Trang tiếng Anh

Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt   

   

...... ... ..  . ..  .  .
SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN GIÁO HỘI NI TẠI ẤN ĐỘ

Như chúng ta biết Đức Phật đạt giác ngộ tại Bồ-đề-đạo-tràng lúc 30 tuổi. Sau đó, ngài trải qua thời gian 49 năm (theo Phật giáo Nguyên thuỷ là 45 năm) để du hành thuyết pháp. Ngài đã thành lập tăng đoàn, ni đoàn, nam và nữ Phật tử.

Thật ra đầu tiên, Đức Phật chỉ thành lập tăng đoàn, vấn đề cho người nữ xuất gia (pabbajja) là vấn đề hết sức đắn đo thận trọng.

Bối cảnh xã hội Ấn độ lúc bấy giờ, việc trọng nam khinh nữ, thích sanh con trai hơn con gái và chế độ phân chia bốn giai cấp: tu sĩ (Bà-la-môn), vua quan (Sát-đế-lợi), nông-công-thương (Tỳ-xá) và cùng đinh (Thủ-đà-la) đã ảnh hưởng rất mạnh trong đời sống người dân Ấn. Tuy hiện nay dù có giảm nhưng vẫn còn tồn tại. Hiện tượng người nữ ẩn dật tu hành dù là ít nhưng cũng là đã có ở Ấn độ cổ đại ngay trước khi Phật giáo xuất hiện. Xa lánh xã hội và sống một đời sống độc thân là tánh cách đặc biệt của mẫu đời sống Ấn độ.

Trong Vệ-đà và kinh sách của đạo Loã thể (Jain) cũng chứng minh cho thấy có các ni khất sĩ tồn tại và tiếp tục phát triển cho đến thời Đức Phật: "Ba mươi sáu ngàn phụ nữ chống lại mười bốn ngàn đàn ông để được rời bỏ đời sống gia đình và trở thành ni khất sĩ của phái Svetambara thuộc đạo Loã thể".

Giáo hội ni Phật giáo hình thành và xuất hiện như bổ sung thêm vào phong trào cộng đồng ni giới của các tôn giáo khác: "Đây không phải là một ý tưởng mới lạ. Đã rất nhiều nữ giới đã sẵn sàng từ bỏ những ràng buộc trần gian đã từng trói buộc họ và trở thành bậc xuất thế".

Vào thời kỳ đầu của Phật giáo, phụ nữ đã đấu tranh một cách liều lĩnh quyết liệt để được sống đời sống phạm hạnh viễn ly và thoát khỏi những ràng buộc trần gian.

Di mẫu Ma-ha-ba-xà-ba-đề và năm trăm nữ quý tộc dòng họ Thích là những người đầu tiên từ bỏ những ràng buộc trần gian và thành lập ni đoàn. Di mẫu mặc dù xuất thân từ hoàng thân, nhưng là người phụ nữ đầu tiên hy sinh tất cả phú quý vinh hoa để sống một đời sống viễn ly. Di mẫu phải đối diện trước những thực tế cực khổ của đời sống, tranh đấu vượt qua nhiều chướng ngại và thành kiến về nữ giới lúc bấy giờ.

Tình thương và lòng vị tha của Đức Phật đối với người nữ là vô hạn. Ngài đã mở một con đường mới cho người nữ có thể dự vào nấc thang giải thoát để họ trở thành hữu ích, lợi mình và lợi người. Lịch sử đã minh chứng ngài là vị đã mang nhiều lợi ích lớn cho phụ nữ, đã đưa ra tiến trình giải thoát tâm linh và công nhận họ cũng có khả năng thành tựu các thánh quả như chư tăng.

