai chứng ngộ là bản
thể bình đẳng của các pháp trong đó có không gian.
Lược Giải.-
Mắt lành vĩnh viễn thì hoa đốm mất
vĩnh viễn, còn không gian vốn không có hoa đốm, vốn không phải là sự nổi
lên hay mất đi của hoa đốm: Viên giác vốn không có vô minh, vốn không
phải là sự nổi lên hay mất đi của vô minh. Đó là sự trả lời chung cả
3 câu hỏi: đừng hỏi không gian viên giác bao giờ lại nổi lên hoa đốm
vô minh.
Đoạn này chính ý lấy không gian
ví dụ viên giác phi vô minh sinh diệt. Nhưng đó là đứng về mặt bản thể
viên giác mà nói. Còn đứng về mặt sự dụng mà nói, vô minh vì sao có,
vì sao mất, vì sao không còn tái sinh, thì không những đoạn sau nói đến,
mà ngay trong đoạn này cũng có phần lấy mắt ví dụ viên giác với 4 lớp
rõ ràng. Một, mắt vốn sáng, dẫu cũng vốn có gốc bịnh màng mắt, nếu
mắt không vốn sáng thì chữa cũng không sáng: chúng sinh vốn là Phật đà,
dẫu cũng vốn có vô minh, nếu chúng sinh không vốn là Phật đà, thì tu
hành cũng không thành Phật đà, như vậy đừng hỏi chúng sinh vốn là Phật
đà sao còn nói vốn có vô minh. Hai, dầu mắt vốn có gốc bịnh màng mắt
nhưng mắt vẫn vốn sáng: chúng sinh dẫu vốn có vô minh nhưng chúng sinh vẫn
vốn là Phật đà, như vậy đừng hỏi chúng sinh vốn có vô minh sao còn
nói chúng sinh vốn là Phật đà. Ba, mắt vốn sáng nhưng cũng vốn có gốc
bịnh màng mắt, nếu không chữa tuyệt gốc bịnh ấy thì mắt không sáng
vĩnh viễn được: chúng sinh vốn là Phật đà nhưng cũng vốn có vô minh,
nếu không tu hành diệt trừ vô minh, thì không thể thành Phật đà, như vậy
đừng hỏi chúng sinh vốn là Phật đà thì cần gì phải tu hành mới
thành Phật đà? Bốn, mắt đã chữa tuyệt hẳn gốc bịnh màng mắt và
sáng hẳn rồi, thì màng mắt không bao giờ tái phát: chúng sinh đã diệt hẳn
vô minh, trở thành Phật đà rồi thì không bao giờ tái sinh vô minh, như vậy
đừng hỏi bao giờ Phật đà lại sinh vô minh.
Viên Giác Không Tái Sinh Vô Minh
Chính Văn.-
Thiện nam tử, như lọc quặng vàng
thì vàng không phải do lọc mới là vàng, và vàng đã lọc thành vàng ròng
thì không bao giờ trở lại làm quặng nữa, để lâu đến mấy vàng ròng
đó cũng không hư hỏng. Như vậy không thể nói vàn vốn không phải là
vàng... Viên giác mà Như lai chứng ngộ cũng tương tự như vậy.
Lược Giải.-
Ví dụ này có 4 lớp càng rõ ràng.
Một, vàng vốn là vàng, dẫu cũng vốn có quặng, nếu vàng vốn không phải
là vàng thì lọc cũng không thành vàng ròng: chúng sinh vốn là Phật đà, dẫu
cũng vốn có vô minh, nếu chúng sinh không vốn là Phật đà thì tu hành cũng
không thành Phật đà, như vậy đừng hỏi chúng sinh vốn là Phật đà sao
còn nói vốn có vô minh. Hai, dẫu vàng vốn có quặng nhưng vàng vẫn vốn
là vàng: chúng sinh dẫu vốn có vô minh, nhưng chúng sinh vẫn vốn là Phật
đà, như vậy đừng hỏi chúng sinh vốn có vô minh sao còn nói chúng sinh vốn
là Phật đà. Ba, vàng vốn là vàng nhưng cũng vốn có quặng, nếu không lọc
quặng ấy thì vàng không thành vàng ròng được: chúng sinh vốn là Phật
đà nhưng cũng vốn có vô minh, nếu không tu hành diệt trừ vô minh thì
không thể thành Phật đà, như vậy đừng hỏi chúng sinh vốn là Phật đà
thì cần gì phải tu hành mới thành Phật đà. Bốn, vàng đã lọc hết quặng
và thành vàng ròng rồi thì quặng không bao giờ tái sinh: chúng sinh đã diệt
hẳn vô minh, trở thành Phật đà rồi thì không bao giờ vô minh tái sinh,
như vậy đừng hỏi bao giờ Phật đà lại sinh vô minh.
Đại thừa chỉ quán nói tuệ giác
và vô minh đều là dụng của Tâm, nhưng tuệ giác là thuận dụng (cái dụng
thuận với tâm thể) nên vô thỉ mà vô chung (vốn có mà không mất); còn
vô minh là nghịch dụng (cái dụng nghịch với tâm thể) nên vô thỉ mà hữu
chung (vốn có mà bị diệt).
Đừng Đem Kiến Thức Luân Hồi
Phân Tích Viên Giác
Chính Văn.-
Thiện nam tử, viên giác mà Như lai
chứng ngộ vốn không có bồ đề với niết bàn, vốn không có sự thành
Phật đà hay sự không thành Phật đà, vốn không có sự luân hồi và sự
không phải luân hồi. Thiện nam tử, sự viên thành của các vị thanh văn
là tiêu diệt tất cả thân tâm ngôn ngữ, mà không bao giờ đạt đến viên
giác của Như lai đích thân chứng ngộ (46) , huống chi tâm trí tư duy thì
làm sao lường được viên giác ấy. Đem lửa đom đóm đốt núi Tu di thì
không bao giờ đốt được: vận dụng tâm trí luân hồi phát sinh kiến thức
luân hồi mà mong nhập vào biển cả vắng lặng vĩ đại (47) của Như lai
thì không bao giờ vào được. Vì lý do ấy, Như lai nói rằng tất cả bồ
tát, và những người sau này, việc phải làm trước hết là loại trừ gốc
rễ luân hồi.
Thiện nam tử, tư duy xuất từ tâm
thức, tư duy ấy toàn là ảo tưởng vin theo sáu đối cảnh, không phải đích
thực là tâm thể. Tư duy ấy đã như hoa đốm, vận dụng tư duy ấy mà
mong đạt được viên giác của Như lai chứng ngộ, thì không khác gì hoa
đốm sinh trái đốm: ảo tưởng sinh ảo tưởng, không thể đạt được
viên giác. Thiện nam tử, ảo tưởng có lắm kiến thức khéo léo, không thể
là phương tiện của viên giác. Nên lối phân tích như ông không phải đặt
đúng
vấn đề.
