Trang tiếng Anh

      Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt

   

...... ... .  . .  .  .
Phật Giáo và sự khoan dung
cho những dị biệt Tôn Giáo & Đức Tin
Sulak Sivaraksa
Mỹ Thanh dịch

Để tránh việc đơn giản hóa, tôi đề nghị mỗi tôn giáo lớn trên thế giới nên gồm có hai khía cạnh chánh : thứ nhất là Tình thương đại đồng, và thứ hai là tình thương đoàn thể, tông phái, hoặc chỉ cho mình là trọng tâm, trên hết tất cả.

Nếu chúng ta không cẩn thận, tôn giáo của chúng ta có thể trở nên cố chấp, vì chúng ta thấy chỉ có tôn giáo mình mới chân chính và đưa đến giải thoát, và những người khác tôn giáo là những kẻ lạc đường.

Thật không may, vẫn còn những tôn giáo vẫn tìm cách khuyến dụ người vào đạo, bằng những lý tưởng có hại , không sáng suốt. Tôi muốn nhắc đến một đoạn trong " Cuộc truyền giáo ở ngoại quốc"

( Overseas Missionary Fellowship - August-September, 1987). Bài nầy có tựa đề là " Tìm tự do thật sự ở Thái Lan."

Đối với chín mươi chín phần trăm dân Thái, bị ảnh hưởng của ma quỷ là một nỗi sợ hãi lớn... Nhất là đối với những dân tộc bộ lạc tin vào thuyết duy linh ( animistic), luôn cả những nhà thương mại giàu có, sinh viên, và nông dân chất phác, cũng không ngoại lệ... Trong câu chuyện, trong chương trình truyền hình, hay những đồ trang trí của cá nhân hay nơi nhà ở cũng thể hiện ảnh hưởng nầy. Hiện tại, chưa có gì cũng như chưa có ai có thể làm cho con người bớt nỗi lo sợ trong việc tìm cách 'vận dụng' những sức mạnh của thần thánh, vì đồng thời họ cũng có thể trở thành nạn nhân của những sức mạnh nầy.

Nếu các bạn có đọc bài nầy, các bạn sẽ đi đến kết luận là dân Thái muốn được cứu rỗi phải nhờ đến những nhà truyền giáo, hoặc nếu là dân bộ lạc thì phải cần viện trợ của Mỹ. Tôi nghĩ rằng những người mà bám chặt vào tôn giáo hay lý tưởng là những người khó có thể kính trọng được người khác, nhất là những người nghèo, vì biết đâu những người nầy lại rất tự hào về tôn giáo của họ và chưa chắc là họ kém hơn những nhà giáo sĩ về phần tâm linh .

Thật ra danh từ " chủ nghĩa tông phái, bộ lạc" không phải là một từ 'làm giảm giá trị', nhưng khi một tôn giáo lớn hay quyền lực tối cao trở thành ' tông phái', thì nó dễ bị thoái hóa thành đạo đức giả và kiêu mạn, mà từ đó có thể dẫn đến kỳ thị chủng tộc, như chúng ta thấy ở Nam Phi và những nơi khác. Nhưng, nếu chúng ta chú tâm đến những khía cạnh của tôn giáo về tình thương đại đồng, thì chúng ta sẽ trở nên khiêm tốn hơn, vị tha hơn và thật sự kính trọng tất cả--từ con người, thú vật, cho đến những hiện tượng thiên nhiên. Từ đây, sự phát triển về xã hội cũng như kinh tế sẽ trở nên bất bạo động. Chúng ta sẽ không còn tàn ác với đồng loại , và biết mến yêu trái đất. Chúng ta cũng không nhân danh sự phát triển mà cướp đoạt những tài nguyên thiên nhiên. Những khu rừng sẽ được bảo vệ, sông ngòi sẽ khỏi bị ô nhiễm. Và chúng ta sẽ hiểu rằng sự phát triển chỉ có thể xảy ra trong vòng hiểu biết giữa con người với muôn vật.

Để gạt bỏ chủ nghĩa : tông phái, bộ tộc, dân tộc, tư bản và tiêu thụ, người có tín ngưỡng cần phải thực tập với tình thương đại đồng. Trong khi chúng ta làm việc riêng hay tư, bất cứ ở đâu, chúng ta phải nên suy nghĩ một cách bao quát, để cho tính vị kỷ có thể từ từ trở thành vị tha.

