Trang tiếng Anh

      Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt

   

...... ... .  . .  .  .
Nhân Duyên Vào Đạo Phật
Thích Phổ Huân

9
Những vấn đề ...

Khi đôi vai chưa có hành lý nào, ta cảm thấy thoải mái nhẹ nhàng dù việc nhẹ nhàng này đẩy đưa ta vào sinh ra tử. Nhưng nay ta bắt đầu gánh lên vai một hành lý, chuẩn bị cuộc lội qua dòng sinh tử, ta lại chẳng thấy nhẹ nhàng an thân, đôi khi còn nhiều bất ổn phiền toái. Phải chăng ta đã sống trái ngược với đời? Phải chăng ta tự đẩy mình vào đời sống lập dị? Hay đã lý tưởng một điều viễn vông không thực tế. Và còn nhiều việc khác nữa mà ta không thể nào nói ra được vì nhiều lý do thầm kín...

Sự việc như thế, có lẽ người mang hành lý giải thoát nào cũng ít nhiều trải qua. Nhưng cuối cùng, cũng qua được bờ sanh tử rồi ngoái đầu nhìn lại bờ kia mĩm cười, rằng may quá mình đã thắng! Thắng cái bình thường nhất mà mình quá quan trọng nên thành phức tạp mâu thuẫn rồi tự băn khuăn than thở. Bấy giờ lại tự muốn đi vào sanh tử mà chẳng còn có tử có sanh! Lúc này mới đúng nghĩa của nhẹ nhàng thong dong tự tại siêu việt sinh tử.

Người học Phật sơ cơ như chúng ta, hay vấp phải những vấn đề đối đãi, tự làm con đường vượt sanh tử dài xa hơn sự thật của nó. Tất nhiên mọi công đức vun trồng tạo dựng vẫn còn đó không mất đâu cả, nhưng nó lại tác tạo một quả nghiệp khác song song với quả nghiệp lành. Quả nghiệp khác là quả nghiệp nhận rằng mình đã làm một công đức, nhận rằng có người làm có người không. Chính việc cố làm và phân biệt nầy đã gây cho ta những bất an khó chịu trong đời sống. Nỗi bất an đó lâu ngày trở thành phiền não; phiền não vì không chịu đựng được mọi người, phiền não vì mình bất lực giúp người được thánh thiện như mình... Nhưng thật ra mình nào có thánh thiện, vì người thánh thiện không có phiền não như vậy.

Bậc thánh trong đạo giải thoát có làm mà không thấy việc làm để chẳng kẹt vào việc làm của mình. Các vị làm gì thường với tâm vô cầu vô niệm, với chúng ta làm việc thường là do tình cảm mà ra, nhưng tình cảm bi thương trắc ẩn đó không phải từ tâm vô ngã, nên ta mới rơi vào sự xáo trộn vọng tình. Để chỉ mong chờ kết quả và kết quả đó chỉ là nuôi thêm bản ngã cho lớn mà thôi. Và khi ngã (cái ta) càng lớn thì phước báo của tâm an tịnh không thể sanh ra, do đó tự quay lại thấy mình hụt ngã chơi vơi. Từ đây bao thiện niệm biến thành ác niệm, cảm thấy mình lập dị khác thường...Hành trang giải thoát trên vai giờ nặng nề ra; đừng nói gì mang được hành lý bơi ngược qua bờ bên kia, mà xuôi dòng về lại con người cũ (lúc chưa tu đạo) cũng thành bất lực.

Nhưng may mắn thay, cuối cùng chúng ta cũng qua được bờ bên kia (bờ giác ngộ) vì gặp được thiện tri thức. Có một điều lạ, ngay khi ta sắp rơi vào cơn cùng cực đau thương thì bậc thiện tri thức xuất hiện. Đây là do niềm tin tha thiết cầu đạo của ta. Thiện tri thức mang nhiều hình tướng, có khi các vị chẳng phải là người tu, người thiện mà còn là người sống trái ngược những gì là đức thiện. Các vị hành động bất nhân để mọi người thấy đó mà tu nhân, các vị sống thất đức để mọi người lo tu đức, các vị chịu lãnh quả báo ác nghiệp để mọi người sợ mà tu thiện nghiệp v.v...Trong truyền sử Phật, Đề Bà Đạt Đa được xem là kẻ đại ác, nhưng đối với Phật Ngài là bậc thiện trí thức. Không phải chỉ duy vì trong quá khứ kiếp, Đề Bà Đạt Đa là vị tiên nhân mang chánh pháp cho vị quốc vương là tiền thân của Phật như trong kinh Pháp Hoa Phật đã kể, nhưng ngay trong đời này, Phật vẫn thấy sự ác tâm hành nghịch trái đạo của Đề Bà Đạt Đa là pháp học, giúp Phật hóa thành pháp nhẫn dạy lại cho hàng đệ tử. Để rồi Phật dạy rằng: ‘Qua vô lượng kiếp về sau, ông Đề Bà Đạt Đa sẽ được thành Phật hiệu là Thiên Vương Như Lai, -ng cúng, Chính biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật, Thế Tôn. Cõi nước đó tên là Thiên đạo, lúc Thiên Vương Phật trụ ở đời hai mươi trung kiếp, rộng vì các chúng sinh mà nói pháp mầu, hằng hà sa chúng sinh được quả A La Hán, vô lượng chúng sinh phát tâm Duyên Giác, hằng hà sa chúng sinh phát tâm vô thượng đạo, được vô sinh nhẫn đến bậc bất thối chuyển...’*