Các câu chuyện trong Trưởng lão ni kệ là một minh chứng hùng hồn cho thấy ni giới có thể đạt bốn quả thánh như Tu-đà-hoàn (Sotapanna), Tư-đà-hàm (Sakadagami), A-na-hàm (Anagami) and A-la-hán (Arahant) và cũng có thể dấn mình hoằng pháp như chư tăng. Giới nữ lưu đã trở nên an lạc và hạnh phúc trong nếp sống quy củ thiền môn, sống hạnh viễn ly thanh tịnh. Họ đã trải qua phần lớn đời mình trong tu tập giới-định-tuệ, giải thoát và giải thoát tri kiến. Trong đó, có nhiều ni ưu tú như cô Bhadda Kundalakesa là nữ hùng biện tài giỏi. Không ai có thể đánh bại luận thuyết của cô, ngoài trừ tôn giả Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên. Sư cô Patacara là nữ pháp sư nổi danh, đã hoá độ năm trăm người nữ trong một lần và sư cô cũng là nữ luật sư tài ba trong các luật sư (vinayadhara) thời bấy giờ. Các tỳ kheo ni như Nguyệt-tinh (Soma), Ci-sa Kiều-đàm-di (Kisa Gotami), Bạt-đà Ca-tì-la (Bhadda Kapilani), A-no-pa-ma (Anopama), Ca-la (Cala), U-pa-ca-la (Upacala), Si-su-pa-ca-la (Sisupacala)… cũng đã đóng góp rất nhiều trong sự nghiệp du hành hoằng dương Phật pháp. Tỳ kheo ni Bhadda Kundalakesa nói: "Tôi đã du hành khắp xứ Ương-già (Anga), Ma-kiệt-đà (Magadha), Bạt-kỳ (Vajji), Ca-si tức Ba-la-nại (Kasi) và Kiều-tát-la (Kosala) vì lợi ích cho chúng sanh đau khổ mà thuyết pháp trên 50 năm nay". Trong Tương ưng bộ kinh kể tỳ kheo ni Thanh-tịnh (Subha) đã thuyết pháp giữa một hội chúng đông đảo tại Vương-xá (Rajagaha). Trong Dipavamsa (Nam truyền Phật giáo Sử thư / Đảo sử, chương XVIII) đã nói tỳ-kheo-ni Bảo-an (Khema), (trước đây là hoàng hậu của Bình sa vương, nước Ma-kiệt-đa)ø là pháp sư nổi tiếng, có trí tuệ và là thầy dạy luật. Tỳ kheo ni Dhammadinna là một triết sư Phật giáo. Trong Trung bộ tường thuật có cuộc tranh luận về triết học giữa cô và chồng trước của cô là Visakha, người đã đưa các vấn đề liên quan về ngã kiến (sakkayaditthi), Bát chánh đạo (Ariya Atthangika Magga), hành (sankhara), diệt (nirodha)… Tỳ kheo ni Dhammadinna trả lời một cách thuyết phục những điều này trước hội chúng đông đảo. Tỳ kheo ni Bảo-an (Khema), Uppalavanna, Dhammadinna là những hình ảnh của ni giới tài ba và trí tuệ trong Ấn độ cổ đại. Uppalavanna là một tỳ-kheo-ni nổi tiếng về thần thông (iddhi), trong khi tỳ kheo ni Hoan Hỉ (Nanda) và Kundalakesa nổi bật trong thiền và trí. Chẳng những tiếng thơm được biết trong chốn thiền môn mà còn lan nhanh cả ra giới bên ngoài.

Điều này đã cho thấy ni giới có khả năng thành tựu các Phật sự và đạt thánh quả như chư tăng.

Trước khi giáo hội ni được thành lập, trong sự giới hạn của xã hội và nữ giới nói chung khó tìm được cơ hội để nghe Phật pháp. Sau khi Đức Phật từ bi cho thành lập ni đoàn, sự ảnh hưởng của ni giới đã góp phần khiến cho Phật pháp được lan truyền khắp nơi trong một thời gian ngắn. Có nhiều trường hợp, trong đó toàn gia đình trở thành phật tử thuần thành, quy y Tam bảo chỉ do được một tỳ kheo ni thuyết pháp cảm hoá. Ni giới có thể tiếp cận dễ dàng các nữ quý tộc hoặc phụ nữ nói chung để chỉ ra con đường an lạc hạnh phúc giữa những lo toan của cuộc đời (tự tại giữa khổ đau) để họ có thể quy y Tam bảo trở thành phật tử tại gia hoặc xuất gia theo tuỳ nhân duyên của từng vị. Những phụ nữ giàu có như Đại-mãn (Visakha), Am-ba-pa-ly (Ambapali), Bảo-an (Khema), U-pa-la-van-na (Uppalavanna), Sa-ma-va-ty (Samavati), con gái của Anathapindika và nhiều nữ Phật tử khác đã tận tâm, tận lực ủng hộ trong việc phổ biến Giáo hội ni. Kỹ nữ xinh đẹp Ambapali gia nhập vào ni đoàn và đã đem tài sản của mình để xây dựng một đại tùng lâm trang nghiêm tráng lệ cho chư tăng ni tu học. Con gái của Anathapindika thuyết phục các thành viên bên cha chồng quy y Tam bảo và cô ấy cũng thành lập một trung tâm Phật giáo tại Anga. Còn nhiều ví dụ nữa rải rác trong các kinh tạng Pali. Phật tử đã cúng dường chư ni thực phẩm, quần áo, giường nằm, thuốc men… Ngược lại, chư ni cũng đã tặng họ các món quà tinh thần bất tử của pháp nhũ. Cứ như thế trong nhiều thời đại, chư ni đã nhiệt tình trong việc hoằng pháp, xây dựng một thế giới an lạc cho con người.