Lúc đó, chắc chắn chúng ta sẽ biết kính trọng những tôn giáo và những lý tưởng khác một cách hết lòng. Mặc dầu bạn có thể không hoàn toàn đồng ý với tầm nhìn & đức tin đó, bạn vẫn có thể kính trọng chúng.

Kể cả khi chúng là những kẻ áp bức bạn, bạn cũng không cần ghét họ, vì sự thù ghét chỉ làm hại cho chính bạn thôi.

Thay vì thù ghét những kẻ áp bức bạn, bạn nên tìm hiểu hệ thống áp bức và thử tìm cách để thay đổi nó, với tính cách bạn bè tốt giúp đỡ nhau, để khắc phục khó khăn, đau khổ, trong môi trường phát triển văn hóa và tâm linh--cũng như phát triển xã hội và kinh tế. Nếu bốn sự phát triển : văn hóa, tâm linh, xã hội và kinh tế được hợp nhất, tức thời sự phát triển thật sự của nhân loại sẽ được thể hiện.

Tiếc thay, trong hai thế kỷ qua, tình thương đại đồng nơi tôn giáo đã thoái hóa và dường như được thay thế bằng tình thương tông phái, và cho đến nay trở thành một quy tắc tiêu chuẩn. Phần lớn các nhà thờ, nhà nguyện khoan dung và ủng hộ chế độ đang cầm quyền không cần thiết là chế độ đó áp bức hay không. ( Dĩ nhiên là có những ngoại lệ). Và khi mà chủ nghĩa tư bản xuất hiện, Tin lành, Công giáo, Phật giáo, Ấn độ giáo dường như chỉ phục vụ cho những kẻ giàu có, trong khi những nhà giáo sĩ, tu sĩ thì chỉ phục vụ dân nghèo "bằng miệng." Trong điều kiện tốt nhất, họ xung phong chăm sóc người nghèo túng, nhưng cho đến nay vẫn không có dấu hiệu gì cho thấy là vấn đề xã hội và kinh tế được thay đổi để bao người hưởng được sự công bình và hạnh phúc. Tỉ lệ kém dinh dưỡng của trẻ em đang gia tăng, cùng với nạn du lịch mãi dâm, chế độ quân phiệt, chế độ tư bản và tiêu thụ cũng không giảm. Nhiều nhà lãnh đạo tôn giáo đang tìm cách liên kết với các giáo sĩ thế tục để thay đổi nơi đây thành một nơi an lành và ý nghĩa, nhưng cho đến nay cũng chưa tạo được những thay đổi căn bản phổ biến trong việc bảo đảm quyền lợi của con người khỏi sự bóc lột của chính trị và tôn giáo. Tây Tạng, Miến Điện, và Bangladesh có những tình trạng đặc biệt, nhưng sự đau khổ, nói chung xuất hiện ở khắp mọi nơi. Thêm vào đó, sự thiếu thốn lương thực, nhà ở, quần áo, thuốc men cho một số đông các nước là một điều thật kinh khủng-- chưa nói đến sự khổ vì nước và không khí bị ô nhiễm.

Thật ra sự gia tăng của các giáo sĩ thế tục có học thức là một nguyên nhân chánh để hình thành một thế giới mới. Nhìn qua lịch sử thì chúng ta thấy : Sự hướng dẫn xã hội từ lúc khởi đầu, thật ra, bắt đầu nơi các tu sĩ, người sao chép kinh sách, thầy bói, cùng những nhà trí thức ; nhưng sự cải tiến của họ về mặt đạo đức và lý tưởng bị hạn chế bởi những truyền thống lâu đời, cũng như bởi những quyền lực đến từ ngoài. Và do đó, họ không thể trở thành những nhà tư tưởng tự do.

Với sự suy thoái về quyền lực của giới tu sĩ từ thế kỷ thứ mười tám, một loại nhà giáo dục mới xuất hiện để điền vào chỗ trống đó và họ đã chiếm được cảm tình của xã hội thời bấy giờ. Những nhà trí thức có thể là nhà thần học, kẻ hoài nghi, hay kẻ vô thần. Và họ cũng sẵn sàng chỉ dẫn con người về mặt đạo đức như những giám mục hay mục sư. Họ tuyên bố ngay từ buổi đầu, với sự nhiệt tâm làm lợi ích cho con người, với nhiệm vụ rao giảng phúc âm.

