Trang tiếng Anh

Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt   

   

...... ... ..  . ..  .  .
Kinh Viên Giác
Luận Giảng
 

Chánh văn và Lược giải

     

VI- CHƯƠNG DI LẶC 
 

Trong chương này, Bồ tát Di Lặc là nhân vật chính. Theo truyền thuyết của nhà Phật, Bồ tát Di Lặc đang cư ngụ trong nội viện cung trời Đâu Suất. Khi giáo pháp của Phật Thích Ca không còn hiện diện trên cõi Ta Bà này, Ngài sẽ được bổ xứ về đây, thị hiện thành Phật dưới cội cây Long Hoa và tuyên dương chánh pháp. Là một vị Đại Bồ tát, chỉ sinh về cõi Ta Bà lần cuối cùng rồi thành Phật, nên Ngài được gọi là “Bồ tát Nhất sanh bổ xứ”.

Nụ cười của Bồ tát Di Lặc là một điều tâm đắc cho nhiều người học Phật. Hình thức khác với nụ cười mỉm bí ẩn của Ngài Ca Diếp khi Đức Phật đưa cành hoa tại hội Linh Sơn, nụ cười của Ngài Di Lặc rất hồn nhiên, rất vui tươi và rất phóng khoáng. Vì sao Ngài có được nụ cười đó? - Vì Ngài đã đạt đến mức độ thường hỷ và thường xả. Bồ tát là vị Tổ của Duy thức học, chủ trương “Vạn pháp duy thức biến”, tất cả pháp đều do thức mà biến hiện. Khi liễu ngộ được mọi sự mọi vật đều sinh khởi từ thức tâm phân biệt, thì ra tất cả đều là huyễn ảo không thực. Đối với mọi cảnh ngộ thịnh suy thăng trầm của cuộc đời, Ngài tự tại với tất cả. Nhờ vui (Hỷ) mà Ngài thường Xả, và nhờ Xả nên Ngài thường vui; Hỷ và Xả vừa làm nhân vừa làm quả cho nhau.

Một nét đặc biệt khác của hình tượng Bồ tát Di Lặc là cái bụng rất to, tượng trưng tâm hồn Ngài bao dung độ lượng vô bờ. Thường thì có hiểu mới có thương, có thông cảm với người thì mới thương được người đó. Ở đây, Ngài chuyển cái hiểu phàm tục thành trí huệ siêu việt, và chuyển cái thương phàm tục thành tình thương bao la, nên Ngài có cuộc sống vui tươi cởi mở. Dù ai sầu bi khổ não đến đâu, nhìn hình tượng Ngài cũng có thể sanh tâm hoan hỷ. Cho nên, người ta gọi mùa xuân bất diệt là “Xuân Di Lặc”.

Lúc bấy giờ, Bồ tát Di Lặc ở trong đại chúng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, nhiễu bên phải ba vòng, quỳ dài chắp tay mà bạch Phật rằng: “Đức Đại bi Thế Tôn! Ngài đã rộng vì hàng Bồ tát mà mở ra cái kho tàng bí mật, khiến cho cả đại chúng thâm ngộ được luân hồi, phân biệt được tà chánh; hay thí cho chúng sanh đời mạt pháp được Đạo-nhãn-vô-úy, đối với Đại Niết-bàn sanh lòng tin quyết định, không còn trở lại theo cảnh giới luân hồi mà khởi lên kiến chấp điên đảo nữa.

Bạch Đức Thế Tôn! Nếu các Bồ tát và chúng sanh đời mạt pháp muốn dạo chơi nơi biển Đại tịch diệt của Như Lai, phải làm sao đoạn trừ được căn bản luân hồi? Trong các cõi luân hồi có bao nhiêu loài chúng sanh? Có bao nhiêu cấp bậc tu theo đạo Bồ đề của Phật? Các Bồ tát khi vào trần lao độ chúng sanh, phải thiết lập bao nhiêu phương tiện giáo hóa?

Cúi mong Đức Bất-xả-cứu-thế-đại-bi khiến tất cả Bồ tát và chúng sanh đời mạt pháp, những người tu hành được con mắt trí huệ trang nghiêm thanh tịnh, chiếu diệu nơi tâm và cảnh, viên ngộ được tri kiến vô thượng của Như Lai !”

Nói lời ấy rồi, năm vóc gieo xuống đất, thỉnh đi thỉnh lại từ đầu đến cuối như vậy ba lần.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Bồ tát Di Lặc rằng: “Lành thay! Lành thay! Này thiện nam tử! Các ông mới có thể vì Bồ tát và chúng sanh đời mạt pháp mà thỉnh hỏi Như Lai về ý nghĩa thâm áo bí mật vi diệu, khiến cho các Bồ tát mắt huệ được sáng tỏ, và cho các chúng sanh đời mạt pháp hằng đoạn được luân hồi, tâm ngộ được thật tướng, đủ Vô sanh nhẫn. Ông hãy lắng nghe, ta sẽ vì ông mà nói”.

Khi ấy, Bồ tát Di Lặc vui mừng vâng theo lời dạy của Phật, cùng cả đại chúng lắng sâu tâm thức mà nghe.

Này Thiện nam tử! Tất cả chúng sanh từ mé vô thỉ,do có các thứ ân ái và tham dục, nên mới có luân hồi. Tất cả chúng sanh trong thế giới như Noãn sanh, Thai sanh, Thấp sanh, Hóa sanh đều nhơn nơi dâm dục mà thành tánh mạng. Phải biết, Ái là căn bản của luân hồi. Do có các Dục trợ giúp Ái phát sinh, thế nên khiến cho sanh tử nối tiếp nhau. Dục nhơn Ái mà sanh, Mạng nhơn Dục mà có. Chúng sanh ái luyến mạng sống, rồi trở lại nương Dục làm gốc. Ái dục là nhơn, Ái mạng là quả.

Do nơi cảnh dục khởi lên các điều thuận nghịch. Cảnh trái với tâm ưa thích thì sanh chán ghét, tạo nhiều thứ nghiệp, nên sanh ra Địa ngục, Ngạ quỉ. Biết Dục đáng chán, mới thích cái Đạo-chán-nghiệp, bỏ ác vui với thiện, nên hiện ra cõi Trời và Người. Lại vì biết các Ái đáng chán ghét, nên bỏ Ái ưa Xả; rồi lại tươi nhuận gốc Ái, mới lần lần hiện ra quả lành tăng thượng hữu vi. Đó đều là luân hồi, không thành được Thánh đạo. Thế nên, chúng sanh muốn thoát khỏi sanh tử, tránh khỏi vòng luân hồi, trước tiên phải đoạn tham dục và khát ái.