Lược Giải.-
Tâm trí, tư duy, hay kiến thức luân
hồi, chính là trí thức chúng ta đây. Trí thức ấy chưa phải vô minh.
Trí thức ấy hiện thân của ái dục (gốc rễ luân hồi) mới là vô minh.
Nên trí thức chúng ta không phải vô giá trị tu chứng viên giác, nhưng phải
lọc bỏ ái dục ra. Thì trí thức ấy là phương tiện tu chứng, là sẽ trở
thành tuệ giác.
Trùng Tuyên Bằng Chỉnh Cú
Chính Văn.-
Đức Thế tôn muốn lặp lại ý
nghĩa đã nói nên nói những lời chỉnh cú sau đây.
- Kim cang tạng này,
- nên biết bản thể
- viên giác vắng lặng
- Như lai chứng ngộ
- vốn không mở đầu
- cũng không kết cuộc.
- Đem tâm luân hồi
- tư duy viên giác,
- ấy là luân hồi,
- chỉ đến luân hồi,
- không thấu biển cả
- vắng lặng của Phật.
- Như lọc quặng vàng,
- vàng không do lọc
- mới được là vàng;
- vàng vốn là vàng,
- nhưng phải do lọc
- mới thành vàng ròng,
- khi vàng lọc quặng
- đã thành vàng ròng,
- thì không bao giờ
- trở lại làm quặng.
- Sinh tử niết bàn
- chúng sinh Phật đà,
- đồng là hoa đốm
- ở trong không gian (48) .
- Cái sự tư duy
- đã như huyễn ảo,
- huống chi còn đem
- sự tư duy ấy
- chất vấn những sự
- huyễn ảo khác nữa.
- Nếu tự hiểu được
- sự tư duy ấy,
- sau đó mới mong
- nhập được viên giác.
Lược Giải.-
Văn chỉnh cú này nhấn mạnh điểm
chủ yếu: viên giác siêu việt mọi tư duy, và ấn tượng tư duy ấy, của
kiến thức luân hồi. Nên hỏi viên giác sinh vô minh, diệt vô minh, hay tái
sinh vô minh, toàn là những vấn đề đặt không chính xác.
- Chương Di Lạc
Nói Về Chủng Tánh Tu Chứng Viên Giác [^]
- Đ1. Bồ Tát Di Lạc Hỏi
- Đ2. Đức Thế Tôn Đáp
- E1. Chấp Nhận Lời Thỉnh Cầu
- E2. Đáp 4 Câu Hỏi
- G1. Đáp Câu Hỏi Một Và Hai
- G2. Đáp Câu Hỏi Ba
- G3. Đáp Câu Hỏi Bốn
- G4. Khuyến Cáo Gặp Thầy Bạn Tốt
- E3. Trùng Tuyên Bằng Chỉnh Cú
Lược Giải.-
Chương này tuy nói tu chứng viên
giác là tự mình, và làm cho người, diệt gốc luân hồi là ái dục, nhưng
quan trọng là nói chủng tánh (tư cách) tu chứng viên giác. Lại quan trọng
hơn nữa, ở chỗ nói chủng tánh ấy không cốt để thấy người tu chứng
được người không, mà cốt để thấy ai cũng tu chứng được vì ai cũng
vốn là Phật đà.
Bồ Tát Di Lạc Hỏi
Chính Văn.-
Lúc ấy bồ tát Di lạc ở trong đại
chúng, từ chỗ ngồi đứng dậy, đem đỉnh đầu của mình lạy ngang chân
đức Thế tôn, theo chiều bên phải của ngài đi quanh ngài ba vòng, rồi
quì thẳng, chắp tay mà tác bạch: Thưa đức Thế tôn lòng thương cao cả,
ngài đã khai mở một cách rộng rãi kho tàng bí mật cho các vị bồ tát,
làm cho đại chúng này tỉnh ngộ sâu xa về luân hồi, phân biệt được sự
lầm lẫn và sự chính xác. Ngài đã ban cho những người thời kỳ cuối cùng
con mắt tuệ giác không còn e sợ, làm cho họ phát sinh lòng tin cố định
đối với niết bàn vĩ đại, không còn tùy theo sự luân hồi mà nổi lên
kiến thức xoay đảo (49) . Thưa đức Thế tôn, nếu các vị bồ tát, và
những người thời kỳ cuối cùng, muốn du hành trong biển cả vắng lặng
vĩ đại của đức Thế tôn, thì họ phải hủy diệt như thế nào đối với
căn bản của luân hồi? Trong luân hồi có mấy đẳng cấp (50) ? Tu tập tuệ
giác Phật đà có mấy chủng tánh (51) ? Khi quay lại, trở vào nơi bụi bặm
mệt nhọc, thì phải vận dụng mấy phương tiện hóa độ để hóa độ
chúng sinh? Xin đức Thế tôn đừng bỏ lòng thương cao cả cứu độ người
đời mà làm cho những người tu tập, là các vị bồ tát và những người
sau này, được con mắt tuệ giác trong sáng, được đài gương tâm trí chiếu
tỏ, tỉnh ngộ một cách tròn đầy về sự thấy biết vô thượng của đức
Thế tôn. Tác bạch rồi, bồ tát Di lạc gieo xuống sát đất tất cả năm
bộ phận của thân thể mà kính lạy đức Thế tôn. Bồ tát thỉnh cầu
như vậy đến ba lần, mỗi lần thỉnh cầu xong lại làm lại từ đầu.
Lược Giải.-
Lời hỏi của bồ tát Di lạc có 4
câu: câu một, hủy diệt như thế nào đối với căn bản của luân hồi?
câu hai, luân hồi có mấy đẳng cấp? câu ba, tu chứng viên giác có mấy
chủng tánh? câu bốn, trở lại luân hồi hóa độ chúng sinh bằng mấy
cách?
Nên chú ý, chương này chỉ hỏi mấy
chủng tánh tu chứng viên giác, chưa hỏi sự tu chứng ấy có mấy đẳng cấp.
Đẳng cấp ấy có mấy thì sẽ được hỏi đáp trong chương Thanh tịnh tuệ,
ngay sau chương này.
