Trang tiếng Anh

      Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt

   

...... ... .  . .  .  .
Nhân Duyên Vào Đạo Phật
Thích Phổ Huân

4
Hiểu một ít Phật pháp

Có duyên vào được ngôi nhà Phật pháp rồi, tiếp theo cần nên tìm hiểu một ít về giáo lý Phật, dù là một ít cũng quan trọng, vì đây là nền tảng cho bước đi dài đến giải thoát. Nhưng thế nào là một ít để tạm gọi là nền tảng! Trong khi có người đã từng nghiên cứu, đào sâu Phật pháp vẫn còn thấy mình chưa nắm được gì là căn gốc, vậy chỉ có hiểu một ít mà cho là nền tảng! Thật ra điều này quả đúng, đáng quan tâm, và hàng sơ cơ học Phật chúng ta thường hay lo ngại. Tuy nhiên căn cứ theo lời Phật dạy và xét theo lịch sử truyền thừa của đạo Phật nổi bật những điểm mà chúng ta nên an tâm: Trước nhất ai cũng rõ biết đạo Phật là đạo sống, là con đường, là lộ trình dẫn đến chứng nghiệm...Đã hiểu là con đường, là lộ trình thì hiểu ngay đến sự di hành, tiến bước. Khi hiểu là đạo sống thì phải hiểu là hiển bày, linh hoạt. Từ ngay điểm chính yếu này, chúng ta nhận ra thực tế rõ ràng, bằng hành động cho việc vào đạo, mà không phải chỉ dọn mình bằng kiến thức giáo lý để vào đạo. Nhưng cho dù có quên mình đi sâu vào kiến thức Phật học suốt đời cũng chẳng thẩm thấu gì với biển Phật, vì đã nhiều như nước biển thì làm sao uống hết được. Đã không uống được hết, thì lộ trình tiến tới chứng ngộ vẫn còn xa. Nhưng một điều, dù biển Phật mênh mông duy chỉ có một vị. Đó là vị mặn. Vậy người ta có thể đứng bên bờ biển Thái Bình Dương cũng cảm được vị mặn Đại Tây Dương. Tương tự, không có sự khác biệt, giữa niềm an lạc chứng đạo của người thực hành Phật pháp từ giáo lý căn bản, với người thực hành theo giáo lý Kim Cang, Bát Nhã đại thừa v.v...

Hòa vào biển Phật là hòa vào Phật tánh, hòa vào Phật tánh thì đâu còn cái ngã của anh, của tôi. Nhắc lại truyền thuyết thời Phật có Ngài Chu Lợi Bàn Đà Dà là đệ tử của Phật, xuất gia lâu năm mà chẳng học hiểu Phật pháp, cũng bởi tâm trí không sáng. Chỉ có một bài kệ nhỏ mà học cả năm cũng không xong. Chướng nạn này ai nghĩ rằng Ngài sẽ chứng nỗi thánh quả ! Vậy mà Ngài đã chứng đạo đắc quả, tự tại an lạc không khác chi các đại đệ tử lớn của Phật. Nhân duyên này là do Phật khơi dậy tánh giác của Ngài, để Ngài có cơ hội tự mình tìm lại dấu vết xưa mà gội rửa dấu vết tối tăm đời nay. Phật dạy Ngài chỉ thầm đọc và quán xét câu kệ quét nhà, để chuyển tiếp vào việc quét bụi, như quét những trần lao, cấu nghiệp của chính mình. Thế là Ngài liễu đạo, chứng quả.

Thời kỳ Phật pháp truyền sang Trung Hoa, cách đây hơn ngàn năm có Bồ Tát Huệ Năng (638-713) cũng đã liễu đạo với nhân duyên lạ lùng, do nghe một người tụng kinh Kim Cang, trong khi thân phận Ngài lúc đó chỉ là một cư sĩ, xuất thân từ hạng người nghèo lại chẳng quen biết gì chữ nghĩa. (không biết chữ)