Này Thiện nam tử! Bồ tát biến hóa thị hiện ở thế gian chẳng phải do gốc Ái, chỉ vì lòng từ bi muốn chúng sanh bỏ Ái, nên mượn các sự tham dục mà vào nơi sanh tử.

Nếu tất cả chúng sanh đời mạt pháp bỏ được các dục và trừ đi khát ái, hằng đoạn luân hồi, cần cầu cảnh giới Viên Giác của Như Lai, thì ở nơi tâm thanh tịnh liền được khai ngộ.

Này Thiện nam tử! Tất cả chúng sanh do gốc tham dục mà phát huy vô minh, hiện ra năm tánh sai biệt, rồi nương vào hai thứ chướng mà hiện ra có sâu cạn. Hai chướng là gì? - Một là Lý chướng, ngăn ngại Chánh-tri-kiến; hai là Sự chướng, làm tiếp tục sanh tử luân hồi. Năm tánh là gì? - Này thiện nam tử! Nếu hai chướng ấy chưa đoạn trừ, thì chưa thành Phật. Nếu các chúng sanh bỏ được tham dục, trước trừ được Sự chướng mà còn chưa đoạn được Lý chướng, thì chỉ có thể ngộ nhập được cảnh giới Thanh văn và Duyên giác, chứ chưa thể an trụ trong cảnh giới Bồ tát.

Này Thiện nam tử! Nếu tất cả chúng sanh đời mạt pháp, muốn dạo chơi nơi biển Đại Viên Giác của Như Lai, trước tiên phải phát nguyện siêng đoạn được hai chướng. Hai chướng đã nép phục rồi, liền được ngộ nhập cảnh giới Bồ tát. Nếu Sự-Lý chướng hằng đoạn dứt, liền ngộ nhập Viên Giác nhiệm mầu của Như Lai, đầy đủ đạo Bồ đề và Đại Niết-bàn.

Này Thiện nam tử! Tất cả chúng sanh đều chứng Viên Giác, gặp thiện tri thức rồi, y nơi Nhơn địa pháp hạnh của vị đó đã thực hành mà tu tập, liền có Đốn và Tiệm. Nếu gặp được con đường tu hành chơn chánh Vô Thượng Bồ đề của Như Lai, căn cơ của họ vốn không lớn nhỏ, đều thành Phật quả. Nếu chúng sanh tuy cầu bạn tốt mà gặp người tà kiến, chưa được chánh ngộ, như thế gọi là Ngoại đạo chủng tánh. Sự lỗi lầm ấy là do thầy tà, không phải lỗi ở chúng sanh. Đó gọi là năm tánh sai biệt của chúng sanh.

Này Thiện nam tử! Bồ tát chỉ dùng sức đại bi phương tiện mà vào thế gian, dạy bảo cho người chưa ngộ, cho đến thị hiện nhiều thứ hình tướng, cảnh giới thuận nghịch, cùng họ đồng sự, khiến họ được thành Phật, ấy đều do nguyện lực thanh tịnh từ vô thỉ.

Nếu tất cả chúng sanh đời mạt pháp đối với Đại Viên Giác mà khởi tâm tăng thượng, phải phát đại nguyện thanh tịnh của Bồ tát. Khi phát đại nguyện, nên nói như vầy: Con nguyện ngày nay trụ nơi Viên Giác của Phật, cầu Thiện tri thức, không gặp ngoại đạo và hàng Nhị thừa, y nguyện tu hành, đoạn dần các chướng. Các chướng đã hết, nguyện được viên mãn, được lên Pháp điện thanh tịnh giải thoát, và chứng Đại Viên Giác thành diệu trang nghiêm”.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn trùng tuyên lại nghĩa trên nên nói kệ rằng :

    “Di Lặc, ông nên biết!

Tất cả các chúng sinh

Không được Đại giải thoát

Đều do nơi tham dục

Đọa lạc trong sanh tử.

Nếu đoạn được ái dục

Và cả tham, sân, si,

Không nhơn tánh sai biệt,

Đều được thành Phật đạo.

Hai chướng hằng tiêu diệt

Cầu thầy được chánh ngộ,

Tùy thuận nguyện Bồ tát,

Nương nhờ đại Niết-bàn. 

Các Bồ tát mười phương

Đều vì nguyện Đại-bi

Thị hiện vào sanh tử.

Người hiện tại tu hành

Và chúng sanh đời mạt

Siêng đoạn các ái kiến

Liền về Đại Viên Giác”. 

Bồ tát Di Lặc vì lòng từ bi, muốn chúng sanh thâm ngộ căn nguyên của luân hồi, cũng như phương cách giải thoát sinh tử, nên đặt ra bốn câu hỏi, thỉnh Phật chỉ dạy.

Lúc bấy giờ, Bồ tát Di Lặc ở trong đại chúng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, nhiễu bên phải ba vòng, quỳ dài chắp tay mà bạch Phật rằng: “Đức Đại bi Thế Tôn! Ngài đã rộng vì hàng Bồ tát mà mở ra kho tàng bí mật, khiến cho cả đại chúng thâm ngộ được luân hồi, phân biệt được tà chánh; hay thí cho chúng sanh đời mạt pháp được Đạo-nhãn-vô-úy, đối với Đại Niết-bàn sanh lòng tin quyết định, không còn trở lại theo cảnh giới luân hồi mà khởi lên kiến chấp điên đảo nữa”: Kho tàng bí mật chính là tâm Viên Giác Đức Phật đã giảng ở những chương trước. Đạo-nhãn-vô-úy là con mắt thấy được đạo, không còn cái gì làm cho sợ hãi nữa. Đại Niết-bàn ở đây, phân biệt với Niết-bàn Hóa thành của Nhị thừa, chỉ cho tâm Viên Giác. Trong lời mở đầu, Bồ tát Di Lặc tán thán Đức Phật đã vì các hàng Bồ tát mà khai thị về tâm Viên Giác của Như Lai, cùng những phương tiện thâm nhập tự tâm ấy. Khi đại chúng đã thông hiểu về tự tánh thanh tịnh sẵn đủ của chính mình, tự nhiên mọi pháp đều thông; từ đó thâm ngộ luân hồi, phân biệt được tà chánh, đạt đến quả vị Tu-đạo, có được Đạo-nhãn-vô-úy. Một khi nhận ra tự tâm, đại chúng có niềm tin vững chắc đối với Đại Niết-bàn, không còn rơi vào vòng luân hồi sanh tử và có kiến chấp điên đảo về tất cả các pháp nữa.