Chấp Nhận Lời Thỉnh Cầu
Chính Văn.-
Bấy giờ đức Thế tôn dạy bồ
tát Di lạc: Tốt lắm, thiện nam tử, ông có thể vì các vị bồ tát, và
những người sau này, mà xin hỏi Như lai về ý nghĩa sâu kín tinh tế, để
làm cho các vị bồ tát rửa sạch con mắt tuệ giác, lại làm cho những người
sau này diệt hẳn luân hồi và tâm ngộ thực tướng (52) bằng tuệ giác
Không sinh (53) . Ông hãy nghe kyլ Như lai sẽ nói cho. Bồ tát Di lạc vâng lời,
hoan hỷ, cùng cả đại chúng yên lặng lắng nghe.
Đáp Câu Hỏi Một Và Hai
Chính Văn.-
Đức Thế tôn dạy: Thiện nam tử,
vô thỉ đến giờ, chúng sinh vì có mọi thứ ái dục nên có luân hồi. Mọi
loài chúng sinh trong mọi thứ thế giới, sinh bằng trứng, sinh bằng thai,
sinh bằng thấp khí (54) , sinh bằng biến hóa, tất cả toàn do dâm dục
làm động lực chính mà có tính mạng. Do đó mà biết gốc rễ luân hồi
là ái. Ái được dục hỗ trợ nên làm cho sinh tử liên tục: dục do ái,
mạng do dục; chúng sinh ái mạng nên quay lại ái dục, ái dục là nhân,
ái mạng là quả.
Vì đối với đối cảnh của dục
mà nổi dậy sự chống đối hay sự thích ứng. Đối cảnh trái với ái
thì chống đối bằng sự ghét bỏ, gây ra mọi thứ nghiệp ác, đó là lý
do có địa ngục, có ngạ quỉ, có súc sinh (55) . Biết dục đáng chán
ghét, ái sự chán ghét ba đường đi của nghiệp ác (56) , ghét bỏ nghiệp
ác mà ưa thích nghiệp là nh, nên có chư thiên, có nhân loại. Lại biết mọi
sự ái đều đáng ghét bỏ, ghét bỏ cái ái và ưa thích cái bỏ, nghĩa là
vẫn trở lại thêm cho gốc ái, nên có những thiện quả hơn lên (57) , và
vẫn là nghiệp tạo ra, nên toàn là luân hồi, không thành đường đi của
các vị thánh giả (58) .
Vì vậy, chúng sinh muốn thoát khỏi
sinh tử luân hồi thì trước hết phải hủy diệt dục và ái. Còn bồ
tát sinh trong luân hồi thì không phải do ái mà là do từ bi, muốn làm cho
chúng sinh bỏ ái nên mượn dục để vào lại sinh tử luân hồi. Những người
thời kỳ cuối cùng bỏ được dục, trừ được ái gồm cả sự ghét bỏ
và sự ưa thích của nó, hủy diệt luân hồi vĩnh viễn, bằng cách siêng
cầu viên giác của Như lai chứng ngộ, thì thế là đối với tâm thể
trong sáng ấy họ được tỏ ngộ.
Lược Giải.-
Hủy diệt căn bản của luân hồi
là hủy diệt ái dục, bằng cách siêng tu viên giác. Đó là đáp câu hỏi
một của ngài Di lạc: hủy diệt như thế nào đối với căn bản của luân
hồi.
Luân hồi có 3 đẳng cấp. Một, đẳng
cấp ác nghiệp, là 3 đường ác địa ngục, ngạ quỉ, và súc sinh, kết
quả của sự vì ái ngã mà làm nghiệp ác. Hai, đẳng cấp thiện nghiệp,
là 2 đường lành chư thiên và nhân loại của cõi Dục, kết quả của sự
vì ái ngã mà ghét làm nghiệp ác ưa làm nghiệp lành. Ba, đẳng cấp bất
động nghiệp, là 4 thiền của cõi Sắc và 4 không của cõi Vô sắc, kết
quả của sự vì ái ngã mà ghét cái ghét ưa, ưa cái bỏ ghét ưa đó, qua
sự tu thiền định hữu lậu (làm nghiệp bất động). Đó là đáp câu hỏi
hai của ngài Di lạc: luân hồi có mấy đẳng cấp.
Trong đoạn cuối, có mở đóng
vòng đơn nói bồ tát vào lại luân hồi không vì ái lực mà vì từ lực.
Đáp Câu Hỏi Ba
Chính Văn.-
Thiện nam tử, chúng sinh do ái dục
phát triển vô minh mà thành năm chủng tánh khác nhau, và do hai chướng ngại
mà trình bày sâu cạn. Hai chướng ngại (59) là gì ? Một là chướng ngại
chân lý, chướng ngại cho sự thấy biết chính xác. Hai là chướng ngại sự
dụng, tiếp nối cho sự sinh tử luân hồi. Năm chủng tánh (60) là gì? Nếu
cả hai chướng ngại chưa được hủy diệt, thì gọi là những kẻ chưa
thành Phật đà. Nếu vĩnh viễn loại bỏ ái dục, hủy diệt chướng ngại
sự dụng mà chưa hủy diệt chướng ngại chân lý, thì chỉ nhập vào
thanh văn duyên giác, chưa nhập vào bồ tát. Nếu muốn du nhập biển cả
viên giác vĩ đại của Như lai chứng ngộ nên trước đó lập chí nỗ lực
hủy diệt hai chướng ngại, hai chướng ngại đã hàng phục thì nhập vào
bồ tát ẫ còn hai chướng ngại đã hủy diệt vĩnh viễn thì nhập vào
viên giác của Như lai, tròn đầy đại bồ đề và đại niết bàn. Tất cả
chúng sinh đều có khả năng chứng ngộ viên giác, nhưng gặp thầy bạn tốt
(61) , và tu tập theo pháp hạnh căn bản sơ khởi của họ, nên sự tu tập
ấy có liền liền và có dần dần -- nếu gặp Như lai chỉ dẫn con đường
tu tập chính xác về tuệ giác vô thượng, thì bất kể trình độ cao thấp,
toàn là thành tựu quả vị Phật đà. Nếu người nào dẫu cũng đi tìm thầy
bạn tốt, nhưng gặp phải kẻ kiến thức sai lầm, thì người ấy chưa
được sự tỏ ngộ chính xác, như thế gọi là chủng tánh ngoại đạo, và
đó là lỗi của thầy bạn sai lầm, không phải lỗi ở người ấy. Như
thế đó gọi là năm chủng tánh khác nhau của chúng sinh.