Thế thì biết rằng, yếu nghĩa Phật pháp tuy sâu rộng vô cùng nhưng vẫn đơn sơ, giản dị thường tình lan tủa ở mọi hoàn cảnh, tình huống. Chúng ta có thể cho rằng những trường hợp vậy, là do những tích duyên từ quá khứ kiếp nên mới có được. Tuy nhiên ta không thể phủ nhận, Phật lý mà các vị cảm được giác ngộ vẫn là việc xảy ra rất thường tình trong đời sống chúng ta. Cũng như dù các Ngài thị hiện để giác ngộ, ta vẫn thấy Phật pháp luôn luôn gần gũi sờ sờ ra đó, và chính như thế là niềm tin lớn giúp ta an tâm với những gì ta hiểu về Phật pháp. Điều này còn giúp ta tránh đi mặc cảm cho rằng, mình sẽ vô phương hiểu được đạo, rồi đâm ra băn khoăn, lo lắng. Rồi khi phát được duyên am hiểu, lại cố sức bồi đắp kiến thức Phật học cho nhiều, mà quên hẳn Phật đạo là ngay ở việc thực hành xảy ra trong đời sống.

Sau đây với kiến thức sơ cơ của người mới làm quen vào đạo giải thoát, chúng ta thử tìm về giáo lý Duyên sinh để làm nền tảng. Chọn giáo lý này, vì đây là một giáo lý quan trọng và căn bản nhất. Tuy nhiên cũng không phải dễ dàng lãnh hội nghĩa lý thâm sâu của lý Duyên sinh. Ngoại trừ các bậc giác ngộ, chứng đắc pháp giải thoát, phàm nhân không thể một đời thông hiểu. Kinh kể rằng, có lần Phật đã lưu ý Ngài A Nan đừng nên xem thường giáo lý duyên sinh. Bậc đa văn kiến thức như Ngài A Nan mà Phật còn cân nhắc. Nghĩ lại chúng ta những người chập chững vào đạo, lại sống xa thời Phật cả ngàn năm; chỉ biết giáo lý duyên khởi (là cách gọi khác của Duyên sinh) một cách gián tiếp, mà không do từ kim ngôn của Phật nói ra; vô phần hơn nữa cũng không được diện kiến chư vị tu chứng nhắc nhở soi sáng cho, thì chúng ta phải tự soi xét cho mình thế nào! Chúng ta chỉ còn cách trân quý và thực hành theo mà thôi.

Tuy nhiên, ở đây chúng ta là những người thật sự sơ cơ vào đạo, nên chỉ nhận hiểu theo kiến thức căn bản nhất mà Phật dạy về lý duyên khởi để thực hành theo. Việc tiến xa, hay đi xâu vào giáo lý, đã có nhiều thức giả tu sĩ, học giả tri thức nghiên cứu, lý giải chúng ta phải nên tri ân các vị đó. Hoặc như nếu có thời gian, khả năng hiểu biết cũng nên nghiên cứu tìm hiểu để có thể tác động thêm năng lực cho mình, hay chỉ bày cho người khác biết.

Tìm hiểu lý Duyên sinh, ta có thể hiểu đơn giản: Lý Duyên sinh là một định lý cho thấy sự liên hệ, tương quan của mọi sự mọi vật, hay nói cách khác là sự sinh diệt, tựu hợp, tan rã của các pháp.

Nhìn vào đời sống cá nhân, gia đình, xã hội, quốc gia và toàn thế giới- vượt xa hơn nữa là hành tinh (trái đất) chúng ta đang ở, thái dương hệ nơi hành tinh nương tựa và những giải ngân hà, thiên hà, tinh vân...và nếu ta có đủ nhãn lực vượt qua viễn vọng kính nhân tạo để nhìn...Tất cả, tất cả những gì có hình tướng đó, tên đó đều là tương quan, tương sinh với nhau. Không một vật gì độc lập cả, cho dù nhỏ như hạt nguyên tử lăn tăn nhảy múa dưới kính hiển vi mà mắt thường không thấy được. Việc liên hệ chằng chịt này Phật pháp gọi là lý nhân duyên. Lý nhân duyên chi phối tất cả, từ những vật vô tri giác đến loài có tánh giác như chúng sanh. Khi đã bị chi phối vậy, nên ta thấy rõ liên hệ mật thiết nhau qua cái gọi nhân quả. Kinh xưa (kinh A Hàm) thường dạy: Cái này có thì cái kia có, cái này sanh thì cái kia sanh. Cái này không thì cái kia không, cái này diệt thì cái kia diệt...

Ta thử thí dụ một hoàn cảnh xảy ra trong lý Duyên sinh, nhân quả: -Vì xe của con Bác Tư bất thần hư, không chạy được, nên bác Tư không thể đến chùa ngày chủ nhật hôm đó. Vì không có mặt ngày chủ nhật hôm đó, nên Bác Tư đã bỏ lỡ thời pháp hiếm có, do một vị cao tăng thuyết giảng... Câu chuyện tạm chấm dứt ở đây.

