Trang tiếng Anh

      Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt

   

...... ... .  . .  .  .
Theo Dấu Chân Thầy (Studying Under the Master)
Jae Woong Kim
Diệu Liên trích dịch

Hòa Thượng Jae Woong Kim là trụ trì của Tu Viện Kim Cương ở Hàn Quốc. Oâng thường sang thuyết giảng ở nước Mỹ.


Lần đầu tiên tôi đưọc gặp Thầy Baek là vào tháng tư năm 1964. Lúc đó tôi vừa hai mươi bốn tuổi. Từ lúc niên thiếu, tôi đã nghĩ rằng vận mệnh của một đất nước tùy thuộc vào trình độ học vấn của dân tộc đó. Vì lý do đó, tôi tin rằng nếu xây dựng đưọc một đại học sư phạm, chuyên đào tạo đưọc những vị thầy chân chính, tài ba, thì tính cách, đạo đức của mọi người Đại hàn sẽ đưọc nâng cao, thì các tánh xấu, các tội lổi sẽ đưọc diệt trừ. Để có ngân quỷ thực hiện dự án đó, tôi bắt đầu kinh doanh nhỏ. Và tôi bỏ thì giờ tìm gặp những người mà tôi cho là thông thái để xin ý kiến họ. Cũng qua dự án nầy, tôi đã đưọc gặp Thầy Baek.

Khi Na Tong-Yong, một sinh viên cao học ở Đại Học Dongguk cho tôi biết Thầy Baek đang trú ngụ tại thành phố Sosa ở thị trấn Puchon, tỉnh Kyonggi, tôi lên đường tìm gặp Ngài. Khi tôi đến nơi, và thông báo mục đích của mình, tôi đưọc hướng dẩn vào gặp Thầy. Không kiềm chế đưọc vui mừng, tôi bước lên chánh điện trang nghiêm. Lão Sư Baek hiện ra chan hòa trong mắt tôi.

Một luồng khí sáng như bao trùm chổ Thầy ngồi. Vẻ mặt trang nghiêm nhưng hiền hòa, Thầy như đọc đưọc mọi điều suy nghĩ của tôi. Nhìn Thầy người ta trực cảm đó là một người đã chứng đạo, và thấy lòng thanh thản như đã dứt đưọc mọi duyên trần. Ngay khi tôi vừa cúi chào và ngồi xuống trước mặt Ngài, tất cả mọi xao xuyến, lăng xăng trong lòng tôi như chùn xuống, lắng đọng.

Sau một lúc im lặng khá lâu, tôi bắt đầu trình bày mục đích của mình, và hỏi Thầy có phương cách nào giúp tôi sớm hoàn thành ý tưởng xây dựng viện đại học sư phạm kia. Thầy nhìn tôi rất lâu, rồi cuối cùng bảo rằng, tôi chỉ cần làm đúng như lời Thầy dạy. Nghe thế, tôi rất vui mừng, vội hỏi Thầy: "Bạch Thầy, con phải làm gì?"

"Ta sẽ nói, nếu như con hứa sẽ tuân theo", Thầy trã lời.

Vì tôi rất trọng lời hứa của mình, tôi không thể dể dàng hứa hẹn mà không suy nghĩ đắn đo. Tôi ngồi im suy nghĩ khá lâu.

"Con có làm theo Thầy dạy đưọc không?"

Im lặng.

Tôi vẫn không trã lời đưọc, vì thế chúng tôi ngồi trong im lặng khá lâu. Thầy kiên nhẫn hỏi lại tôi: "Con có làm theo Thầy dạy đưọc không?"

Im lặng.

Lần nữa Thầy hỏi: "Con có làm theo Thầy dạy đưọc không?"

Đằng sau ba câu hỏi thận trọng, kiên trì của Thầy, tôi thấy như bừng lên một niềm hy vọng. Tôi cảm thấy đây là một cuộc mạo hiểm đầy thú vị cho tôi.

"Bạch Thầy, con sẽ vâng theo".

"Tốt. Hãy về đọc kinh Kim Cang mỗi sáng, mổi chiều, và dẹp bỏ mọi vọng tưởng khởi lên trong tâm bằng cách luôn tụng Miruk Chon Yorae Pul (Phật Di Lặc, vị Phật tương lai).

Lúc đó, tôi nghĩ làm sao có thể thực hiện đưọc một dự án xã hội chỉ bằng tụng niệm, vì thế tôi rất bối rối trước lời giải đáp của Thầy. Tuy nhiên, khi tôi vừa buột miệng nói "Vâng", tâm tôi chợt bừng sáng như thể một luồng ánh sáng vừa ùa vào tâm tôi. Tôi cảm thấy một niềm hạnh phúc sâu lắng dâng tràn. Tôi như chiếc thuyền đang đắm chìm trong đêm giông tố bão bùng, bỗng gặp đưọc ngọn hải đăng. Chỉ sau nầy tôi mới ý thức đưọc cội nguồn hạnh phúc của mình: đưọc gặp và tu học theo Thầy Baek là ý nguyện lớn nhất trong kiếp nầy và nhiều kiếp quá khứ của tôi.