Lược Giải.-
Năm chủng tánh là: Một, chủng
tánh phàm phu, chưa động đến 2 chướng nên chỉ được gọi chung là những
người chưa thành Phật đà (chưa, không phải không). Hai, chủng tánh nhị
thừa (thanh văn và duyên giác), chỉ đàn áp sự chướng, chưa đàn áp lý
chướng, nên chưa nhập chủng tánh bồ tát (chưa, không phải không). Ba, chủng
tánh bồ tát, đã đàn áp 2 chướng (còn hủy diệt 2 chướng là Phật đà).
Bốn, chủng tánh đốn tiệm, đốn tiệm bất định, chỉ tùy thiện tri thức
được gặp mà thành đốn tu hay thành tiệm tu (nếu gặp Phật thì thành
đốn tu cả). Năm, chủng tánh ngoại đạo, cũng có chí cầu tuệ giác, nhưng
gặp phải ác tri thức nên thành ngoại đạo, chưa được chánh tri kiến
(chưa, không phải không). Như vậy 2 chủng tánh bồ tát và đốn tiệm thì
đã có thể, còn 3 chủng tánh phàm phu, nhị thừa và ngoại đạo thì chưa
có thể mà sẽ có thể, nên cả 5 chủng tánh đều có thể tu chứng viên
giác. Nói rõ hơn, căn cứ bản chất mà nói thì tuy ai cũng có quặng nhưng
ai cũng đã là vàng; căn cứ khả năng mà nói thì ai cũng có thể lọc quặng
để vàng thành vàng ròng; căn cứ trợ duyên mà nói thì nếu gặp thiện
tri thức hướng dẫn; căn cứ thì gian mà nói thì tuy hiện hữu 5 chủng
tánh khác nhau mà tương lai tất cả chủng tánh phàm phu, nhị thừa và ngoại
đạo đều có thể chuyển thành các chủng tánh bồ tát hay đốn tiệm: nên
tất cả 5 chủng tánh đều có thể tu chứng viên giác. Đó là đáp câu hỏi
ba của ngài Di lạc : tu viên giác có mấy chủng tánh.
Có 1 chuyện nên ghi ở đây. Sử
truyện của ngài Huyền tráng nói, đối trước tượng đức Quán âm, ngài
cầm xâu hoa, quì nguyện 3 điều ... Điều 3 nguyện rằng, kinh sách có chỗ
nói trong chúng sinh có 1 thành phần không có Phật tánh, nhưng con ngờ vực,
không biết có hay không. Vậy nếu 1 thành phần ấy cũng có Phật tánh, tu
hành có thể thành Phật, thì xin cho xâu hoa này được mắc vào nơi cổ của
tôn tượng. Nguyện rồi, ngài Huyền tráng nâng xâu hoa, từ xa tung vào,
được đúng như lời. Ai thấy cũng vỗ tay, dậm chân, mà hô rằng thật
là hiếm có, sau này ngài thành Phật thì xin nhớ cơ hội hôm nay mà cứu
độ chúng tôi trước (Đại 50/329).
Đáp Câu Hỏi Bốn
Chính Văn.-
Thiện nam tử, bồ tát chỉ lấy đại
bi làm phương tiện mà vào các thế giới luân hồi, khai phát cho những người
chưa tỏ ngộ (62) . Đến nỗi biểu hiện thân thể đủ mọi thứ hình tướng
(63) , biểu hiện cảnh ngộ đủ mọi sự thuận nghịch (64) , biểu hiện
đồng việc với họ mà giáo hóa cho họ trở thành Phật đà. Tất cả sự
biểu hiện này toàn là sức mạnh của đại nguyện xuất từ đại bi.
Lược Giải.-
Bồ tát trở lại luân hồi hóa độ
chúng sinh bằng các phương tiện đại bi, đại nguyện, hiện thân, hiện cảnh,
hiện đồng sự. Đó là đáp câu hỏi bốn của ngài Di lạc: trở lại
luân hồi hóa độ chúng sinh bằng mấy cách.
Khuyến Cáo Gặp Thầy Bạn Tốt
Chính Văn.-
Những người thời kỳ cuối cùng,
nếu nổi lên tâm chí tăng thượng đối với đại viên giác, thì phải
phát đại nguyện trong sáng của bồ tát. Nên nói như vầy: Cầu nguyện
cho con nay đứng trong viên giác của Phật, tìm và gặp được thầy bạn tốt,
không gặp phải ngoại đạo và nhị thừa. Rồi y theo đại nguyện như vậy
mà tu tập, thì dần dần hủy diệt hai chướng ngại. Hai chướng ngại hủy
diệt hết cả thì đại nguyện tròn đầy, thế là bước lên chánh điện
trong sáng của đại giải thoát, nhập vào thành trì tráng lệ của đại
viên giác.
Lược Giải.-
Tri thức (thầy bạn) rất quan trọng,
vì gặp thiện tri thức thì thành chủng tánh bồ tát, chủng tánh đốn tiệm;
gặp ác tri thức thì thành chủng tánh phàm phu, chủng tánh nhị thừa, và
nhất là chủng tánh ngoại đạo. Muốn được Thiện tri thức thì phải
phát đại nguyện như các vị bồ tát: nguyện ở trong viên giác mà gặp
được thiện tri thức, không gặp phải ngoại đạo và nhị thừa. Đại
nguyện này không những để gặp được thiện tri thức mà còn là tiêu
chuẩn để biết ai là thiện tri thức (như sẽ được nói đến trong
chương Phổ giác).
Trùng Tuyên Bằng Chỉnh Cú
Chính Văn.-
Đức Thế tôn muốn lặp lại ý
nghĩa đã nói nên nói những lời chỉnh cú sau đây.
- Di lạc nên biết,
- chúng sinh không được
- giải thoát vĩ đại
- là vì ái dục
- làm cho sa vào
- sinh tử luân hồi.
- Nếu diệt ái dục
- gồm cả ưa ghét
- của ái dục ấy
- là tham sân si,
- thì bất kể đến
- chủng tánh dị biệt,
- tất cả vẫn được
- tuệ giác Phật đà.
- Muốn diệt vĩnh viễn
- hai loại chướng ngại,
- nên tìm và gặp
- vị thầy xứng đáng,
- thì sẽ có được
- tỏ ngộ chính xác,
- thuận với đại nguyện
- của các bồ tát,
- và rồi trú ở
- trong đại niết bàn.
- Bồ tát vận dụng
- đại bi đại nguyện,
- thị hiện nhập vào
- sinh tử luân hồi.
- Những người tu tập
- trong thời hiện tại,
- và người tu tập
- trong thời cuối cùng,
- nếu biết nỗ lực
- hủy diệt ái kiến (65) ,
- thế là qui về
- viên giác quảng đại.