Ta thấy rằng, kết quả Bác Tư không được nghe pháp, là vì Bác vắng mặt, Bác vắng mặt là vì con Bác không đưa được Bác đến chùa. Con bác không đưa bác được vì xe con bác hư, xe con bác hư vì...Xin khoan nói tiếp; bây giờ thử đặt ngược lại kết quả. Nếu xe con Bác Tư không hư, Bác đã có mặt ở chùa hôm đó, nếu có mặt ở chùa, chắc chắn bác Tư đã nghe thuyết pháp. Vậy đây ta đã thấy một vòng nhỏ của lý Duyên sinh, nhân quả. Nhưng nếu ta tiếp tục tìm hiểu trước và sau sự kiện xảy ra theo thí dụ, thì rõ thấy diễn tiến vẫn tiếp tục xảy ra của vòng duyên sinh đến bất tận. Chẳng hạn ta có thể nói, xe của anh Thiện (con bác Tư) chạy không được vì bánh xe bị bể, bánh xe bể vì tối hôm trước anh chạy cán lên một vật cứng bén mà anh không để ý trên con đường dẫn vào nhà người bạn (bạn cùng sở làm, hôm đó nhờ anh chở về). Người bạn xin chở nhờ, vì xe anh bạn hư (lại xe hư). Bánh xe không bể liền, nên sáng ngày hôm sau anh mới phát giác, rồi cũng nhận ra bánh xe sơ cua (spare) bị xẹp luôn!...

Đó là một vài hình ảnh nhân quả trong lý duyên sinh, nếu tiếp tục theo câu chuyện mà đi mãi, chắc rồi đề cập tới chuyện kinh tế, chính trị.v.v...chỉ vì ảnh hưởng tới một bánh xe bể! Thử lướt qua để tưởng tượng thế nào! Bác Tư vì hôm đó không nghe được thời pháp hiếm có, nên Bác cảm thấy tiếc nuối, phiền muộn, khiến bác khó chịu trong người, biếng ăn, mất ngũ mấy hôm. Bác lâm vào cảnh như vậy ảnh hướng đến tinh thần sa sút...

Như thế ta thấy sự vận hành của bất cứ hình tượng, cảnh vật chúng sanh nào cũng là sự trói chặt vào nhiều yếu tố tạo nên. Và khi những yếu tố tan rã thì ảnh tượng, hình thể, chúng sanh không còn nữa. Tuy nhiên nói là không còn, thật ra chúng chỉ trở về dạng phân tán chờ duyên hội tụ, nhưng vì vi tế nên ta không thể cảm nhận và nhìn thấy được. Hiểu vậy chúng ta mới thấy không một vật nào tự nó sinh ra, và từ lý này lại thấy không một vật gì mất đi cả. Chẳng hạn nước đổ đi hay bốc hơi đi, tưởng là mất, thật ra nước vẫn còn đó, và sẽ trở lại bằng tên gọi là mưa; hay đi vào lòng đất hòa chung cùng nguồn nước cạn sâu kín rồi hiện hữu ở đâu đó, chỗ này chỗ kia.

Chúng ta hãy thử giả tưởng sau một thời gian thăm thẳm nào đó, quả địa cầu sẽ bị vỡ tung, rồi từng mảnh tiếp tục vỡ tung, vỡ tung ra cho đến khi nát nghiến thành bụi, rồi lại tiếp tục bị nghiền nát nữa cho đến khi thành những nguyên tử bay hút vào hư không vũ trụ. Vậy thì chúng ta sẽ nghĩ thế nào về sự còn hay mất? Nếu nói vẫn còn thì làm sao có thể chỉ được chúng đang ở đâu, và hình thể ra sao? Nếu nói mất thì con mắt thịt chúng ta có khả năng nhìn thấy rõ ràng sự vật lớn nhỏ đến mức nào? Chỉ giả tưởng đến đây thôi, ta có thể đơn giản hiểu rằng sự sinh diệt hội tụ của vạn pháp trong lý nhân duyên, nhân quả về việc biến hiện lớn, nhỏ, lâu xa không thể lường được. Cho nên ta hay nghe kinh sách dạy rằng, vạn pháp sinh khởi vô thủy, vô chung, nghĩa là không biết bắt đầu từ khi nào và bao giờ chấm dứt.