Sự hiểu biết tổng quát trong quá khứ, truyền thống, và những kinh nghiệm của người đi trước được chọn lựa kỹ lưỡng để được học theo hoặc bị loại bỏ.

Lần đầu tiên trong lịch sử loài người, với sự lớn mạnh của niềm tự tin và lòng bạo dạn, con người đã vươn lên và lên tiếng là họ có thể phân tách những cái sai và có thể sửa chữa những điều nầy bằng vào sự hiểu biết của họ : hơn nữa, họ có thể đặt kế hoạch mà nếu theo vào đó, chúng ta có thể thay đổi kiến trúc của xã hội, và những thói quen căn bản của con người cũng theo đó mà được hoàn hảo hơn. Không như những giáo chức đi trước, tự coi mình là người thay thế Thượng đế.

Những nhà trí thức đã soi xét kỹ lưỡng các tôn giáo đã giúp ích hay làm hại con người và những giám mục, giáo sĩ có giữ mình hay không, có thật sự từ bi và vị tha, và những kết luận được nhìn nhận nơi các giáo chức cũng như nhà thờ thật là không hay chút nào.

Trên hai thế kỷ qua, sự ảnh hưởng của tôn giáo đang trên đà suy thoái và những giáo sĩ thế tục, trí thức đã đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành quan điểm của chúng ta cũng như những tông phái. Nhìn vào những nhà trí thức trên thế giới đã góp phần hình thành thế giới sau cuộc cách mạng Pháp, Nga, cho đến sự cách mạng văn hóa ở Trung Hoa, và chế độ Pol Pot ở Cam bốt, tôi đi đến một kết luận khá đau lòng là những giáo sĩ đứng đầu, đã làm chúng ta thất vọng--cho dù họ là Rousseau, Karl Marx, Tolstoy, Brecht, Bertrand Russell or Mao Tse-Tung.

Đặc biệt, nếu chúng ta chú ý đến những gì họ khuyên người khác về mặt giáo dục cũng như đạo đức, và so sánh với cuộc sống của cá nhân họ, --thì sự liên hệ với gia đình, thân hữu, và đồng nghiệp nói chung thật là kinh khủng--đấy là chưa nói đến đời sống sinh lý và cách tiêu xài của bản thân họ.

Một người sẽ tự hỏi không biết họ đã nói thật, và làm thế nào để phương thức của họ đứng vững với thời gian và tập quán. Thật ra họ cũng đem đến cho chúng ta những áng văn chương tuyệt đẹp, làm cho sự suy nghĩ của chúng ta nhạy bén hơn, nhưng đồng thời cũng góp phần trong sự đau khổ của nhân loại.

Theo thiển ý của tôi, những giáo sĩ thế tục cũng thất bại vì họ cũng trở nên quá dễ dãi và tự cao. Họ cũng thiếu sự cam kết về sự thay đổi bản thân, cũng như Tolstoy đã làm và thất bại. Nhưng lại có ảnh hưởng rất tốt đối với Gandhi và Martin Luther King.

Là một người Thái, tôi coi vị anh hùng dân tộc, Phya Anuman Rajadhon, người được hội UNESCO công nhận trong năm qua, là một nhà lãnh đạo trí thức, dù rằng ông ta không là thông thái, hay nổi tiếng. Ông là người rất bình dị và khiêm tốn chỉ tự xem mình là một người bình thường có thời gian để kính trọng mọi người, và khuyến khích mọi người trở nên hoàn hảo hơn cả chính ông ta. Tôi nghĩ rằng khi mà chúng ta biết được giới hạn của chính mình và biết kính trọng người khác thì ít khi nào chúng ta đi sai. Chúng ta nên tìm cách phát triển cho chính bản thân cũng như xã hội dựa trên sự biết khen ngợi, trên sự hiểu biết về văn hóa của dân tộc mình--luôn cả những phong tục về mặt tâm linh, kế đến là sự phát triển kinh tế sẽ không quá bị ngăn cách giữa kẻ giàu và người nghèo, và mọi người không phân biệt giàu nghèo đều có thể sống hạnh phúc.

