Trang tiếng Anh

      Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt

   

...... ... .  . .  .  .
Phê Bình "Thần Học Ky-tô Giáo theo Cung Cách Châu Á"
của Mục Sư Choan Seng Song (Tống Tuyền Thịnh)
Thích Nhật Từ

IV. Phật giáo du nhập Trung Quốc thế nào?

1. Sự đồng hóa bất chấp thực tế

Điều gì đã khiến Mục Sư Choan Seng Song, Mục Sư Tin Lành giáo nghiên cứu lịch sử Phật giáo truyền nhập Trung quốc? Có thể trả lời dứt khoát ông không nghiên cứu để mà phục vụ Phật giáo. Ông nghiên cứu để phục vụ cho ý đồ "đồng hóa" ngay từ ban đầu của ông, từ ngữ mà tôi phải bất đắc dĩ lập đi lập lại nhiều lần. Chúng ta hãy đọc những đoạn văn dưới đây sẽ rõ:

Phật giáo Trung Quốc là một bộ phận quan trọng bậc nhất của tôn giáo toàn Á Châu này. Do đó, về mặt lịch sử cũng như thần học, Phật giáo đã thâm nhập đất Trung Hoa ra sao cũng là một vấn đề lý thú như cách thức Kitô giáo chinh phục Châu Âu và Bắc Mỹ. Vấn đề này sẽ giúp chúng ta lần ra manh mối để hiểu Thiên Chúa hoạt động ra sao trong lịch sử nhân loại (tr. 166).

Hay một sự mừng thầm hóm hỉnh, đầy dụng ý: "Điều thú vị là cùng một thời Phật giáo vào Trung Hoa, còn Kitô giáo thì xuất hiện ở Palestine. Người Kitô hữu chúng ta nên chú ý sự trùng hợp quan trọng này" (tr. 188). Rốt đến cách đặt vấn đề nặng lòng tiếc nuối an ủi:

"Thế nhưng tin mừng của Thiên Chúa Kitô truyền đi sang Rôma, chứ không sang Hán. Trái lại, Phật hoằng dương đến Hán, chứ không đến Rôma. Phải chăng là vì núi non hiểm trở, sa mạc cách ngăn giữa Ấn Độ và Trung Hoa với Palestine và thế giới dưới quyền kiểm soát của La Mã? Có thể là như thế!" (tr. 170).

Cũng với niềm tin Thiên Chúa Toàn Năng cứu chuộc, ông lại viết: "Mà lạ lùng thay, cái chuyện khác ấy - Kitô giáo trong thế giới phương Tây, lại đi đôi với chuyện Phật giáo ở Trung Quốc, và vì lẽ ấy, ở Châu Á nói chung" (tr. 173).

Không chỉ thế, ông dẫn lời Eusebius, sử gia về lịch sử Giáo hội Thiên Chúa sơ khai, để đồng hóa sự kiện Hán Minh Đế về việc Phật giáo du nhập Trung Quốc (điều mà có lúc ông bảo là dật sử hoang đường - tr. 167) với Constantine, bành trướng Thiên Chúa giáo sang Rôma bằng chiến tranh - hai vấn đề mà từ bản chất, nội dung cho đến thời gian, không gian hoàn toàn khác lạ, không thể là nhau:

Constantine đã thắng trong trận đánh quyết liệt ở cầu Milvian gần Rôma, năm 312, với dấu thập giá phất phới đi đầu đạo quân - dấu ấy ông đã thấy trong một thị kiến khi đang cầu nguyện hôm trước trận đánh. Điều này có làm ta liên tưởng đến truyền thuyết tương tự về giấc mơ của Hán Minh Đế và khởi thủy của đạo Phật tại Trung Quốc chăng? (tr. 175).

