- HAI
KHUÔN MẶT TÂM THỨC
- Nguyên
tác Tây Tạng: Lama Gendun Rinpoche
- Dịch
sang tiếng Anh: Anila Rinchen Palmo
3
CHUYỂN
HÓA CÁC CẢM XÚC
Khi chúng ta
có lối cư xử tốt và làm nhiều việc tốt thì những công đức được
tích lũy qua thời gian này sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ tới tâm chúng ta;
chúng ta bắt đầu cảm thấy mình ý thức về các sự việc nhiều hơn; tâm
của chúng ta thoát dần dần sự u mê; cảm giác phát triển thành trực
giác thuần túy
Nếu chúng ta
thường xuyên hành thiền thì dấu hiệu đầu tiên của giai đoạn phát triển
tâm linh mới này sẽ là kinh nghiệm tánh không. Thế gian có vẻ không vững
chắc, không có cái gì cố định hay thường tồn như trước nữa, nhưng tất
cả đều có vẽ hoàn toàn tự nhiên, không có cảm giác xa lạ nào.Nếu bản
ngã của chúng ta sẳn sàng lìa bỏ ý niệm cụ thể về thế gian, thì sự
trong sáng của tâm trong khi tham thiền sẽ gia tăng, "cảm giác" sẽ
biến dần chỉ còn lại tâm trong sáng.
Đây chính là
loại môi trường, mà trong đó chúng ta có thể tập nhìn vào thật tánh của
cái mà chúng ta vẫn gọi là "cảm xúc". Dùng sự trong sáng mới đạt
được của mình như một ngọn đèn pha, chúng ta sẽ thấy các cảm xúc
chính là lực trí huệ. Ngay trong khoảnh khắc khám phá đầu tiên sự thực
phía sau chiếc mặt nạ bản ngã là sự rối loạn cảm xúc được phá hủy
và trong một phần của giây chúng ta nhận biết trí huệ. Khoảnh khắc
này sẽ qua đi nhưng chúng ta ghi nhớ nó và chúng ta tự biến đổi, thái
độ của chúng ta đối với các cảm xúc của mình sẽ hoàn toàn khác trước.
Nhưng trước
khi khoảnh khắc này xuất hiện, sẽ có nhiều nổ lực tìm hiểu các cảm
xúc, một số nổ lực này sẽ không thành công, một số nổ lực khác tự
cho thấy là sai lầm sau khi một thời gian đã trôi qua, thường là nhờ
vào sự hướng dẫn của một người có kinh nghiệm. Trước khi sự trong sáng
thật sự xuất hiện, chúng ta ta có tham vọng thấy cảm xúc là một cái
gì khác thì chúng ta sẽ bị lạc hướng.
Cũng như trong
việc ứng dụng các pháp đối trị, những giai đoạn đầu của việc thực
hành được xếp đặt để có thể đạt sự trong sáng cao độ. Đây là
pháp minh sát quán một thành phần của đạo pháp truyền thống, được
đăït ra cho những người tu tập, với môn thiền quán không chính thức,
tâm quán chiếu tánh chất thật của chính tâm.
Những người
dùng pháp quán tưởng hình ảnh phổ quát có một pháp đặc biệt hoà tan
trong tâm, thế giới cụ thể vào chân không và tưởng tượng năm cảm xúc
là năm phương tiện phổ quát của tâm trí đã giác ngộ. Những việc
quán tưởng này được dùng để tái luyện tâm trí cho một tri kiến về
sự vật vốn đã mất khi bản ngã nắm quyền kiểm soát. Chagme Rinpoche gọi
việc này là chuyển hóa cảm xúc, và xếp vào một phần riêng trước khi
xét tới nhận thức trực tiếp của tâm dùng chính sự trong sáng nội tại
của nó.
1.- Làm cho
các cảm xúc biến mất bằng quán tưởng
Ngay khi
một cảm xúc độc hại nào xuất hiện trong tâm, hãy niệm chú Sobhawa và
nghĩ rằng mọi vật đều tan biến vào chân không, tưởng tượng năm cảm
xúc độc hại trong tâm, hoặc chính các cảm xúc hoặc mầm mống của
chúng, trở thành năm vị Phật Thiền (Ngũ Phật Thiền Định), là những
hình ảnh phổ quát tượng trưng cho năng lực đã được thanh tịnh của
năm cảm xúc. Quán tưởng thật rõ ràng sự tức giận của mình biến
thành hình dạng Dorje Sempa (Vajrasattva, Kim Cương Tát Đỏa). sự kiêu ngạo
của mình hóa thành Ratnasambhava (Phật Bảo Sinh), sự tham dục là Phật A Di
Đà, sự ganh tị biến thành Amoghasiddhi (Phật Bất Không Thành Tựu) và sự
si mê biến thành hình dạng Vairocana (Tì Lô Giá Na)
Tưởng năm vị
Phật này phát ra những tia sáng đầy vũ trụ. Những tia sáng này không chỉ
thanh lọc tất cả những nghiệp xấu xa do năm độc trong mỗi người gây
ra mà đồng thời còn thanh lọc chính những cảm xúc đó. Tâm thức của
chúng sinh thoát mọi cảm xúc, do đó tiêu diệt mọi khả năng tái sinh vào
bất cứ một trạng thái hiện hữu nào. Những tia sáng lại hòa tan vào
hình các vị Phật, hình các vị Phật tan thành ánh sáng rồi mờ dần vào
chân không.