Bạch Đức Thế Tôn! Nếu các Bồ tát và chúng sanh đời mạt pháp muốn dạo chơi nơi biển Đại-tịch-diệt của Như Lai, phải làm sao đoạn trừ được căn bản luân hồi? ”: Đây là câu hỏi thứ nhất. Vì trong chương Kim Cang Tạng ở trước, Đức Phật dạy muốn thoát khỏi luân hồi, trước tiên phải đoạn trừ căn bản luân hồi, nên Bồ tát Di Lặc thỉnh Phật dạy cho phương pháp đoạn trừ. “Biển Đại-tịch-diệt” chỉ cho tâm Viên Giác. Khi hằng sống với tự tâm, ý niệm Luân hồi hay Giải thoát đều không còn, nên vào cõi sinh tử như dạo hoa viên. Bồ tát ở trong chánh định dạo chơi khắp chốn - gọi là Du hí tam muội - nơi nào cũng là biển Đại-tịch-diệt của Như Lai.

Trong các cõi luân hồi có bao nhiêu loài chúng sanh? ”: Câu thứ hai, Bồ tát hỏi có bao nhiêu loài chúng sanh đang ở trong các cõi luân hồi, và cảnh giới tương ứng của các loài ấy như thế nào?

Có bao nhiêu cấp bậc tu theo đạo Bồ đề của Phật”: Đây là câu hỏi thứ ba, những vị tu hành theo đạo Bồ đề của Phật có mấy bậc khác nhau?

Các Bồ tát khi vào trần lao độ chúng sanh, phải thiết lập bao nhiêu phương tiện giáo hóa?”: Câu hỏi thứ tư nhắm vào việc lợi sanh. Bồ tát khi đã thâm ngộ Viên Giác, phải lập hạnh vào các cõi trần giáo hóa chúng sanh. Với mục đích ấy, Bồ tát phải thiết lập bao nhiêu phương tiện?

Cúi mong Đức Bất-xả-cứu-thế-đại-bi khiến tất cả Bồ tát và chúng sanh đời mạt pháp, những người tu hành được con mắt trí huệ trang nghiêm thanh tịnh, chiếu diệu nơi tâm và cảnh, viên ngộ được tri kiến vô thượng của Như Lai !”: Khi có mắt trí huệ, tâm và cảnh được chiếu soi thông suốt. Ta không còn nhận giặc làm con, tức nhận vọng tâm là mình; ta thấy rõ sự sanh khởi, tồn tại và hủy diệt của từng tâm niệm và liễu ngộ tự thể của chúng. Đối với cảnh, ta biết rõ tất cả đều “duy thức sở biến, duy tâm sở hiện”, không có gì là thật có. Từ đó viên ngộ tri kiến vô thượng của Như Lai.

Nói lời ấy rồi, năm vóc gieo xuống đất, thỉnh đi thỉnh lại từ đầu đến cuối như vậy ba lần.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Bồ tát Di Lặc rằng: “Lành thay! Lành thay! Này thiện nam tử! Các ông mới có thể vì Bồ tát và chúng sanh đời mạt pháp mà thỉnh hỏi Như Lai về ý nghĩa thâm áo bí mật vi diệu, khiến cho các Bồ tát mắt huệ được sáng tỏ và các chúng sanh đời mạt pháp hằng đoạn được luân hồi, tâm ngộ được thật tướng, đủ Vô-sanh-nhẫn. Ông hãy lắng nghe, Ta sẽ vì ông mà nói”.

Khi ấy, Bồ tát Di Lặc vui mừng vâng theo lời dạy của Phật, cùng cả đại chúng lắng sâu tâm thức mà nghe”: Khi chúng sanh đời mạt pháp đoạn được luân hồi, e rằng sẽ rơi vào cảnh giới Niết-bàn trầm không thủ tịch của Nhị thừa, nên Phật nói thêm “tâm ngộ được thật tướng”. Theo Pháp Bảo Đàn Kinh, Thật tướng là Vô tướng. Vì không có tướng nên không sinh không diệt, không đến không đi. Đó là tâm Viên Giác, cũng là Như Lai trong tinh thần “Vô sở tùng lai diệc vô sở khứ” (không từ đâu đến cũng không đi về đâu).

Vô sanh nhẫn” nói cho đủ là Vô-sanh-pháp-nhẫn. Tiếp xúc với sáu trần mà tâm còn khởi phân biệt đẹp-xấu hay-dở, là chưa nhẫn được đối với trần cảnh. Vô sanh pháp nhẫn là khi nội tâm bất động đối với tất cả các pháp. Theo Giáo tông, phải từ Bồ tát Sơ-địa trở lên mới đạt được điều này.

Ở đây Phật muốn nói, không phải từ bỏ phiền não mới được Niết-bàn, mà chỉ cần giác ngộ thật tướng, tức tự tâm Viên Giác, là trong sanh tử mà thấy Niết-bàn. Thật ra, người tu chúng ta cũng phải đối diện với tất cả các pháp. Nhưng khi đạo lực chưa mạnh, định lực chưa vững, tâm còn biến động, thì phải tránh bớt duyên. Khi nào ngay trong động mà vẫn bất biến, ta sẽ tùy duyên mà sống.

Này Thiện nam tử! Tất cả chúng sanh từ mé vô thỉ, do có các thứ ân ái và tham dục, nên mới có luân hồi”: Ân ái chỉ riêng tình yêu nam nữ. Tham dục là nói chung ngũ dục: Tài, sắc, danh, thực, thùy (tiền bạc, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ) hoặc Sắc, thinh, hương, vị, xúc (hình tướng, âm thanh, mùi hương, cảm giác ở lưỡi, xúc chạm ở thân). Trong đó, tình cảm nam nữ là mãnh liệt nhất; nó có thể giúp con người tự hoàn thiện hay thành công trong cuộc sống nếu gặp tình yêu chân chính. Ngược lại, con người cũng có thể bị sa đọa, thân bại danh liệt nếu vướng mắc vào một tình yêu tội lỗi. Nhưng dù tình cảm ấy tốt đẹp, cao thượng cách mấy, nó cũng là một ràng buộc, ngăn ngại và có thể làm bít lấp con đường giải thoát.