-
-
- Chương
Thanh Tịnh Tuệ Nói Về Đẳng Cấp Tu Chứng Viên Giác [^]
- Đ1. Bồ Tát Thanh Tịnh Tuệ Hỏi
- Đ2. Đức Thế Tôn Đáp
- E1. Chấp Nhận Lời Thỉnh Cầu
- E2. Đáp 1 Câu Hỏi
- G1. Nói Tổng Quát
- G2. Nói 4 Đẳng Cấp Của Tiệm Căn Tu Chứng Viên
Giác
- H1. Phàm Phu Tu Chứng Viên Giác
- H2. Bồ Tát Trước Thập Địa Tu Chứng Viên Giác
- H3. Bồ Tát Trong Thập Địa Tu Chứng Viên Giác
- H4. Phật Địa Viên Chứng Viên Giác
- G3. Nói Không Đẳng Cấp Của Đốn Căn Tu Chứng
Viên Giác
- E3. Trùng Tuyên Bằng Chỉnh Cú
Lược Giải.-
Chương này mới thật hỏi đáp về
đẳng cấp khác nhau của sự tu chứng viên giác.
Bồ Tát Thanh Tịnh Tuệ Hỏi
Chính Văn.-
Lúc ấy bồ tát Thanh tịnh tuệ ở
trong đại chúng, từ chỗ ngồi đứng dậy, đem đỉnh đầu của mình lạy
ngang chân đức Thế tôn, theo chiều bên phải của ngài đi quanh ngài ba
vòng, rồi quì thẳng, chắp tay mà tác bạch: Thưa đức Thế tôn lòng thương
cao cả, ngài đã nói cho chúng con, một cách rộng rãi, về những sự
ngoài tầm tư duy thảo luận mà trước đây chúng con chưa được nghe thấy.
Ngày nay chúng con nhờ sự huấn dụ khéo léo của đức Thế tôn mà thân
thể và tâm trí đều thư thái, được đại ích lợi. Con thỉnh cầu đức
Thế tôn chỉ dạy thêm nữa cho đại chúng này biết, đối với viên giác
của đấng Pháp vương, các loại chúng sinh, các vị bồ tát và các đức
Thế tôn, thực hiện khác nhau thế nào? Sự chỉ dạy này của đức Thế
tôn sẽ làm cho người thời kỳ cuối cùng, đối với viên giác, có thể
tùy thuận, tỉnh ngộ, và tuần tự mà nhập vào. Tác bạch rồi, bồ tát
Thanh tịnh tuệ gieo xuống sát đất tất cả năm bộ phận của thân thể
mà kính lạy đức Thế tôn. Bồ tát thỉnh cầu như vậy đến ba lần, mỗi
lần thỉnh cầu xong lại làm lại từ đầu.
Lược Giải.-
Lời hỏi của bồ tát Thanh tịnh
tuệ chỉ có 1 câu: chúng sinh, bồ tát và Phật đà tu chứng viên giác
khác nhau thế nào? Hỏi cách khác, tu chứng viên giác có mấy đẳng cấp.
Chấp Nhận Lời Thỉnh Cầu
Chính Văn.-
Bấy giờ đức Thế tôn dạy bồ
tát Thanh tịnh tuệ: Tốt lắm, thiện nam tử, ông có thể vì các vị bồ
tát và những người sau này, mà hỏi Như lai về thứ tự sai biệt trong sự
thực hiện viên giác. Ông hãy nghe kyլ Như lai sẽ nói cho. Bồ tát Thanh tịnh
tuệ vâng lời, hoan hỷ, cùng cả đại chúng yên lặng lắng nghe.
Đáp 1 Câu Hỏi
Lược Giải.-
Để đáp câu hỏi tu chứng viên
giác có mấy đẳng cấp (chúng sinh, bồ tát và Phật đà tu chứng viên
giác khác nhau thế nào), Phật nói viên giác không có đẳng cấp, đẳng cấp
chỉ do công phu đang diệt vô minh và đã diệt vô minh mà có, và có khác
nhau. Đẳng cấp ấy có 4: phàm phu, bồ tát trước thập địa, bồ tát
trong thập địa và Phật địa. Đó là 4 đẳng cấp của sự tiệm tu, ngoài
ra còn có không đẳng cấp của sự đốn tu nữa.
Nói Tổng Quát
Chính Văn.-
Đức Thế tôn dạy: Thiện nam tử,
bản thể viên giác không phải là các chủng tánh, nhưng chủng tánh nào cũng
có viên giác, nên tùy các chủng tánh phát khởi mà có sai biệt, chứ thật
ra không có thủ chứng gì hết. Vì lẽ trong viên giác, bồ tát và chúng
sinh không phải có thật; bồ tát và chúng sinh toàn là huyễn ảo: khi huyễn
ảo hủy diệt thì không có ai là kẻ thủ chứng, tựa như con mắt đâu
có tự thấy con mắt. Nên đặc tính của viên giác là không sai biệt, một
sự không sai biệt không phải do ai tạo ra. Nhưng chúng sinh mê mờ thác loạn,
chưa thể hoàn toàn hủy diệt huyễn ảo, và trong giai đoạn chưa hủy diệt
mà đang hủy diệt đó, công phu tự lộ ra sai biệt. Đến khi thích ứng
được với viên giác dứt bặt (66) của Như lai, thì không còn sự dứt bặt,
không còn người dứt bặt.
Lược Giải.-
Theo nguyên lý thì viên giác không
có đẳng cấp tu chứng. Đẳng cấp tu chứng chỉ do công phu đang và đã hủy
diệt vô minh huyễn ảo mà có.
Phàm Phu Tu Chứng Viên Giác
(Có Thể Gọi Là Tín Vị)
Chính Văn.-
Thiện nam tử, vô thỉ đến giờ,
chúng sinh ảo tưởng tự ngã và đam mê tự ngã, không bao giờ tự biết tự
ngã chỉ là trạng thái phát sinh và hủy diệt liên tiếp trong từng đơn vị
ngắn nhất của thì gian, do đó mà nổi lên mặt thì ghét bỏ mặt thì ưa
thích, vướng mắc năm thứ dục lạc. Nếu gặp được thầy bạn tốt dạy
cho biết bản thể viên giác trong sáng, phát giác thực chất của sự nổi
lên và sự hủy diệt, tức thì thấu hiểu đời sống này tự nó tạo ra
tư tưởng mệt nhọc, và ước mong hủy diệt tư tưởng mệt nhọc ấy bằng
cái biết bản thể viên giác trong sáng. Nhưng cái biết này tự chướng ngại
(67) cho họ, nên họ không được tự tại đối với viên giác. Đó là sự
thích ứng viên giác của phàm phu.