Kế đến ông còn đối chiếu hai sự thành công trong công cuộc truyền giáo của đạo Phật ở Trung Quốc và đạo Thiên Chúa ở thế giới Hy-La, để kích thích đức tin nhẹ dạ của những tín đồ đạo Kitô vốn tin triệt để vào Thiên Chúa, cho rằng Phật giáo "là một phần Thiên Chúa giáo": Những người Châu Âu theo đạo Kitô chắc không biết mảy may rằng Kitô giáo làm được gì cho thế giới Hy-La, thì Phật giáo cũng làm những điều như thế cho Trung Quốc Nho Lão" (tr. 177). Dưới đoạn văn nầy, để trả lời câu hỏi ông đặt ra là "làm thế nào đạo Phật có thể đạt được kỳ công vĩ đại ấy, nếu không vĩ đại hơn kỳ công đạo Kitô thực hiện tại phương Tây thì cũng không thua kém chút nào?." Ông bảo "nói cho đơn giản, câu trả lời là: ‘Cũng như Kitô giáo, đạo Phật là đạo cứu độ mà điều người ta cần chính là tìm được một con đường cứu độ’ " (tr. 177) mặc dù có thể ông dư biết cứu độ trong Phật giáo là sự nỗ lực tu tập chánh pháp của tự bản thân, trong khi đó "cứu chuộc" trong Thiên Chúa giáo là phát xuất từ Thiên Chúa - cái mà đạo Phật cho là không thể thực hiện được.

Ở một đoạn khác, ông đã phô trương mặc khải truyền đạo của Thiên Chúa rất đa dạng, theo đó, ông quy kết Phật giáo là hình ảnh khác của Thiên Chúa, thì quả thực ông chẳng hiểu chút gì về giáo lý của Phật giáo và cả giáo lý đạo của ông. Đây, ta hãy nghe ông lập luận:

Nếu Thiên Chúa được liên hệ tới phương Tây theo cách thức quá quen thuộc với Kitô hữu chúng ta, thì liệu có thể quan niệm được rằng Thiên Chúa cũng liên hệ tới Châu Á và Châu Phi, dù những cách thức liên hệ không quen thuộc lắm đối với chúng ta (tr. 187).

Để thuyết phục những tín đồ đạo Kitô, vốn là những người nhẹ đức tin nơi sự cứu chuộc "giả tạo" của Thiên Chúa, ông lập luận bất chấp sự khác nhau giữa đạo Phật và đạo Ky-tô, và dĩ nhiên càng xa bản chất Phật giáo hơn:

"Việc gì mà Kitô giáo cứ phải là tôn giáo một cỡ? Thần học là hệ thống tin tưởng một kích thước, còn Kitô hữu chúng ta cứ phải là một tín đồ cùng một khổ như nhau?" (tr. 188).

Và trong một đức tin thiếu nền tảng của nhân quả, ông trở nên cuồng tín vào quyền năng giả định của Thiên Chúa, bày ra mặt mũi của ý đồ, cái mà ông đã phải len lỏi một cách vi tế để mà đánh lừa độgiả, dẫn người tin ông đi đến một chân trời mà nơi đó không có một lối thoát thật sự:

"Nếu nơi đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa nói ngôn ngữ chúng ta, thì tại sao chúng ta lại e ngại không dám dùng ngôn ngữ của Phật giáo chẳng hạn?" (tr. 188).

Và:
"Đạo Phật, vốn tin vào sự giải phóng khỏi khổ đau, là sứ điệp quan phòng cho dân Trung hoa đang cơn đau khổ" (tr. 201-202).
Hay:

"Tuy nhiên, có người Kitô hữu vẫn thắc mắc: thế thì tại sao phải là đạo Phật, chứ không phải là đạo Kitô? Xin thưa ngay rằng chúng ta không biết. Chỉ biết mỗi một điều là nhờ Thánh Phaolô, Kitô giáo đã được truyền sang phương Tây, phải hết sức phấn đấu tranh thủ từng bước để cắm rễ vào thế giới Hy-La. Thiên Chúa, đấng tạo thành và cứu chuộc toàn thể thọ tạo như thể hành động trong những thời kỳ đặc biệt này của lịch sử thế giới bằng cả hai tay: tay phải hướng về Châu Âu bằng cách chỉ cho Phaolô truyền đức tin vào Chúa Giêsu Kitô sang Rôma, còn tay trái thì quay về phương Đông bằng cách cho sứ điệp cứu khổ của đạo Phật nhập vào Trung quốc. Nói thế chẳng qua là lấy lòng tin mà ước đoán, chứ thượng trí của Thiên Chúa ai mà dò biết được" (tr. 202).