Từ mé vô thỉ”: có nghĩa là đã từ lâu xa, từ bao giờ cho đến bây giờ. Đức Phật bảo, từ xưa đến nay, chúng sanh vì các thứ ân ái và tham dục nên mãi lăn lộn trong vòng luân hồi sinh tử. Đây là lời mở đầu cho câu trả lời phần thứ nhất.

Tất cả chúng sanh trong thế giới như Noãn sanh, Thai sanh, Thấp sanh, Hóa sanh đều nhơn nơi dâm dục mà thành tánh mạng. Phải biết, Ái là căn bản của luân hồi”: Phật đề cập đến bốn loài chúng sanh là Noãn, Thai, Thấp, Hóa, chúng ta có thể hiểu theo hai cách, tùy biểu hiện bên ngoài hay bên trong. Biểu hiện bên ngoài gồm có :

- Noãn sanh: Loài sanh bằng trứng như gà, vịt, chim...

- Thai sanh: Loài sanh ra con như người, chó, mèo...

- Thấp sanh: Loài sanh chỗ ẩm thấp như trùn đất, rít...

- Hóa sanh: Loài sanh bằng biến hóa như tằm biến thành bướm, lăng quăng thành muỗi... Cả các loài chúng sanh ở cõi Trời, Ngạ quỉ, Địa ngục cũng thuộc Hóa sanh.

Biểu hiện bên trong tức bốn cách sinh khởi của tâm niệm, nhà Thiền gọi là Chúng sanh tâm:

- Noãn sanh: Những hạt giống tâm thức còn ẩn sâu trong A-lại-da thức, chưa có tác dụng hiện thời. Cũng có thể coi đây là những ý niệm bâng quơ, chưa có hình thù rõ rệt.

- Thai sanh: Những niệm khởi có hình tướng rõ rệt, biểu hiện nơi tâm thức. Đây là những tư tưởng phân biệt đẹp xấu hay dở, hoặc những tình cảm buồn vui thương ghét, mà chúng ta thường cho là tâm của mình.

- Thấp sanh: Sự ẩm ướt ở đây chỉ cho nước tham ái. Khi tình cảm nổi lên sẽ kích thích các tuyến dịch tương ứng tiết ra nước (nước mắt, nước mũi, tinh dịch…). Loài thấp sanh ở đây chỉ những niệm phát sanh từ tham ái, chúng gây nên sự ray rứt, quằn quại trong tâm hồn.

- Hóa sanh: Những tâm niệm biến hóa sanh diệt, từ niệm này tiếp nối sang niệm khác không dừng. Chúng bất chợt biến hiện tùy duyên, không có tính chất nhất định.

Chúng ta có khi tự hỏi, con người nhiều tình cảm có tư tưởng vọng động đã đành, vì sao những chúng sanh khác, kể cả loài hạ đẳng, cũng bị chi phối bởi dục tính? - Đó là do nghiệp lực thúc đẩy. Tùy nghiệp lực nặng nhẹ mà phải mang thân tướng xấu tốt, ở trong cảnh giới ác hay lành; và cũng do nghiệp lực nên có tánh âm-dương, phát sanh dâm dục. Không phải chỉ có loài hữu tình mà cả vô tình cũng có âm-dương. Từ sự kết hợp giữa âm và dương của từng loài chúng sanh mới thành chủng tánh và sanh mạng của loài ấy. Như vậy, hễ còn nằm trong vòng hiện tượng sinh diệt mà quên đi bản giác, thì hữu tình và vô tình đều không thoát khỏi luật âm dương. Khi liễu ngộ tự tâm Viên Giác, thì mới hay âm-dương đều là tương đối, tất cả đều không ngoài tâm; và chính vọng tâm điên đảo đã tạo nghiệp thành có thân nam hay nữ, còn Phật tánh sẵn đủ thì đâu có hình tướng sai thù. Do vậy, các Bồ tát khi vào các cõi để độ sanh, đâu ngại gì hình tướng xuất gia hay tại gia, nam hay nữ, cứ tùy duyên mà thị hiện.

Hai chữ “Dục” và “Ái” ở đoạn này có ý nghĩa khác ở trên. Dục có nghĩa hẹp hơn, là lòng ưa thích kết hợp nam nữ. Ái có nghĩa rộng, yêu mến cái ta và những cái thuộc về ta, danh từ Phật pháp gọi là Ái ngã và ngã sở. Ái là một trong mười hai nhân duyên, từ Ái mới có Thủ, Thủ lại làm duyên cho Hữu. Từ Hữu mới có Sanh, Lão, Tử tiếp nối lưu chuyển không dừng. Cho nên Phật nói “Ái là căn bản của luân hồi”.

Không những Ái chi phối cõi Dục giới (tức sáu cõi Trời Dục và các cõi Người, A-tu-la, Súc sanh, Ngạ quỉ, Địa ngục), mà còn ảnh hưởng cả hai cõi Trời Sắc và Vô Sắc. Từ Sơ thiền trở lên, các vị đã có niềm vui do thiền định, không còn dục tính nam nữ nên gọi là Ly dục-ly bất thiện pháp, tức lìa mọi thứ dục và mọi pháp ác. Tuy nhiên, các vị lại đắm luyến vào cảnh giới sở chứng của mình, đó cũng là một dạng tế vi của Ái, vì vậy chưa thoát khỏi luân hồi.

Do có các Dục trợ giúp Ái phát sinh, thế nên khiến cho sanh tử nối tiếp nhau. Dục nhơn Ái mà sanh, Mạng nhơn Dục mà có. Chúng sanh ái luyến mạng sống, rồi trở lại nương Dục làm gốc. Ái dục là nhơn, Ái mạng là quả”: Trong câu đầu, các Dục có nghĩa là Ngũ dục, khiến chúng sanh tham ái. Đây là chất kích thích làm Ái sinh khởi, nên bảo Dục trợ giúp cho Ái phát sinh, từ đó tạo nên vòng luân hồi nối tiếp mãi, không bao giờ dừng.