Chúng ta nên
thực hành pháp thiền quán này mỗi khi một cảm xúc nào xuất hiện trong
tâm, rồi nguyện như sau; "Từ kiếp này cho tới các kiếp sau của
tôi, nguyện tất cả những người nào tiếp xúc với tôi qua việc trông
thấy tôi; hay nghe tôi nói, hay nghĩ về tôi, sẽ thấy năm cảm xúc độc hại
của họ được thanh lọc. Nguyện tôi đạt được khả năng thanh lọc này.
Thêm nữa, khi tôi đạt giác ngộ, nguyện cõi Phật mà tôi phóng chiếu từ
tâm sẽ không chứa một cảm xúc độc hại nào cả".
Có thể nguyện
thầm hay nguyện lớn tiếng khi thực hành môn thiền quán có hình tướng này
để thanh lọc năm cảm xúc và làm cho chúng tan biến vào chân không.
2.- Thần
linh quán và các cảm xúc
Nền tảng
của pháp thiền quán về vị thần Yidam (Bổn tôn) là như sau:
Theo nghĩa tối
hậu, vũ trụ như một cung điện thanh tịnh, là trụ xứ của chư vị thần
linh. Tất cả chúng sinh ngự trong cung điện này đều đã là những vị thần
Yidam từ lúc bắt đầu có thời gian. Quán tưởng cung điện này cùng các
vị thần thật rõ ràng, và có ý thức về nó, sẽ hóa giải sự vô minh của
chúng ta. Không thể có chuyện chúng ta phát sinh ái dục đối với các vị
thần Yidam, chúng ta cũng không thể sân hận những vị thần được quán tưởng
này. Nếu tất cả đều là thần linh trong sạch thì mọi người đều bình
đẳng, vì vậy không có lý do gì để phân biệt kẻ hơn người kém. Ở
đây không có chỗ cho kiêu ngạo hay ganh tị. Vậy, chúng ta thấy là với
các pháp quán tưởng này, tất cả năm cảm xúc độc hại tự động chấm
dứt.
Vì vô minh,
chúng ta không trông thấy tính chất thật của năm uẩn, hay năm nguyên tố
tạo nên thể xác và tâm thức của chúng ta. Năm uẩn sắc, thọ, tưởng,
hành, thức và những năng lực mà chúng tùy thuộc đã từ thời vô thủy
chính là những năng lực hiển lộ như các vị Phật và người phối ngẫu
của họ. Vì không biết như vậy, chúng ta tự coi mình chỉ là những con
người bình thường, và chúng ta cảm nhận hoạt động của những năng lực
này như những cảm xúc rắc rối xuất hiện thường xuyên trong tâm trí
chúng ta.
Thật ra những
nguyên tố này và năng lực của chúng rất thanh tịnh. Trong thực tế năm
cảm xúc độc hại chính là năm loại trí huệ. Sự khác biệt độc nhất
giữa một cảm xúc và trí huệ tương ứng của nó là sự có ý thức hay
không ý thức. Khi chúng ta có ý thức về tính chất thật của sự vật
thì chúng ta trông thấy năm trí huệ, ngược lại chúng ta chỉ trông thấy
năm cảm xúc độc hại và kinh nghiệm của chúng như năm cảm xúc độc hại.
Vậy, điều quan trọng lànhận ra rằng, một cảm xúc không phải là một
cái gì có tính chất bất tịnh, vấn đề chỉ đơn giản là chúng ta
không biết tính chất thật của một cảm xúc: một trong năm trí huệ.
Nếu chúng ta
coi mình là một vị thần Yidam thanh tịnh mà trong lúc đó vẫn coi người
khác là tầm thường và không trong sạch, thì đó chỉ là một hình thức
kiêu ngạo. Đó là thái độ còn tiếp tục lệ thuộc tính ngã chấp, vì
dù chúng ta đã sẳn sàng coi mình là thần linh, chúng ta vẫn tiếp tục
khinh người khác là tầm thường với tất cả mọi lỗi lầm thông thường.
Như vậy nhất định không phải là niềm kiêu hãnh thanh tịnh về tính chất
thiêng liêng của mình. Mỗi khi chúng ta buông bỏ bản ngã, chúng ta có thể
cảm nhận trí huệ nguyên thủy không có bản ngã, vì nó vượt lên trên bản
ngã, là vô ngã. Đây là tâm đích thực của thần linh, và đối với tâm
này không chỉ chúng ta là thần linh, mà mọi chúng sinh trong vũ trụ cũng là
thần linh. Trong trạng thái ý thức thanh tịnh này, không có chỗ cho tham,
sân, si, ganh tị và kiêu ngạo.
Cách quán như
vậy cũng áp dụng cho việc xét tính chất của năm cảm xúc độc hại
được trình bày sơ lược ở phần kế tiếp.
Giới thiệu
| chương 1 | chương 2 | chương 3
| chương 4 | chương 5