Sau lần gặp gở đầu tiên đó, thỉnh thoảng tôi đến Sosa để viếng thăm và tham vấn Thầy. Lần lần, mổi tuần tôi đều đến gặp Thầy để Thầy có thể xem xét tiến trình tu tập của tôi. Theo lời chỉ dạy của Thầy, tôi dồn hết tâm trí vào thực tập. Ngay khi tôi bận kinh doanh và phải sống môt mình, tôi vẫn đọc kinh chín lần một ngày. Khi tôi đã dần dần chuyển đổi, và công việc kinh doanh của tôi cũng đưọc phát triển, tôi nhất tâm phải thực hiện một công trình to lớn cho xã hội. Suốt khoảng thời gian đó, Thầy tôi tỏ ra rất quan tâm, lo lắng, theo dõi từng biến đổi trong vệc tu tập của tôi. Lòng từ bi của Thầy như một luồng gió xuân mát mẻ thổi qua lòng tôi, quét trôi đi bao bụi bặm của quá khứ đen tối của tôi.

Vào tháng tư, 1966, sau khi tôi đã hoàn thành nhiệm vụ lo cho em tôi ăn học, theo sự hướng dẩn của Thầy, tôi gia nhập tu viện Sosa để có thể dành trọn thời gian tu tập với Thầy. Nhưng ngay ngày đầu tiên ở tu viện, tôi có cảm tưởng như bị Thầy hoàn toàn bỏ rơi. Thầy trở nên quá nghiêm khắc và xa lạ đến nỗi tôi tự trách mình sao đã đến đấy làm gì.

Mãi sau nầy tôi mới hiểu sự lạnh lùng của Thầy là cách dạy bảo đầy tình thương đối với tôi. Một người dấn thân đi theo con đường tâm linh, cần dồn hết cả thân tâm vào việc tìm sự giải thoát khỏi vòng luân hồi, tôi cần phải từ bỏ sự bám viú vào thầy mình, phải tự tìm lấy con đường đi cho chính mình.


Ngày ở tu viện Sosa bắt đầu từ ba giờ sáng, là lúc chúng tôi trở dậy để bắt đầu cho sự hành thiền buổi sáng. Bốn giờ rưỡi sáng, Thầy giảng pháp cho chúng tôi nghe, sau đó Thầy kiểm xem kết quả tu tập của chúng tôi ngày hôm trước ra sao. Trong những lần tham vấn đó, chúng tôi trình với thầy mọi dự định, chứng ngộ, những giấc mơ, những viễn cảnh xuất hiện trong tâm trí chúng tôi, như thễ chúng tôi trãi bày tất cả mọi ngõ ngách tâm hồn với Thầy. Sau đó Thầy chỉ bảo cho chúng tôi rèn luyện tâm bằng cách chuyển đổi những gì chưa đưọc tốt.

Phải đi gặp Thầy buổi sáng, sau một ngày sống không chánh niệm đối với tôi giống như sắp bị đưa đi hành quyết. Và phải tiết lộ những phiền não nghiệp chuớng của mình trước mọi người đối với tôi như bị tra tấn, dầu chỉ bằng cách đó nghiệp chướng mới đưọc tiêu trừ, và tâm mới có thể tăng trưởng.

Những lúc sữa lổi cho chúng tôi, Thầy thường bảo chúng tôi: "Trước mặt Thầy hãy bày tỏ mọi cái xấu hèn của mình, để khi ra khỏi nơi đây, các con có thể là những người vĩ đãi nhất". Trong suốt bao năm tháng đó, Thầy chưa một lần bỏ qua buổi sáng thực tập nào. Mãi sau nầy, tôi mới ý thức đưọc việc làm đó xiết bao khó nhọc.

Có lần, khi tôi đến tu viện Sosa, Thầy Baek lại có việc trở về Seoul. Đêm đó, khi trở về tu viện, Thầy đã bảo rằng Thầy rất tiếc đã phải vắng mặt khi chúng tôi cần đến Thầy. Khi chúng tôi sống ở tu viện với Thầy, mổi ngày mấy bận, Thầy đều theo dỏi tâm chúng tôi. Thầy đến sách tấn những người tâm lay động, chứng minh lúc tâm chúng tôi tỉnh thức trong Pháp.

Một trong những công việc chúng tôi phải làm hằêng ngày ở tu viện Sosa, ngay từ đầu ngày là vắt sữa bò, có lúc số bò lên đến mười mấy con. Việc cho bò ăn, tắm rửa và trông coi chúng cũng đã khá vất vả. Thêm vào đó, chúng tôi còn phải trồng trọt ngoài đồng, dọn dẹp những mảnh đất vô chủ. Thời khóa biểu của chúng tôi đấ kín những việc lao động khó nhọc không có nghĩ ngơi.