Mặc dầu, Phật giáo với chữ B hoa vẫn có thể mang ý nghĩa lệch lạc, có thể bị dùng để cũng cố chế độ độc tài hoặc những hội đoàn thiếu đạo đức, nếu chúng ta có thể chỉ hướng đến tình thương đại đồng thì chúng ta sẽ đánh vần chữ Phật giáo với chữ b nhỏ. Vì vậy chúng ta hãy bắt chước nối gót theo Bụt, các bạn công giáo thì nối gót theo đấng Christ, và các bạn Hồi giáo nên dâng cái ngã của họ cho Thượng Đế.

Luật thứ nhất trong phật giáo với chữ b nhỏ được đọc như sau : " Đừng thần tượng quá, đừng bám viú vào bất cứ giáo điều gì, dù là lý luận hay lý tưởng, dù đó là lý luận, hay lý tưởng của Phật giáo. Tất cả những phương thức của sự suy nghĩ chỉ là phương tiện; chúng không phải là Chân Lý."( Giới thứ nhất của dòng Tiep Hien ).

Có lẻ đây là điều đối nghịch nhất đối với những lời dạy có tính cách giáo điều.

Thầy Thích Nhất Hạnh, vị tu sĩ Phật giáo, người Việt Nam, viết : " Nếu bạn có một khẩu súng, bạn có thể bắn một người, hai, ba, năm người, nhưng nếu bạn có một lý tưởng và bám chặt vào đó, nghĩ rằng đây là Chân Lý, thì bạn có thể giết hàng triệu người... Hòa bình chỉ có thể thực hiện được khi chúng ta không bám viú vào một quan điểm, khi chúng ta không mù quáng." Một khi mà bạn hiểu rõ và thực tập điều nầy trong đời sống hằng ngày, thì lúc ấy bạn sẽ biết tán thưởng tầm quan trọng của những dị biệt tôn giáo và niềm tin.

Nếu chúng ta có lòng, thì nên hợp nhất những dị biệt và tìm cách để làm giảm sự đau khổ của đồng loại. Chúng ta không nên gom góp của cải trong khi bao triệu người đang đói. Đây không phải là những lý tưởng xa vời, mà nếu chúng ta thực tập, có thể mang lại kết quả khả quan cho sự công bình trong xã hội & là bước đầu cho việc kiến tạo hòa bình.

Nhưng muốn thực hiện điều nầy với Chánh niệm, chúng ta phải theo lời Thầy Thích Nhất Hạnh, " không nên để mình bị phân tán và đừng đánh mất mình nơi hoàn cảnh chung quanh."

Chúng ta nên "thực tập thở để lấy lại quân bình cho cơ thể cũng như tinh thần, thực tập Chánh niệm, để phát triển sự chú tâm và hiểu biết." Cách nầy dẫn đến sự phát triển " không hai ", nơi đây một người có thể sống an lạc với chính mình và như vậy người đó mới có thể thực hiện được việc kiến tạo hòa bình trên thế giới.

Chúng ta nên nhấn mạnh sự liên tục của "bên trong" và "bên ngoài", gọi thế giới là " cái ngã lớn của chúng ta " như vậy chúng ta mới có thể hăng hái lo lắng cho nó. Tôi hy vọng quan điểm nầy sẽ hướng dẫn chúng ta trong công việc tìm sự công bình cho xã hội, và việc kiến tạo hòa bình.

Mỗi người trong chúng ta phải tự kiểm những hành động của chính mình trong những liên hệ với cộng đồng xã hội. Tôi tin tưởng quan điểm nầy rất lợi ích cho việc phát triển tinh thần, và cơ thể--sự phát triển toàn diện nơi con người.

Với tôi, để tạo dựng sự hiểu biết, sự kính trọng giữa con người với nhau trong những dị biệt tôn giáo hay niềm tin, một người cần phải có gì khác hơn là lý tưởng. Tâm linh phải được phát triển, không bám viú vào lý tưởng. Một người đã nói : " Vấn đề lớn của tôn giáo hiện nay là phải làm sao, ta vừa là chiến sĩ, vừa là người thần bí; nói khác đi, làm sao để kết hợp sự tỉnh thức bên trong với những công tác xã hội bên ngoài, và làm sao để tìm được con người thật của mình ở hai nơi nầy."

http://www.buddhismtoday.com/viet/doi/019-mythanh-khoandung.htm

 


Cập nhật: 1-4-2001

Trở về mục "Đối thoại"

Đầu trang