Đó chỉ lược hiểu một cách đơn giản, mà mường tượng cái nhìn xa. Nhìn lại gần hơn là thí dụ câu chuyện của Bác tư vậy. Tương tự như thí dụ cây lúa mà ta thường nghe, mỗi khi đề cập đến lý nhân duyên. Cây lúa hình thành là nhờ hạt lúa, hạt lúa nẩy mầm nhờ nằm trong lòng đất, đất phải có nước có phân...và còn có thêm ánh sáng nữa, hạt lúa mới chuyển thành cây lúa. Nguyên lý này thật chắc chắn không thể sai được, có nghĩa không thể bỏ hạt lúa trên bàn mà chờ thành cây lúa được.

Hình ảnh cây lúa bây giờ, không nói chúng ta cũng biết là kết QUẢ của hột lúa; và gọi ngược lại, hột lúa là NHÂN của cây lúa. Còn lại bao điều kiện hỗ trợ cho hột lúa nẩy mầm tất được biết là DUYÊN. Vậy thì vạn pháp cũng từ do duyên xa duyên gần mà sinh ra. Thảo nào mà chư vị Bồ Tát, Thánh nhân hành xử việc đạo thật dễ dàng, bởi các Ngài biết rõ vạn pháp là giả là tạm, cho nên làm việc gì cũng là vô ngã; vì tìm đâu thấy ngã (cái ta, cái tôi) khi các pháp do NHÂN DUYÊN SINH.

Chúng ta những phàm nhân, đôi khi cũng thấy hiểu như vậy, nhưng vì cái thấy còn quá hạn hẹp, chỉ thấy những cái đơn giản, mà khó thấy cái phức tạp tinh tế, điều này do mang nhiều vọng tưởng nên không thể sáng suốt, đủ nghị lực thắng được vọng tưởng thành ra chỉ chấp nhận theo tình lý cảm giác, suy tưởng của mình mà thôi. Hay nói đúng hơn tất cả đều do tập khí, chủng tử điên đão từ quá khứ kiếp mà ra.

Theo Tiến sĩ Peter D. Santina trong quyển ‘‘Fundamentals of Buddhism’’nhận định: Đức Phật thường dạy rằng Ngài giác ngộ là nhờ hai đường: Hoặc hiểu rõ Tứ Diệu Đế hay am tường Lý Nhân Duyên. Lại nữa, điều Đức Phật thường nói là muốn đạt giác ngộ, chúng ta phải hiểu rõ Tứ Diệu Đế hoặc Lý Nhân Duyên.*

Lý Nhân Duyên quan trọng, và cao siêu như vậy, chúng ta ngày nay mới bắt đầu nhận hiểu, dù mới hiểu một vài hạt bụi li ti gọi là nhân quả, điều này không phải là đại nhân duyên sao! Vì đây là con đường muôn thuở của giải thoát mà!

Hiểu lý nhân duyên qua hiện tượng sinh diệt của vạn pháp quả không thể đơn giản được. Chúng ta chỉ nhận rõ phần nào qua nhân quả mà thôi, và cụ thể hơn nữa là làm

sao để suy niệm áp dụng vào con đường thăng hoa đời sống của người Phật tử. Tức là vấn đề hiểu thế nào về dòng sống của chính mình. Tiến sĩ Pete D. Santina lại phát ý như sau: Đặc biệt, chúng ta chú trọng đến nguyên tắc của Lý Nhân Duyên được áp dụng vào vấn đề khổ và tái sanh. Chúng ta chú ý đến việc Lý Nhân Duyên giải thích sự có mặt của chúng ta ở nơi này. Trong ý nghĩa ấy, điều quan trọng là nhớ rằng Lý Nhân Duyên là giáo lý cần thiết và chủ yếu liên quan đến vấn đề khổ đau và làm thế nào để giải thoát khỏi khổ đau, chứ không phải là việc mô tả sự tiến hóa của Vũ Trụ.

Lý nhân duyên Phật dạy theo dòng sống của một chúng sanh (loài người) là mười hai mắc xích, gọi đúng danh từ là Thập Nhị Nhân Duyên: Vô minh, Hành, Thức, Danh sắc, Lục nhập, Xúc, Thọ, Ái, Thủ, Hữu, Sanh, Lão Tử.