Các bằng chứng khảo cổ và văn học đã minh chứng sự hưng thịnh nhanh chóng của giáo hội ni trong vài trăm năm nữa sau khi được thành lập. Các bia ký Ấn độ khắc ghi sự tồn tại của giáo hội ni tại Ấn độ. Các sắc lệnh trên trụ đá Bhabru và Schism của hoàng đế A-dục đã ghi dấu sự tồn tại của các tỳ-kheo cũng như tỳ-kheo-ni và cũng cho thấy các tỳ-kheo-ni bình đẳng năng lực trong vấn đề thống nhất hay phân chia trong Tăng già Phật giáo. Các thông tin về sứ mệnh truyền bá đạo Phật vào Tích lan của tỳ-kheo-ni Sanghamitta cũng được tìm thấy ghi trong sắc lệnh của vua A-dục. Sau khi lên ngôi, trước và trong suốt triều đại Sunga-Maurya, nhiều bia ký trên mái chắn các tháp tại Sanchi, Bharhut, Bodh-gaya (Bồ-đề-đạo-tràng) đã ghi nhận nhiều Phật sự của các tỳ-kheo-ni. Nhiều trung tâm khác gần Sanchi, Bharhut… cũng lưu dấu những bước chân hoằng pháp của giới ni.

Có nhiều (17 tấm) bia khắc trên rào chắn ở Bồ-đề-đạo-tràng tôn vinh tán dương tỳ-kheo-ni Kurangi như là bậc A-la-hán (Aya / Arya Kurangi). Trước khi trở thành tỳ-kheo-ni, Kurangi là hoàng hậu của vua Indragnimitra. Khi vua băng hà, bà đã xây hai tu viện lớn cho tăng và ni để hồi hướng công đức cho vua và sau đó bà đi xuất gia. Trong bia khắc ở hang động Phật giáo Junnar ghi có một ni viện (Bhikkhuni-upasaya) thuộc phái Dhammuttariya toạ lạc trong thị trấn. Tấm bia ký ở tháp Amaravati đề cập có bốn chúng đệ tử của Đức Phật là tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, cận-sự-nam và cận-sự-nữ.

Theo tường thuật của ngài Pháp Hiền, giáo hội ni đã tồn tại ở Mathura cho tới thế kỷ V-VI: "Các tỳ-kheo-ni chính nhờ sự ủng hộ các tôn giả A-nan, ngài đã khẩn xin đức Thế Tôn cho phép người nữ được xuất gia".

Trong bia khắc tiếng Phạn thuộc năm 549-550 triều đại Gupta, tỳ kheo ni Jayabhatta thuộc dòng tộc Thích Ca đã cúng dường xây dựng tu viện Yasovihara.

Ngài Nghĩa-tịnh viếng thăm Ấn độ vào cuối thế kỷ thứ VII đã tường thuật: "Chư ni tại Ấn độ khác với chư ni tại Trung quốc. Họ sống một đời sống nghèo nàn, đơn giản và sinh kế bằng khất thực". Subandhu trong Vasavadatta nói rằng các tỳ-kheo-ni tín tâm vào Bồ tát Đa la hay Quan thế âm (Tara) … Không có các tác phẩm của Phật giáo hay Bà-la-môn giáo đề cập đến các tỳ-kheo-ni ở thế kỷ IX-X. Dường như rằng trước thời gian này giáo hội ni không còn tồn tại ở Ấn Độ nữa hoặc chỉ còn rải rác. Cuối cùng thì cùng với số phận của Phật giáo, giáo hội ni cũng bị tiêu diệt trước cuộc càn quét của Hồi giáo vào thế kỷ X trở đi.

Tóm lại, nói về những nguyên nhân đưa đến sự phổ biến Phật pháp tại Ấn độ, thì sự đóng góp của ni giới cũng là một yếu tố quan trọng. Sự cống hiến của họ cũng rất đáng kể. Giáo hội ni trong hầu hết mọi lãnh vực cũng có chức năng như tăng và trở thành một phần không thể thiếu trong tăng già, đã cùng chư tăng xây dựng ngôi nhà Phật pháp và đặt viên đá nền móng đầu tiên để từ đó, hương thơm giải thoát của Đức Phật được lan rộng đượm nhuần khắp thế giới như ngày nay.

Cuộc đời tu hành của chư tổ ni là những tấm gương sáng ngời để giới nữ lưu cùng suy gẫm và noi theo trên con đường hành đạo của mỗi người con Phật chúng ta và cũng cho thấy con đường của Đức Phật mở rộng cho mọi người, không phân biệt nam hay nữ. Tấm gương dũng cảm quyết tâm tu tập để đắc đạo quả cao thượng của các tỳ-kheo-ni tiên phong trong ni đoàn của Đức Phật luôn là một nguồn cảm hứng cho tất cả mọi người con Phật chúng ta trong hơn hai ngàn năm trăm qua.

WUS University Hostel, Delhi 24-01-05

THAM KHẢO

  1. Monastic Life of the Early Buddhist Nuns, Subhra Barua Atisha, Calcutta, 1997.
  2. The Buddha and his Teachings, Narada, Buddhist Missionary Society, Malaysia, 1977.

http://www.buddhismtoday.com/viet/dien/giaohoini-ando.htm

 


Vào mạng: 26-02-2005

Trở về mục "Diễn đàn"

Đầu trang