Lược Giải.-
Biết sự trong sáng của bản thể
viên giác, cái biết này, ở đây, chỉ là công phu của ý thức, chưa thành
tuệ giác. Đó là phàm phu thích ứng viên giác.
Bồ Tát Trước Thập Địa Tu Chứng
Viên Giác
(Có Thể Gọi Là Hiền Vị)
Chính Văn.-
Thiện nam tử, các vị bồ tát thì
biết cái biết trên là chướng ngại, dẫu hủy diệt chướng ngại của cái
biết trên, nhưng còn đứng nơi cái biết của mình, nên cái biết biết sự
chướng ngại này lại thành chướng ngại mà chưa được tự tại. Đó
là sự thích ứng viên giác của các vị bồ tát bước chưa tới thập địa.
Lược Giải.-
Đứng nơi sự biết là tuệ giác
phải dụng công: tuệ giác còn gián đoạn, tuệ giác tỷ lượng (suy luận).
Đó là bồ tát trước thập địa thích ứng viên giác.
Bồ Tát Trong Thập Địa Tu Chứng
Viên Giác
(Có Thể Gọi Là Thánh Vị).
Chính Văn.-
Thiện nam tử, cái biết nào cũng là
chướng ngại, nên các vị bồ tát thường biết mà không đứng lại nơi
cái biết, thì cái biết và người biết cùng lúc vắng lặng, tựa như có
người tự chặt đầu mình, đầu đứt rồi kẻ chặt đứt cũng không:
đem cái biết biết sự chướng ngại mà tự diệt sự chướng ngại, sự
chướng ngại diệt rồi, cái biết diệt chướng ngại cũng không. Biết
kinh pháp cũng chỉ như ngón tay chỉ mặt trăng, hãy nhìn mặt trăng và biết
ngón tay không bao giờ là mặt trăng cả; biết mọi ngôn ngữ của Như lai
chỉ dạy cho bồ tát toàn là như vậy. Đó là sự thích ứng viên giác của
bồ tát bước đã tới thập địa.
Lược Giải.-
Biết mà không đứng lại nơi sự
biết là tuệ giác không cần dụng công nữa, tuệ giác đã nhiệm vận: tuệ
giác hiện lượng (trực giác). Đó là bồ tát trong thập địa thích ứng
viên giác.
Phật Địa Viên Chứng Viên Giác
Chính Văn.-
Thiện nam tử, biết một cách triệt
để về mọi sự chướng ngại: chánh niệm với vọng niệm toàn là giải
thoát, hoàn thành với thoái thất toàn là niết bàn, tuệ giác với u mê
toàn là bát nhã, bồ tát thành đạt với ngoại đạo thành đạt toàn là
bồ đề, chân như với vô minh toàn là bản thể, giới định tuệ với dâm
nộ si toàn là phạn hạnh, chúng sinh với quốc độ toàn là pháp tánh, địa
ngục với thiên cung toàn là tịnh độ, có chủng tánh với không chủng
tánh toàn thành Phật đà, tất cả phiền não cứu cánh là giải thoát: biển
cả tuệ giác soi tỏ những khái niệm đối lập lẫn nhau toàn như không
gian. Đó là sự thích ứng viên giác của Như lai.
Lược Giải.-
Biết một cách triệt để về mọi
sự chướng ngại là tuệ giác soi tỏ những khái niệm đối lập lẫn
nhau toàn như không gian, toàn là viên giác. Đó là Phật đà thích ứng
viên giác.
Cái biết của Phật, như vậy, là
"bất nhị tùy thuận" (mà lời mở đầu kinh này đã mô tả). So lại
thì thấy 3 cái biết ở trước là "nhị tướng tùy thuận" (phản
ảnh những khái niệm đối lập lẫn nhau). Cũng phải biết thêm, cái biết
của Phật mà nói như đoạn này là chỉ nói căn bản vô phân biệt trí
viên chứng viên thành thật tánh, chưa nói hậu đắc vô phân biệt trí
viên chứng y tha khởi tánh.
Nói Không Đẳng Cấp Của Đốn
Căn Tu Chứng Viên Giác
Chính Văn.-
Thiện nam tử, các vị bồ tát, và
những người thời kỳ cuối cùng, nếu có ai không lúc nào nổi lên vọng
niệm, đối với vọng niệm cũng không trừ khử, sống trong vọng cảnh
mà không phân biệt, cũng không nói không phân biệt là thật, thì người này
nghe pháp thoại Viên giác này sẽ tin tưởng, lý giải, tiếp nhận ghi nhớ,
không kinh ngạc, sợ hãi, và như thế chính là thích ứng viên giác. Thiện
nam tử, ông nên biết người này đã hiến cúng trăm ngàn vạn ức hằng
sa Phật đà và Đại sĩ, gieo trồng gốc rễ công đức, và Như lai gọi
người này là người thành tựu tuệ giác Biết tất cả chủng loại (68)
.
Lược Giải.-
Đốn căn tu chứng là trực hạ thừa
đương (nhận lãnh ngay, cáng đáng liền) đối với kinh này. Thế nhưng phải
coi chừng kẻo dễ bị thiền bịnh "buông" đó.
Trùng Tuyên Bằng Chỉnh Cú
Chính Văn.-
Đức Thế tôn muốn lặp lại ý
nghĩa đã nói nên nói những lời chỉnh cú sau đây.
- Thanh tịnh tuệ này,
- nên biết bản thể
- tuệ giác viên mãn
- không có thủ chứng,
- không có bồ tát
- không có chúng sinh;
- vì đang chứng ngộ (69)
- hay đã chứng ngộ,
- do đó mà có
- thứ tự khác nhau.
- Phàm phu thì bị
- cái biết chướng ngại;
- bồ tát cấp thấp
- chưa rời cái biết;
- bồ tát thập địa
- vĩnh viễn dứt bặt,
- không còn đứng lại
- mọi cái biết trên;
- Như lai đại giác
- mới trọn thích ứng.
- Những ai sau này
- tâm không vọng niệm,
- Như lai tuyên bố
- những người như vậy
- hiện tại đã là
- một vị bồ tát,
- quá khứ hiến cúng
- hằng sa Phật đà,
- và có đủ cả
- mọi phẩm chất tốt.
- Nói tóm bao nhiêu
- phong cách trên đây
- đều được gọi là
- thích ứng viên giác.