Tất cả những lời lẽ, ngôn từ này của ông mang sắc thái là gì thì đọc đến đây chúng ta đã rõ. Nhưng điều quan trọng là chân lý của Phật giáo, con đường tuệ giác, giải phóng con người khỏi thần linh, Thượng Đế, có phải là giáo lý của Thiên Chúa giáo, giáo lý lệ thuộc tuyệt đối vào thần linh, Thượng Đế không? Câu trả lời đơn giản mà vẫn đầy đủ ý nghĩa và sự khẳng định là KHÔNG. Tuy nhiên, từ niềm tin nào đó, tín đồ Kitô giáo cứ cho rằng Phật giáo là một phần của Thiên Chúa giáo; sự nhận thức như vậy là tùy. Người ta có quyền lắm chứ. Nhưng đối với người Phật tử, việc đồng hóa như vậy chẳng là cái gì cả, như chính cái gọi là quyền năng thụ tạo và cứu chuộc của Thiên Chúa vốn chỉ là những giả định trống rổng vô thật. Cũng như Hoa Sen tự nó là Hoa Sen, nhưng nếu ai đó cứ bảo là hoa hồng, hoa cúc để đồng hóa nó với các hoa bình thường, thì có sao đâu. Vấn đề quan trọng là hoa sen không vì thế mà trở thành hoa hồng, hoa cúc, mà nó vẫn nghiễm nhiên siêu việt hơn hoa hồng, hoa cúc vì bản chất siêu việt của hoa sen vốn là như vậy.

2. Hán Minh Đế và Kinh Tứ Thập Nhị Chương, chứng tích Phật giáo du nhập Trung Quốc

Đề cập về bối cảnh lịch sử cũng như thời gian du nhập của Phật giáo vào Trung Quốc, Mục Sư Choan Seng Song cho rằng không thể khảo cứu được. Ông viết: "Phật giáo xuất hiện lúc đầu ở Trung Quốc khi nào và như thế nào là chuyện bí mật còn bao trùm" (tr. 167). Tiếp theo đó, ông còn cho rằng: "Những chuyện kể lại thời Phật giáo mới vào toàn là dật sử hoang đường. Trong số đó nổi tiếng nhất là câu chuyện giấc mộng của Hán Minh Đế" (tr. 167). Rồi kế đó cũng chính ông lại lập luận: "Đằng sau truyền thuyết đế mộng này hẳn có ít nhiều sự thật lịch sử" (tr. 168), nhưng nêu lên để rồi ông cho đó là chuyện cường điệu: "Song nếu chắc bất quá nó chỉ là hạnh tích do lòng sùng tín, cốt chứng minh và cường điệu việc vua quan Trung Hoa chấp thuận đạo Phật" (tr. 168). Thế thì khi đọc mấy trang sách chứa những lập luận tự mâu thuẫn của ông (mâu thuẫn này thể hiện rõ ở trang 175) người đọc sẽ thắc mắc rằng "sự thật của vấn đề này là gì? Có đúng với lời ông viết không?" Để vấn đề được sáng tỏ, trước hết chúng ta nên nói về Kinh Tứ Thập Nhị Chương.

Theo Mục Sư Choan Seng Song, Kinh Tứ Thập Nhị Chương là do sứ thần vâng sắc chỉ Minh Đế sang tận Tây Vự(theo lời giải mộng của Thái sư Phó Nghi) rước mang về (tr. 167-168). Điều này thật là sai lầm. Nhưng có lẽ ông phải viết như vậy để quy kết sự thật lịch sử là "dật sử hoang đường." Sự kiện Hán Minh Đế có nằm mộng hay không điều đó không quan trọng. Điều quan trọng là chúng ta phải biết được rằng Kinh Tứ Thập Nhị Chương không phải do sứ thần đem về, mà do phái đoàn truyền giáo đầu tiên của hai vị cao Tăng người Trung Ấn là Ca-diếp-ma-đằng (Kasyapa Matanga) và Trúc-pháp-lan (Gobhavana). Các Ngài đi sang Trung Quốc dọc theo đường thông thương trên bộ, khởi đầu miền Tây Bắc Ấn đến Peshawar dọc theo Bamiyan và Balkh về hướng đông đến Kashgar xuyên qua Kucha về hướng đông bắc rồi đến Kotan về hướng nam, rẽ sang Đôn Hoàng và vào Trung Quốc. Phái đoàn truyền giáo này mang theo nhiều kinh điển Nam tông và Bắc tông bằng chữ Phạn, trong số đó có 5 bộ Kinh đã được phiên dịch ra tiếng Trung Hoa, riêng Kinh Tứ Thập Nhị Chương là bộ kinh duy nhất còn lưu truyền cho đến ngày nay. Khi đặt chân đến đất Trung quốc, hai Tôn giả Ca-diếp-ma-đằng và Trúc-pháp-lan đã được Hán Minh Đế, niên hiệu Vĩnh Bình thứ 10 (tức năm 67) tiếp đón nồng hậu và cho xây dựng chùa Bạch Mã (nằm về phía tây thành Lạc Dương), ngôi chùa đầu tiên tại Trung Hoa, vừa làm nơi tàng trữ và dịch kinh, và vừa để kỷ niệm ngày mà ánh sáng chân lý tuệ giải thoát của đạo Phật chiếu và ngự trị ở Trung Quốc. Công trình truyền bá này tuy không mang tầm vóc lớn lao như sau này nhưng nó mở ra một kỷ nguyên mới cho người dân Trung Quốc, kỷ nguyên bắt đầu hé mở bình minh chân lý của Phật giáo.