Trong câu kế, “Dục nhơn Ái mà sanh, Mạng nhơn Dục mà có”, Dục lại có ý nghĩa là sự dâm dục của nam nữ. Nam nữ thương yêu nhau mới phát sanh việc dâm dục, từ đó thọ thai thành thân mạng khác. Khi có thân mạng, sẽ có sự ái luyến đối với mạng sống, ái luyến thân mình và yêu người khác phái, trở lại có dục vọng tiếp nối, đời đời không cùng. Như vậy, vì có Ái mới có Dục, do có Dục mới có Mạng, có Mạng rồi sẽ có sự yêu mến thân mạng, cho nên nói “Ái dục là nhơn, Ái mạng là quả”. Ta thấy, Đức Phật đã trực tiếp giải đáp câu thứ nhất của Bồ tát Di Lặc, chính Ái là căn bản luân hồi.

Do nơi cảnh Dục khởi lên các điều thuận nghịch. Cảnh trái với tâm ưa thích thì sanh chán ghét, tạo nhiều thứ nghiệp, nên sanh ra Địa ngục, Ngạ quỉ. Biết Dục đáng chán, mới thích cái Đạo-chán-nghiệp, bỏ ác vui với cái thiện, nên hiện ra cõi Trời và Người”: Đến đây bắt đầu trả lời câu thứ hai, Phật bảo, trong các cõi luân hồi, có ba thứ chủng tánh: Ác chủng tánh, Thiện chủng tánh và Bất động tánh. Những cảnh dục hợp với tâm ưa thích gọi là “điều thuận”, trái với tâm ưa thích là “điều nghịch”, nên nói, do nơi cảnh dục mà khởi lên những điều thuận nghịch. Cảnh trái với tâm ưa thích thì sanh chán ghét, từ đó tạo thành nghiệp ác, bị đọa vào các đường khổ như Địa ngục, Ngạ quỉ - Ác chủng tánh hình thành và gây hậu quả. Nếu biết các dục đáng chán, một lòng tu theo Đạo chán bỏ ác nghiệp và siêng tu Thiện nghiệp, đó là Thiện chủng tánh, sẽ sanh về những cõi lành như Trời, Người.

Lại vì biết các Ái đáng chán ghét, nên bỏ Ái ưa Xả; rồi lại tươi nhuận gốc Ái, mới lần lần hiện ra quả lành tăng thượng hữu vi”: Đây nói đến Bất động tánh, do Thiền định mà đạt được, thuộc các cảnh giới Sắc và Vô sắc, nghĩa là từ Sơ thiền, Nhị thiền trở lên, đến Phi Phi tưởng xứ. Các vị bỏ luôn nghiệp lành mà ưa trạng thái buông xả, nội tâm bất động, an lạc trong thiền định. Nhưng ở cõi Sắc giới vẫn còn có thân, cõi Vô sắc giới còn có tâm; mà đã còn thân và tâm thì vẫn còn Ái, nên quả lành hiện ra đó vẫn còn thuộc pháp hữu vi.

Đó đều là luân hồi, không thành được Thánh đạo”: Tất cả các chủng tánh nêu trên đều chưa xuất ly tam giới nên vẫn còn trong vòng luân hồi sanh tử, không phải là Thánh đạo.

Thế nên, chúng sanh muốn thoát khỏi sanh tử, tránh khỏi vòng luân hồi, trước tiên phải đoạn tham dục và khát ái”: Đức Phật đúc kết hai câu trả lời ở trên để chỉ rõ, muốn giải thoát khỏi sanh tử luân hồi, điều tiên quyết là phải tận trừ tham dục và khát ái. Tham dục là trợ duyên, khát ái là cội gốc. Tâm tham ái giống như người đang khát mà thèm nước, nên gọi là “khát ái”.

Học đến đây, chúng ta thấy thấm thía vô cùng. Tất cả chúng ta, ai cũng do ân ái tham dục nên mới sanh ra trên cõi đời này, phải chịu nhiều sầu bi khổ não. Do trùng trùng duyên khởi từ tinh cha huyết mẹ cùng thần thức tạo ra kiếp người, đó là vì nghiệp lực đời trước. Trót tạo nghiệp nên phải chịu quả khổ luân hồi, bây giờ có duyên biết được chánh pháp, chúng ta phải làm sao chuyển được cái nhân ân ái tham dục ở kiếp này. Vì có duyên nên chúng ta đã biết mình có bản thể thanh tịnh thường nhiên, giờ phải gắng công tu tập để hồi phục lại bản thể ấy. Người xuất gia nguyện thường độc hành thường độc bộ, hy sinh những thú vui trần tục, bỏ hết những tình cảm hạn hẹp gia đình, hiến trọn đời mình cho Phật pháp. Muốn làm tròn bản nguyện, chúng ta phải có một ý chí kim cương và luôn luôn cầm trong tay thanh gươm trí huệ, lấy định lực làm thức ăn, lấy an lạc nội tâm làm sức sống, họa may mới thoát khỏi lưới ái dục. Nếu chúng ta sống tầm thường như người đời, buông mình theo những thú vui vật chất, thì ái dục sẽ thừa cơ hội trổi dậy, chúng ta dễ bị thối chí ngã lòng, uổng một đời tu.

Kinh Niết-Bàn có nói: “Nhơn ái sanh ưu, nhơn ưu sanh bố. Nhược ly tham ái, hà ưu hà bố”. (Nhơn ái sanh lo, vì lo sanh sợ. Nếu lìa được tham ái thì còn gì lo và sợ). Khi có yêu thích thì lo không được, khi được rồi lại sợ mất. Nếu tham ái đoạn trừ thì có gì khiến ta lo sợ, ta sẽ giải thoát khỏi phiền não và giải thoát luôn vòng sanh tử luân hồi.