- Chương Uy Đức
Tự Tại Nói Về 3 Mặt Thiền Quán Viên Giác [^]
- Đ1. Bồ Tát Uy Đức Tự Tại Hỏi
- Đ2. Đức Thế Tôn Đáp
- E1. Chấp Nhận Lời Thỉnh Cầu
- E2. Đáp 1 Câu Hỏi
- G1. Dạy 3 Phương Tiện
- H1. Nói Tổng Quát
- H2. Nói 3 Phương Tiện
- I1. Nói Cực Tĩnh Xa Ma Tha
- I2. Nói Cực Động Tam Ma Bát Đề
- I3. Nói Cực Thuần Thiền Na
- G2. Đề Cao 3 Phương Tiện
- E3. Trùng Tuyên Bằng Chỉnh Cú
Bồ Tát Uy Đức Tự Tại Hỏi
Chính Văn.-
Lúc ấy bồ tát Uy đức tự tại
ở trong đại chúng, từ chỗ ngồi đứng dậy, đem đỉnh đầu của mình
lạy ngang chân đức Thế tôn, theo chiều bên phải của ngài đi quanh ngài
ba vòng, rồi quì thẳng, chắp tay mà tác bạch: Thưa đức Thế tôn lòng thương
cao cả, ngài đã vì chúng con mà phân tích những sự thích ứng viên giác
như vậy, làm cho các vị bồ tát tuệ giác sáng tỏ, nhờ tiếng nói tròn
đầy của đức Thế tôn mà không qua sự tu tập vẫn được ích lợi tốt
đẹp. Thưa đức Thế tôn, ví như thành trì to lớn, phía ngoài có bốn cửa,
ai cũng có thể tùy phương hướng mình muốn mà đi vào thành trì ấy, chứ
không phải chỉ có một đường. Các vị bồ tát cũng vậy, trang hoàng quốc
độ và hoàn thiện tuệ giác (70) , hai sự đó không phải chỉ bằng phương
tiện duy nhất. Do đó, con thỉnh cầu đức Thế tôn dạy cho chúng con biết,
có bao nhiêu phương tiện và người thực hành phương tiện ấy? Dạy về
điều này, đức Thế tôn sẽ làm cho các vị bồ tát trong đại hội này,
và những người thời kỳ cuối cùng cầu pháp đại thừa, mau chóng tỏ
ngộ, du ngoạn trong biển cả vắng lặng vĩ đại của đức Thế tôn. Tác
bạch rồi, bồ tát Uy đức tự tại gieo xuống sát đất tất cả năm bộ
phận của thân thể mà kính lạy đức Thế tôn. Bồ tát thỉnh cầu như vậy
đến ba lần, mỗi lần thỉnh cầu xong lại làm lại từ đầu.
Lược Giải.-
Lời hỏi của bồ tát Uy đức tự
tại chỉ có 1 câu: tu chứng viên giác có mấy phương tiện?
Chấp Nhận Lời Thỉnh Cầu
Chính Văn.-
Bấy giờ đức Thế tôn dạy bồ
tát Uy đức tự tại: Tốt lắm, thiện nam tử, ông có thể vì các vị bồ
tát, và những người sau này, mà hỏi Như lai về các phương tiện như vậy.
Ông hãy nghe kyլ Như lai sẽ nói cho. Bồ tát Uy đức tự tại vâng lời,
hoan hỷ, cùng cả đại chúng yên lặng lắng nghe.
Đáp 1 Câu Hỏi
Lược Giải.-
Để đáp câu hỏi tu chứng viên
giác có mấy phương tiện, Phật nói bản thể viên giác nhất trí, nhưng
phương tiện thì qui nạp có ba: cực tĩnh xa ma tha, cực động tam ma bát đề,
và cực thuần thiền na. Ngài lại đề cao 3 phương tiện ấy.
Nói Tổng Quát
Chính Văn.-
Đức Thế tôn dạy: Thiện nam tử,
viên giác vô thượng khắp cả mười phương, xuất sinh Như lai và các
pháp, nên bản thể vốn đồng đẳng. Bản thể ấy, đối với những người
tu hành, thật là nhất trí; nhưng phương tiện thích ứng bản thể ấy
thì có vô số, và qui nạp lại, phân loại theo khuynh hướng của người
tu hành thì có ba (71) .
Nói 3 Phương Tiện
Lược Giải.-
Ba phương tiện là 3 mặt thiền
quán. Thông thường nói 3 mặt ấy là chỉ (xa ma tha: tập trung tư duy) quán
(tỳ bát xá na: tư duy quán sát) và đẳng trì (tam ma bát đề: quân bình).
Nhưng các Phạn tự này cũng hay hỗn dụng, vì lẽ đều là những mặt của
thiền quán mà những mặt ấy tương quan với nhau. Nay kinh Viên giác dùng 3
Phạn tự, với ý nghĩa được nói rõ, thì thấy xa ma tha là chỉ, tam ma
bát đề có thể là quán, nhưng thiền na không thể là quân bình. Vì vậy,
chiếu theo ý nghĩa kinh này nói, tôi dịch xa ma tha là cực tĩnh, tam ma bát
đề là cực động, thiền na là cực thuần. Chương Biện âm sau đây còn
gọi 3 mặt thiền quán này là chí tĩnh lực, biến hóa lực, tịch diệt lực.
Chính yếu của xa ma tha là lắng xuống vọng niệm, nên chương này và chương
sau hay gọi là tịch tĩnh (tĩnh lặng) chí tĩnh (cực tĩnh) chí tĩnh lực (sức
mạnh của sự cực tĩnh), và tôi dịch là cực tĩnh. Chính yếu của tam ma
bát đề là hoạt dụng huyễn ảo (hoạt dụng các pháp; coi các pháp như
huyễn ảo nên hoạt dụng các pháp nói là hoạt dụng huyễn ảo), nên chương
này và chương sau hay gọi là như huyễn (huyễn ảo) biến hóa (biểu hiện)
biến hóa lực (sức mạnh của sự biểu hiển, của sự biến ảo), và
tôi dịch là cực động. Chính yếu của thiền na là siêu việt chướng ngại
(chướng ngại là ngã chấp, và phiền não của ngã chấp, nên chương sau
hay nói tiêu hủy phiền não), nên chương này và chương sau hay gọi là tịch
diệt (dịch đúng là dứt bặt, dịch thường là vắng lặng) tịch diệt lực
(sức mạnh của sự dứt bặt) và tôi dịch là cực thuần.