 

Khi chúng ta hiểu điều này, ta tự nghĩ lại việc làm thiện của ta có xứng đáng nêu danh ca tụng không? Và hoàn cảnh nơi ta ở, những người hằng ngày ta tiếp xúc có còn cho ta so sánh đối đãi không? Hay ngược lại ta cám ơn hoàn cảnh đó, con người đó! Vì họ mà ta mới thấm thía cuộc đời! Vì họ mà ta mới lãnh hội được giáo lý giải thoát như là giáo lý Khổ Đế!

Chắc chắn trong quá trình tu học, chúng ta đã gặp nhiều thiện tri thức, và nhờ đó chúng ta thấy được rõ ràng con người chúng ta. Như vậy có thể nói ai cũng là thiện tri thức! Khẳng định như vậy là cái nhìn của các vị Bồ Tát lớn. Cũng trong kinh Pháp Hoa phẩm Thường Bất Khinh Bồ Tát nói lên điều thâm sâu nầy. Kinh kể rằng có vị Bồ Tát lập nguyện, gặp ai cũng tôn kính và xác nhận quả quyết tất cả là Phật tương lai. Nên Ngài không sợ gì người khác mắng chửi điên khùng mà thưa chào thi lễ. Với chúng ta khó mà lập nguyện và làm được như vậy, tuy nhiên chỉ cần khắc ghi vào tâm cầu giải thoát, cầu vô phân biệt nhân ngã, chúng ta tức thì tìm gặp dễ dàng vô số thiện tri thức. Điều quan trọng hơn nữa là ta phải tự biến mình thành thiện tri thức, vì có như vậy ta mới hành xử giống cung cách người thiện tri thức, cũng như quan sát vấn đề theo cái nhìn chánh kiến.

Chúng ta phải là thiện tri thức mới có thể hiểu và thông cảm được nhiều người, và trọng yếu hơn là giúp được nhiều người gần gũi với đạo giải thoát. Vậy vấn đề là làm sao để trở thành thiện tri thức ?

Định nghĩa thiện tri thức Phật Học Tự Điển của Đoàn Trung Còn viết như sau: Thiện tri thức cũng là người hiền lành tin mộ Chánh pháp và có trí thức.- Phật, Bồ Tát, Duyên Giác, La Hán là thiện tri thức của chúng sanh.-

Chúng ta hiện hẳn là người tu Phật, luôn cầu được kiên cố tâm Bồ đề và được tâm Bồ đề phải là người nguyện độ chúng sanh. Trong tâm tưởng mang tâm niệm cầu giải thoát cứu độ mọi người, chúng ta đã hóa mình thành thiện tri thức. Vì không phải là thiện tri thức thì không thể phát tâm bồ đề được. Lẽ đó bằng tâm bồ đề tự cứu mình cũng là cứu chúng sanh và ngược lại khi phát nguyện cứu độ chúng sanh là tự cứu chính mình.

Trở lại những vấn đề nan giải trên đường tu học, ta cuối cùng thấy được thiện tri thức ở ngay chính chúng ta. Thấy được chính chúng ta là thiện tri thức, là lúc ta quên chúng ta đi. Quên chúng ta là phá bỏ bản ngã, nhận rõ tánh vô thường của vạn vật. Lúc này đối tượng của ta chẳng còn nằm ngoài ta nữa, có nghĩa niềm đau của kẻ khác ta cảm thông được như là của mình. Từ đó ta lấy lại đủ sức mà bơi trọn dòng sông sanh tử qua đến bờ bên kia.

________________

*Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, phẩm ‘Đề Bà Đạt Đa’ thứ mười hai, Hòa Thượng Thích Trí Tịnh dịch.

 


Mục lục | Giới thiệu | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 |
| 17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22 | 23 | 24 | 25 | 26 | 27 | 28 | 29 | 30 | 31 | 32 | 33 | 34 | 35 | 36 |

 


Cập nhật: 1-12-2000

Trở về mục "Phật giáo cho người bắt đầu"

Đầu trang