Tuy nhiên, chúng ta cũng đừng hiểu lầm rằng Ái dục là nguyên nhân đầu tiên của luân hồi sanh tử. Nếu nói có nguyên nhân đầu tiên thì tự nhiên sẽ có câu hỏi, trước nguyên nhân ấy là gì? Trong kinh, Phật bao giờ cũng nói “vô thỉ vô chung”, không có bắt đầu cũng không có kết thúc. Khi liễu ngộ được tự tánh, chúng ta mới hiểu thì ra cái gọi là đầu tiên hay cuối cùng chỉ có trong ảo tưởng điên đảo, thấy mọi vật qua lăng kính lưỡng phân. Ở đây cũng vậy, chúng ta cũng chỉ cần biết nguyên nhân chính của luân hồi là ái dục, và phải đoạn trừ nguyên nhân ấy nếu muốn được giải thoát.

Này Thiện nam tử! Bồ tát biến hóa thị hiện ở thế gian chẳng phải do gốc Ái, chỉ vì lòng từ bi muốn chúng sanh bỏ Ái, nên mượn các sự tham dục mà vào nơi sanh tử”: Đức Phật giải nghi cho chúng ta: Nhiều người thấy Bồ tát cũng có cha mẹ, gia đình nên nghĩ các Ngài vẫn còn ái dục, còn trong vòng sinh tử. Thật ra, các Ngài thị hiện vào các cõi là do nguyện lực độ sanh, chớ không phải vì nghiệp lực như chúng sanh mà thọ tinh cha huyết mẹ.

Nếu tất cả chúng sanh đời mạt pháp bỏ được các dục và trừ đi khát ái, hằng đoạn luân hồi, cần cầu cảnh giới Viên Giác của Như Lai, thì ở nơi tâm thanh tịnh liền được khai ngộ”: Đức Phật bắt đầu trả lời câu hỏi thứ ba của Bồ tát Di Lặc: Tu theo đạo Bồ đề của Phật có bao nhiêu đẳng cấp? Ở đoạn này nói về các hàng thượng thượng căn đốn đoạn đốn ngộ, một mặt đoạn trừ ái dục là căn bản luân hồi, mặt khác mong cầu cảnh giới Viên Giác, thì từ nơi tâm thanh tịnh ấy liền được khai ngộ mà không qua đẳng cấp nào cả. Đây cũng là tinh thần Đốn giáo Đại thừa của kinh. Tuy nhiên, phần nhiều chúng sanh đời mạt pháp đều thuộc hàng trung-hạ căn, nên từ hai chướng mà biểu hiện ra năm tánh sau đây:

Này Thiện nam tử! Tất cả chúng sanh do gốc tham dục mà phát huy vô minh, hiện ra năm tánh sai biệt, rồi nương vào hai thứ chướng mà hiện ra có sâu cạn”: Năm tánh của chúng sanh là Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát, Bất định và Ngoại đạo tánh. Từ gốc tham dục sẵn có mà phát huy vô minh, hiện ra năm tánh. Năm tánh này sai biệt không đồng nhau do hai thứ chướng là Phiền não chướng và Sở tri chướng.

Có thể chúng ta sẽ thắc mắc: Vì sao Phật cũng gọi Bồ tát là “chúng sanh”? Thật ra, chúng sanh có ba ý nghĩa:

- Phàm phu còn vô minh, lưu chuyển trong luân hồi sanh tử.

- Các hàng Bồ tát còn biến dịch sanh tử, nên đối với Phật quả, các vị này vẫn còn là chúng sanh.

- Các hình tướng do nhiều pháp hợp lại mà có. Trong ý nghĩa này, Báo thân và Ứng hóa thân của Phật cũng được gọi là chúng sanh, vì do công đức và trí huệ tập hợp lại mà thành.

Hai chướng là gì? - Một là Lý chướng, ngăn ngại Chánh tri kiến; hai là Sự chướng, làm tiếp tục sanh tử luân hồi”: Lý chướng là chỉ cho Sở tri chướng, do chấp pháp mà có. Chấp có sanh tử thật, có Niết-bàn thật, nên sự thấy biết chưa thấu triệt, tột cùng, làm chướng ngại Chân trí, nên Phật bảo “Lý chướng ngăn ngại Chánh tri kiến”. Sự chướng tức Phiền não chướng, do chấp ngã mà có. Chấp ngã là Si, do Si mới có Tham, nếu lòng tham không được thỏa mãn thì sanh Sân. Tham-Sân-Si dấy khởi gây chướng ngại sự giải thoát, làm sanh tử tiếp nối không cùng.

Năm tánh là gì? - Này Thiện nam tử! Nếu hai chướng ấy chưa đoạn trừ, thì chưa thành Phật. Nếu các chúng sanh bỏ được tham dục, trước trừ được Sự chướng mà chưa đoạn được Lý chướng, thì chỉ có thể ngộ nhập được cảnh giới Thinh văn và Duyên giác, chứ chưa thể an trụ trong cảnh giới Bồ tát”: Trước tiên nói về hai tánh Thinh văn và Duyên giác, thường được gọi là Nhị thừa tánh. Các vị ấy xả được tham dục do đã phá ngã chấp, rồi khởi tưởng Niết-bàn. Nhưng kỳ thực, đó chỉ là Hóa thành chớ chưa phải Niết-bàn rốt ráo, vì chưa phá được pháp chấp; nên nói trừ được Sự chướng mà chưa đoạn Lý chướng. Cảnh giới của các vị, nếu tu theo Tứ đế là Thinh văn tánh, nếu tu theo Mười hai nhân duyên là Duyên giác tánh, cả hai đều chưa thể an trụ trong cảnh giới Bồ tát.

Này Thiện nam tử! Nếu tất cả chúng sanh đời mạt pháp, muốn dạo chơi trong biển Đại Viên Giác của Như Lai, trước tiên phải phát nguyện siêng đoạn được hai chướng. Hai chướng đã nép phục rồi, liền được ngộ nhập cảnh giới Bồ tát”: Đây nói đến Bồ tát tánh, là tánh thứ ba trong năm tánh của chúng sanh. Muốn dạo chơi nơi biển Đại Viên Giác của Như Lai, tức muốn cầu Viên Giác, chúng sanh phải qua hai giai đoạn: Giai đoạn đầu là phát nguyện siêng đoạn phiền não chướng và sở tri chướng, nhưng hai chướng chỉ mới nép phục chứ chưa đoạn tận. Đây là quá trình từ chúng sanh tiến lên Phật vị, nên gọi là ngộ nhập cảnh giới Bồ tát.