Nói Cực Tĩnh Xa Ma Tha
Chính Văn.-
Thiện nam tử, các vị bồ tát tỏ
ngộ viên giác trong sáng, đem cái tuệ giác tỏ ngộ ấy nắm lấy sự cực
tĩnh làm chủ yếu mà làm cho các vọng niệm lắng xuống, nên thấy rõ
tâm thức là phiền động, tuệ giác cực tĩnh phát sinh. Bụi bặm thân
tâm từ đây diệt hẳn, bên trong liền phát ra sự thư thái tĩnh lặng (72)
. Do tĩnh lặng như vậy mà tâm thể Như lai mười phương quốc độ biểu
hiện trong đó (73) như hình ảnh hiện trong đài gương. Phương tiện như vầy
gọi là mặt cực tĩnh xa ma tha.
Lược Giải.-
Cực tĩnh xa ma tha là tỏ ngộ viên
giác trong sáng nên lấy sự cực tĩnh làm chủ yếu mà làm cho vọng niệm
lắng xuống, phát sinh tuệ giác cực tĩnh và thư thái tĩnh lặng, được ví
dụ như đài gương hiện hình ảnh.
Nói Cực Động Tam Ma Bát Đề
Chính Văn.-
Thiện nam tử, các vị bồ tát tỏ
ngộ viên giác trong sáng, đem cái tuệ giác tỏ ngôể ấy biết tâm thức
và căn cảnh toàn là huyễn ảo, nên nổi lên huyễn ảo để diệt trừ
huyễn ảo, biểu hiện mọi phương tiện huyễn ảo mà hóa độ cho chúng
sinh huyễn ảo. Vì nổi lên huyễn ảo như vậy nên bên trong phát ra sự thư
thái đại bi (74) . Các vị bồ tát đều từ đại bi này mà nổi lên việc
làm, tuần tự tiến tới. Biết sự quán sát huyễn ảo là không phải huyễn
ảo, rồi biết sự quán sát không phải huyễn ảo đó cũng là huyễn ảo:
như vậy là huyễn ảo vĩnh viễn thoát bỏ. Việc làm tinh tế như thế này
của các vị bồ tát tựa như đất đai tăng trưởng lúa má. Phương tiện
như vầy gọi là mặt cực động tam ma bát đề.
Lược Giải.-
Cực động tam ma bát đề là tỏ
ngộ viên giác trong sáng nên lấy sự cực động làm chủ yếu mà hoạt dụng
mọi sự huyễn ảo, phát sinh tuệ giác như huyễn và thư thái đại bi,
được ví dụ như đất đai làm lớn lúa má.
Nói Cực Thuần Thiền Na
Chính Văn.-
Thiện nam tử, các vị bồ tát tỏ
ngộ viên giác trong sáng, đem cái tuệ giác tỏ ngộ ấy, không nắm lấy
biểu hiện và tĩnh lặng, mà biết thân tâm toàn là chướng ngại (75) . Cái
biết ấy không như cái biết của các giác quan, không dựa vào thân tâm chướng
ngại (76) , nên vĩnh viễn siêu việt sự bị chướng ngại và sự không chướng
ngại, thụ hưởng được trạng thái này: thân tâm và thế giới của
thân tâm tuy còn ở trong lĩnh vực bụi bặm, nhưng, như tiếng ở trong hồng
chung mà đã được đánh lên, kêu vang ra ngoài, phiền não với niết bàn
không thể chận giữ người ấy (77) , và bên trong phát ra sự thư thái vắng
lặng (78) . Vắng lặng như vậy là cảnh giới thích ứng của tuệ giác
tinh tế, thân tâm của mình hay của người đều không thấu được, chúng
sinh tướng hay thọ giả tướng (79) , những khái niệm ấy toàn là ảo tưởng.
Phương tiện như vầy gọi là mặt cực thuần thiền na.
Lược Giải.-
Cực thuần thiền na là tỏ ngộ
viên giác trong sáng nên lấy sự cực thuần làm chủ yếu mà siêu việt chướng
ngại (ngã chấp phiền não), phát sinh tuệ giác tinh tế và thư thái vắng
lặng, được ví dụ như tiếng hồng chung đã được đánh kêu vang xa hồng
chung.
Đề Cao 3 Phương Tiện
Chính Văn.-
Thiện nam tử,ba phương tiện trên
đây toàn là sự thích ứng thân nhất đối với viên giác. Mười phương
Như lai do ba phương tiện ấy mà trở thành Phật đà. Bao nhiêu phương tiện
của mười phương bồ tát, và tất cả sự đồng nhất hay sự dị biệt
của bao nhiêu phương tiện ấy, toàn y cứ ba phương tiện như vầy. Ba
phương tiện như vầy viên chứng được là được viên giác. Thiện nam tử,
giả sử có người tu tập tuệ giác thuần khiết (80) , giáo hóa thành tựu
trăm ngàn vạn ức La hán và Duyên giác, không bằng có ai nghe ba pháp môn
vô ngại này của viên giác mà thích ứng tu tập, dầu chỉ trong một đơn
vị ngắn nhất của thì gian.
Lược Giải.-
Ba mặt thiền quán là phương tiện
thân nhất của viên giác, là nhân tố tạo ra chư Phật, là căn bản và tổng
hợp của bồ tát hạnh, và chỉ nghe nói rồi tu tập trong thì gian ngắn nhất
mà công đức đã lớn lao. Ba mặt thiền quán được Phật đề cao đến
như vậy.
Trùng Tuyên Bằng Chỉnh Cú
Chính Văn.-
Đức Thế tôn muốn lặp lại ý
nghĩa đã nói nên nói những lời chỉnh cú sau đây.
- Uy đức tự tại,
- ông nên biết rằng
- viên giác vô thượng
- bản thể đồng nhất,
- phương tiện thích ứng
- lại có vô lượng.
- Như lai bao quát
- thành ra ba mặt:
- về mặt cực tĩnh (81)
- như gương soi hình,
- về mặt cực động (82)
- như đất lớn lúa,
- về mặt cực thuần (83)
- như tiếng hồng chung.
- Cả ba pháp môn
- tinh tế như vầy
- toàn là phương tiện
- thích ứng viên giác.
- Mười phương Như lai
- cùng các Đại sĩ
- nhờ phương tiện ấy
- thành vô thượng giác.
- Ba phương tiện ấy
- nếu viên chứng được
- là được viên chứng
- niết bàn cứu cánh.
-oOo-
Chân thành
cảm ơn quý cư sĩ Nguyễn Văn Củng, Đoàn Viết Hiệp và Nguyễn Anh Tuấn
đã phát tâm chuyển tác phẩm này từ dạng Help File, VPS font sang dạng
Word, VNI font. Thích Nhật Từ 29-4-2000
Mục lục | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 |