Một kinh nghiệm vắt sữa bò vào một mùa hè ở tu viện vẫn còn in đậm trong ký ức tôi. Lúc đó thời tiết nóng ẩm đến nổi, chỉ ngồi yên thôi, tôi cũng ướt đẫm mồ hôi. Huống là phải vắt sữa bò trong một ngày như thế, phải áp vai, kề mặt vào bụng, vào chưn bò nóng hôi hổi, là một việc tưởng chừng không thể chịu đựng nổi. Tệ nhất là những lúc các chú bò đuổi ruồi, quất mấy cái đuôi đầy phân đông cứng vào miệng, vào mắt tôi. Thật là kinh khủng! Tuy nhiên, tôi thật sự cảm ơn những cái quất như của Pháp đó, vì khi tôi nhanh chóng diệt bỏ đưọc những cảm giác ghê tởm, tôi cảm thấy như đến gần hơn với sự tỉnh thức. Những lúc như thế, cái đuôi bò trở thành là thầy tôi, giúp tôi giải phóng tâm mình.

Có lần, tôi nghe Thầy bảo với ai đó, lý do Thầy thành lập nên nông trại nầy là để những kẻ đi tìm sự giải thoát cho tâm linh có thể gieo trồng phước nghiệp và để họ có cơ hội tu tập tâm linh. Khi làm việc ngoài đồng, và thực hành theo lời dạy của Thầy, chúng tôi dần nhận ra rằng việc lao động ngoài đồng và việc thực hành cho tâm linh không phải là hai việc khác nhau. Ngoài ra, trong khi rèn luyện tâm để tâm nhớ rằng 'lao động là để phục vụ lợi ích cho tha nhân', chúng tôi cũng tin rằng tất cả những hành động mình làm từ ăn uống đến hít thở, là những cố gắng liên tục của chúng tôi để cúng dường chư Phật.

Ta thường bám víu vào thân vì ta để cho thân đưọc quá sung sướng trong việc ngủ nghỉ, ăn uống. Những thực tập khổ hạnh của chúng tôi như chỉ ăn hai buổi một ngày, và không ăn dậm, liên tục gieo trồng công đức bằng sự lao động vất vả, và thực hành tu tập suốt đêm; tất cả đều nhằm diệt trừ chấp ngã, tâm bám víu vào thân. Tất cả các nghiệp chướng cần đưọc tẩy trừ khỏi tâm ngay khi chúng vừa phát khởi; nếu không ta sẽ không còn có cơ hội sau đó.

Đối với tôi, rèn luyện tâm như thế cũng đau đớn như bị tra tấn. Ngọn roi Pháp của Thầy luôn đánh trúng đích khi chúng tôi sống thiếu chánh niệm. Giống như sen trong bùn, bùn càng hôi hám, mùi hương của hoa sen nở càng thanh khiết, ngạt ngào. Sự liên tục thực hành diệt bỏ những tình cảm chán ghét lao động mệt nhọc, những tình cảm ham ăn, ham ngủ, những ý nghỉ rời bỏ tu viện, những nghiêp chướng hay từ bỏ ngay cả sự bám víu vào Đức Phật kính yêu- tất cả đã khiến tôi thật sự hiểu đưọc, đến tận xương tủy, mục đích của Thầy tôi khi người thành lập nên tu viện nầy: là để tạo nên các vị Phật tương lai.

Tu viện, nơi tôi đã trãi qua tuổi thanh xuân cao đẹp, nơi tôi đã dành tất cả cuộc đời để phụng sự Phật pháp, với tất cả lòng tin; nơi tôi đã dâng hiến tất cả cho sự thực tập tâm linh trong những đau khổ, chịu đựng khiến tôi tưởng chừng như mình phải đối mặt với sự sống chết hằng ngày -những kỷ niệm ở tu viện, cũng như hình ảnh Thầy tôi với nụ cười thân thương, đã là một phần của quá khứ đã qua, không bao giờ trở lại nữa. Tôi khó thể che giấu nỗi buốn, lòng tiếc thương của mình, nhưng tôi phải nhớ lời Thầy dạy mà gạt bỏ tất cả vì Phật pháp.

Muốn tăng trưởng tâm, ta cần phải trị dứt những căn bịnh nội tâm -những thói quen xấu đã hằn nét trong ta, xui khiền ta có những hành động xấu. Mổi khi các nghiêp chướng từ nhiều đời dấy khởi, ngay những phút giây đó, ta cần phải nhớ sửa đổi tâm. Mổi khi tôi cố hết sức mình để diệt bỏ các thói hư tật xấu từ nhiều đời quá khứ, Thầy đã giúp tôi diệt trừ chúng bằng những nắm đấm.

Có lần, cái tát (tát của Pháp) của Thầy ửng đỏ trên mặt tôi. Nếu cái tát đó làm một người trẻ như tôi đau đớn thế nào, thì hẳn nó còn khiến Thầy, một lão sư ở tuổi tám mươi, đau đớn đến gấp bội. Tôi tự hỏi tại sao Thầy phải nhọc công dạy dổ một kẻ cứng đầu hư hỏng như tôi? Quá đổi xúc động vì lòng từ bi rộng lớn của Thầy, tôi đã sụp lạy dưới chân Thầy ba lạy, mà nghe tim mình nức nở.

http://www.buddhismtoday.com/ddtamly/022-theodauchanthay.htm

 


Cập nhật: 26-5-2001

Trở về mục "Đạo đức-Tâm lý học Phật giáo"

Đầu trang