Nếu Sự - Lý chướng hằng đoạn dứt, liền ngộ nhập Viên Giác nhiệm mầu của Như Lai, đầy đủ Đạo Bồ đề và Đại Niết-bàn”: Giai đoạn thứ hai, cả Sự chướng và Lý chướng đã đoạn diệt. Sự chướng tức Phiền não chướng đoạn trừ thì giải thoát khỏi sanh tử, đầy đủ Đại Niết-bàn tức Niết-bàn tối thượng. Lý chướng tức Sở tri chướng đoạn tận nghĩa là đầy đủ Đạo Bồ đề. Bồ tát tu hành viên mãn đến chỗ cứu cánh, gọi là ngộ nhập Viên Giác nhiệm mầu của Như Lai.

Này Thiện nam tử! Tất cả chúng sanh đều chứng Viên Giác, gặp Thiện tri thức, rồi y nơi Nhơn địa pháp hạnh của vị đó đã thực hành mà tu tập, liền có đốn và tiệm.Nếu gặp được con đường tu hành chơn chánh Vô thượng Bồ đề của Như Lai, căn cơ của họ vốn không lớn nhỏ, đều thành Phật quả”: Đức Phật nói về tánh thứ tư là Bất định tánh. Những chúng sanh này đã biết mình có sẵn tánh Viên Giác, muốn cầu Thiện tri thức chỉ dạy con đường tu tập để ngộ nhập tự tánh. Tùy theo sự giáo hóa của thầy mà căn cơ của họ trở thành lớn hay nhỏ, đốn hay tiệm. Nếu gặp con đường chơn chánh Vô thượng Bồ đề, thì đều được viên thành Phật quả. Điều này cho thấy vị thầy rất quan trọng, cho nên những người phát tâm cầu Phật đạo, phải thật cẩn trọng khi lựa chọn thầy bạn.

Nếu chúng sanh tuy cầu bạn tốt mà gặp người tà kiến, chưa được chánh ngộ, như thế gọi là Ngoại-đạo-chủng-tánh. Sự lỗi lầm ấy là do thầy tà, không phải lỗi ở chúng sanh”: Tánh thứ năm là Ngoại đạo chủng tánh, chỉ cho những chúng sanh muốn tu hành mà không may gặp người tà kiến. Bao nhiêu công phu tu tập lại theo tà pháp nên không thể vào được chánh đạo.

Chúng ta thấy, các hạng thuộc Thanh văn, Duyên giác và Bồ tát tánh, tuy căn cơ không đồng nhưng đều là chánh ngộ, nên vẫn có ngày viên mãn Phật quả. Ngược lại, hạng Ngoại đạo chủng tánh lại trái ngược với chánh nhơn thành Phật, nên càng tu càng xa rời chánh đạo. Trên thế giới hiện nay có rất nhiều giáo phái, nhiều người lãnh đạo tự xưng mình là Phật, là Bồ tát để lôi kéo tín đồ, đưa họ vào đường tà, không biết ngày nào thoát ra được. Đó là do người có tâm cầu đạo nhưng không có chánh kiến, gặp phải tà sư nên đi lầm vào con đường hiểm ác, chứ không phải do ý muốn của họ.

“Đó gọi là năm tánh sai biệt của chúng sanh”: Đức Phật kết luận về năm tánh sai biệt. Sự sai biệt này căn cứ vào sự đoạn trừ hai chướng và vào nhơn duyên thầy bạn, không phải căn cứ vào chủng tử có sẵn của mỗi chúng sanh.

“Này Thiện nam tử! Bồ tát chỉ dùng sức Đại bi phương tiện mà vào thế gian, dạy bảo cho người chưa ngộ, cho đến thị hiện nhiều thứ hình tướng, cảnh giới thuận nghịch, cùng họ đồng sự, khiến họ được thành Phật, ấy đều do nguyện lực thanh tịnh từ vô thỉ”. Ở đoạn này, Đức Phật trả lời câu hỏi thứ tư của Bồ tát Di Lặc, Bồ tát khi vào trần lao độ chúng sanh, phải thiết lập bao nhiêu phương tiện giáo hóa. Phật dạy, Bồ tát vào thế gian độ sanh chỉ dùng tâm đại bi làm chủ, còn phương tiện giáo hóa thì có nhiều, tùy căn cơ trình độ của chúng sanh: hoặc dùng lời nói dạy bảo, hoặc thị hiện các thứ hình tướng, hoặc tu theo thuận hạnh hay nghịch hạnh, hoặc cùng chúng sanh đồng sự để nhiếp hóa. Tất cả phương tiện đều chỉ có một mục đích, xuất phát từ đại nguyện của Bồ tát: giúp cho chúng sanh trọn thành Phật quả.

Trong nhà Thiền có truyền tụng một bài thơ rất hay, trong đó có hai câu:

Tóc bạc đầy đầu lìa hang núi

Đêm tối xuyên mây vào xóm làng”.

Tóc bạc đầy đầu” chỉ cho người đã có kinh nghiệm tu chứng rất sâu, nhưng vì đại bi đại nguyện, các Ngài phải rời chỗ an vui giải thoát tuyệt cùng (hang núi) là Đại Niết-bàn, lăn lộn vào chốn trần lao. “Đêm tối” ám chỉ cảnh giới chúng sanh vô minh; các Ngài xuyên mây vô minh vào xóm làng ngũ dục lục trần để giáo hóa chúng sanh. Thực ra, các Ngài đã đạt được Du hí Tam muội, vào các chốn trần lao như dạo chơi trong hoa viên, không bị bụi trần làm ô nhiễm, như hoa sen từ trong bùn nhơ mà vươn lên, tỏa hương thơm ngát.

Nếu tất cả chúng sanh đời mạt pháp đối với Đại Viên Giác mà khởi tâm tăng thượng, phải phát đại nguyện thanh tịnh của Bồ tát”: Tâm tăng thượng là tâm luôn tăng tiến và hướng thượng, ngày càng lớn rộng, không bao giờ ngừng nghỉ cần cầu quả vị Phật. Khi đã khởi tâm tăng thượng, chúng sanh phải phát đại nguyện thanh tịnh của Bồ tát.