3. Tại sao đạo Phật thịnh hành ở Trung Quốc mà không phải là đạo Thiên Chúa

Có thể nhận thức rằng câu hỏi này là trọng tâm bài viết của Mục Sư Choan Seng Song. Câu hỏi nghe như giản đơn nhưng giải thích thấu lý thật chẳng giản đơn chút nào. Để trả lời cho câu hỏi quan trọng này, Mục Sư Choan Seng Song đưa ra các lý do sau đây:

(i) Đạo Phật đã nhanh chóng trở thành một bộ phận tích hợp của cảnh quan tôn giáo và văn hóa Trung Quốc (tr. 175).
(ii) Được Vua chúa biệt đãi (tr. 175).
(iii) Các tu sĩ Phật giáo từng làm cố vấn chính trị, quân sự và ngoại giao (tr. 175).
(iv) Nhờ phù phép thần thông với dân chúng ít học (tr. 175).

Nhưng trong diễn tiến lý luận, ông tỏ ra không nhất quán lắm, khi thì nói thế này, lúc khác lại bảo thế nọ, mà hai lý do trước sau lại trái ngược nhau (xem các trang 176, 177, 178, 179). Do đó, tôi có thể nói thẳng là các giải thích trên không chính xác, không hợp lý. Bởi lẽ, như tôi đã chứng minh ở phần III.1 của bài viết này, Phật giáo, dù là Phật giáo Nam truyền hay Bắc truyền, Ấn Độ hay Trung Quốc, không thể là một bộ phận phân tích tổng hợp của cảnh quan và tôn giáo bản địa (ở đây là Trung quốc). Và chúng ta chỉ cần nghiên cứu nội dung Kinh Tứ Thập Nhị Chương thôi, mà không cần đến nhiều kinh khác, chúng ta cũng đã thấy được nét đặc thù và không thể so sánh được giữa Phật giáo với văn hóa và tôn giáo bản địa Trung quốc. Các giá trị văn hóa, đạo đứluân lý, triết học, học thuật ... của đạo Phật hoàn toàn mới mẻ, có giá trị nhân bản cao (thậm chí không dừng lại ở Nhân thừa, mà mục đích là cùng hướng đến Phật thừa nhất chân bình đẳng), siêu phóng tột độ, phù hợp với căn cơ muốn tiến bộ trong nhận thức và phát triển nhân cách toàn thiện của người dân Trung Hoa, so với các tiền học thuyết bản địa. Chính từ đặc điểm giáo lý vốn siêu tuyệt, lại có công năng bất biến tùy duyên, tùy duyên bất biến, nên Phật giáo là nguồn thức ăn tâm linh dồi dào cho cả hai hạng người trí thức và bình dân, hay nói đúng hơn, cho mọi đối tượng.

Nhờ ba yếu tố chân vạc nầy, Phật giáo thích nghi nhanh chóng, phát triển rộng rãi và chiếm vị thế độc tôn trên mãnh đất. Trung Quốc nói riêng, Châu Á nói chung. Trong khi đó, chúng ta thừa biết dù Thiên Chúa giáo có nhiều nỗ lực đầu tư cho sự phát triển mở rộng tôn giáo mình ở mảnh đất này bằng nhiều chủ trương, tài lực và nhân lực, nhưng vì ngay bản chất tôn chỉ và giáo nghĩa, nó không có được một trong các đặc tính trên, nên nó không thể phát triển rộng rãi. Và hơn thế nữa, sự truyền bá và bành trướng Thiên Chúa giáo, phần lớn được thực hiện bằng một cái gì đó không hòa bình, lành mạnh.


Lời giới thiệu | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 |

 


Cập nhật: 13-6-2000

Trở về thư mục "Điểm sách"

Đầu trang