Khi phát đại nguyện, nên nói như vầy: Con nguyện ngày nay trụ nơi Viên Giác của Phật, cầu Thiện-tri-thức, không gặp ngoại đạo và hàng Nhị thừa, y nguyện tu hành, đoạn dần các chướng. Các chướng đã hết, nguyện được viên mãn, được lên pháp điện thanh tịnh giải thoát, và chứng Đại Viên Giác thành diệu trang nghiêm”: Đây là lời phát nguyện, nguyện chỉ thành Phật chứ không thành Thanh văn, Duyên giác hay Quyền thừa Bồ tát. Nguyện gặp Thiện tri thức chỉ dạy cho chánh pháp tu hành, không gặp cả Nhị thừa lẫn ngoại đạo. Khi phát đại nguyện rồi, phải y theo nguyện khởi tu, lần lần đoạn trừ các chướng. Khi các chướng đã diệt tận, liền được giải thoát; lúc nguyện viên mãn, liền được trang nghiêm, cho nên Phật bảo “Được lên pháp điện thanh tịnh giải thoát, và chứng Đại Viên Giác thành diệu trang nghiêm”.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn trùng tuyên lại nghĩa trên nên nói kệ rằng :  

Di Lặc, ông nên biết!

Tất cả các chúng sanh

Không được Đại giải thoát 

Đều do nơi tham dục

Đọa lạc trong sanh tử.

Nếu đoạn được ái dục

Và cả tham-sân-si,

Không nhơn tánh sai biệt,

Đều được thành Phật đạo. 

Hai chướng hằng tiêu diệt

Cầu thầy được chánh ngộ,

Tùy thuận nguyện Bồ tát,

Nương nhờ Đại Niết-bàn.

Các Bồ tát mười phương

Đều vì nguyện Đại bi

Thị hiện vào sanh tử.

Người hiện tại tu hành

Và chúng sanh đời mạt

Siêng đoạn các ái kiến

Liền được Đại Viên Giác”.

Thế nào là “ái kiến”? - Mê sự gọi là Ái, mê lý gọi là Kiến. Mê sự là Phiền não chướng, mê lý là Sở tri chướng. Phiền não chướng ngăn lấp Niết-bàn, Sở tri chướng ngăn lấp trí huệ. Hành giả đoạn trừ được cả hai chướng này, liền trở về với Đại Viên Giác của chính mình.

Ở đây, chúng ta cần hiểu rõ tinh thần của Bồ tát. Bồ tát luôn luôn vận dụng đạo đức vô hành để nhập thế độ sanh. Vì sao gọi là “đạo đức vô hành”? Đây là công hạnh của một vị Bồ tát, giáo hóa tất cả chúng sanh mà không kể công, không tính toán.Làm tất cả mà không thấy có người làm, có đối tượng làm và có pháp để làm. Vì làm mà không kể công nên kết quả không thể nghĩ bàn. Bỏ tất cả nên được tất cả, đó là điều kỳ diệu. Đạo đức vô hành của Bồ tát là vận dụng trí tuệ xuất trần của mình giúp ích cho chúng sanh, giống như mặt trời chan rải ánh sáng, đem lại sự sống cho muôn loài; làm với tâm hoàn toàn thanh tịnh, vô sở cầu. Nếu có hoài bão thì đó là mong sao cho chúng sanh bớt khổ được vui, cuối cùng giải thoát khỏi luân hồi. Vì vậy, Bồ tát mới có thể đầy đủ phước báo và trí huệ, tiến đến Phật vị. Nếu chỉ có huệ mà không có phước thì chỉ thành A la hán. Nếu có phước mà không có huệ thì chỉ là chúng sanh có nhiều phước báo mà thôi. Kinh nói “Phước huệ trang nghiêm phương tác Phật”, phước và huệ trang nghiêm mới làm Phật được. Cho nên, Bồ tát vĩnh viễn ở trong luân hồi, vĩnh viễn lăn lộn vào các cõi để độ sanh, và cũng vĩnh viễn an trụ trong Đại Niết-bàn. Nhà Thiền có câu :

Trúc ảnh tảo giai trần bất động

Nguyệt luân xuyên hải thủy vô ngân.

Tạm dịch :

Bóng trúc quét sân trần chẳng động

Vầng trăng xuyên biển nước không chao.

Bóng trúc” là ý-sanh-thân của Bồ tát, các Ngài đi vào trần lao nhưng không làm động một mảy trần, ăn cơm mà miệng không dính một hạt gạo, mặc áo mà không dính một tấc tơ. Bóng trúc quét lên sân không làm bụi dưới đất bị động, Bồ tát ở trong trần độ sanh mà tâm không một chút nhiễm nhơ. Vầng trăng in bóng trên mặt biển, thấy dường như trăng xuyên xuống biển sâu nhưng không làm nước biển chao động, như Bồ tát làm an lạc cho chúng sanh nhưng hững hờ với tất cả. Vì hững hờ nên có chí xung thiên, đôi khi dám phiêu lưu, dọc ngang trời đất, dám làm dám chịu. Bồ tát lấy trời đất làm nhà, bốn biển đều là anh em, khi thì du sơn ngoạn thủy, lúc an trụ ở một trú xứ cố định. Các Ngài hiểu rằng, hành pháp độ sanh mới viên mãn Phật quả. Có Bồ tát dạy bảo, chúng sanh mới biết đường tu hành; ngược lại, chúng sanh là đối tượng cần thiết cho Bồ tát tròn bản nguyện Giác tha. Các Ngài thấy rõ, mình không phải là người ban ơn và chúng sanh là kẻ chịu ơn, nên khớp với tinh thần Ba-la-mật là vô trú, vô trước, vô nhiễm. Chính Ba-la-mật là đại hạnh, là mật hạnh của Bồ tát.

Lại nữa, Bồ tát luôn chuẩn bị cho mình một trí tuệ siêu xuất. Từ trí tuệ đó, các Ngài không phân biệt ta và người, nên phát triển lòng từ bi tự nhiên. Với lòng từ bi, các Ngài vận dụng mọi phương tiện thiện xảo, tùy căn cơ, tùy hoàn cảnh mà cứu giúp chúng sanh một cách hiệu quả nhất. Có thể nói, trí tuệ siêu xuất, lòng từ bi vô hạn và phương tiện thiện xảo, ba yếu tố này dựng lập nên công hạnh của Bồ tát và sinh hoạt nhịp nhàng trong nhân cách của các Ngài.

 

~~oOo~~
 
Mục Lục | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13

 


Vào mạng: 23-07-2007

Trở về thư mục "Kinh điển"

Đầu trang