Giờ đây chúng ta thử diễn đoán hành trình dòng nghiệp của một chúng sanh, qua mười hai mắc xích là nguyên nhân thắc nối vòng sanh tử.

-Vì không sáng suốt, không nhận biết vạn pháp, từ pháp thô đến pháp tế; không nhận biết con đường trước mặt là chánh hay tà, không nhận biết nơi chốn lành hay chốn dữ; không nhận biết hành động mình làm là thiện hay ác; không nhận biết sáu cõi (Thiên, Nhơn, A Tu La, Ngạ quỷ, Súc Sanh, Địa ngục) là nẻo luân hồi và không nhận biết luôn cả chính mình, dù mình đã từng có mặt từ vô thỉ kiếp đến nay. Do không nhận biết nên lang thang mãi, sống vất vơ không định hướng. Nên khi nhiều lần lạc vào bóng tối sống đến hàng tỉ năm, rồi cơ may dứt được bay vào ánh sáng sống đến vạn triệu tuổi. Vất vưởng như thế, có lúc hình sắc được dệt nên nhỏ nhiệm, trong thanh, tự tại thênh thang theo ý muốn, lắm lúc hình thù thô kệch, nặng nề nằm lì một chỗ đến hàng vạn kiếp không di nổi. Những hành hoạt như thế kể không sao hết, nguyên nhân chính gây ra như vậy, là đối nghịch lại sự sáng suốt, mất đi chơn tánh, không nhìn nhận được nguyên lý của T- DIÊU ĐẾ là Khổ, Tập, Diệt, Đạo nên bị tham ái, dục tình (Tập) là nguyên nhân dẫn đi lang thang bất tận. Và đôi khi cũng cảm nhận được nguồn an lạc, mỗi lần chế ngự tham ái (Diệt), qua con đường Bát Chánh Đạo (Đạo)*. Nhưng rồi chỉ chốc nở chốc tàn, để lại quay cuồn trong đêm tối; do đó gọi là VÔ MINH. Đây là sự thật mà Phật đã nhắc qua trong kinh Tương Ưng II.

‘...Và này các Tỷ kheo, thế nào là vô minh?

-Này các Tỷ kheo không biết rõ về khổ, không biết rõ về

khổ tập, không biết rõ về khổ diệt, không biết rõ con đường đưa đến khổ diệt. Này các Tỷ kheo, đây gọi là vô minh.’*

Khi đã mê lầm, không sáng suốt khiến tạo ra nghiệp nên gọi vô minh duyên HÀNH. Hành động có thô có tế, có ác có thiện dẫn đường đưa lối quyết định cho một dòng sống hiện hữu; nhưng ở đây vì Vô Minh là nhân mê hoặc, nên tác nghiệp quả báo hẳn phải mê lầm. Và khi hành nghiệp đã mãn đầy gọi là mãn nghiệp bấy giờ duyên vào TH-C, tác động nên một dòng sống theo nghiệp lực để tạo ra một sự đầu thai.

TH-C là năng lực của cái BIẾT tiềm ẩn sâu kín song song vận hành với nghiệp. Sức mạnh của nó có thế lực mạnh nhất trong dòng sống. Ở đây TH-C này hẳn còn là cái biết nhị biên,* chấp thủ thôi thúc dòng sống mà duyên với DANH SẮC.

Danh là tinh thần, Sắc là hình thể. Giai đoạn đến đây của dòng sống đã hiện hữu, nhưng chưa tượng hình hoàn bị; tức sáu căn chưa đủ. Dù vậy sự sống ở đây đã có nhưng chưa rõ ràng. Đến đây Danh Sắc duyên LUC NHÂP; bây giờ đã có đủ sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân , ý), tuy vậy chưa ra khỏi bào thai. Lục Nhập duyên XÚC là lúc một chúng sanh đã ra đời, đã chạm phải những hình ảnh vật thể, rồi bị tác động vào sáu căn, nhưng lúc này chưa có đủ cảm giác nhạy bén, tinh tế. Đến khi cảm thọ được những thương, ghét, mừng, giận...rõ ràng, đó là lúc Xúc duyên THO.

Thọ duyên ÁI, việc nầy ai cũng thấy rõ; khi mà sự cảm nhận tình cảm tràn đầy tất nhiên sinh ra lưu luyến đắm đuối. Có thể nói mắc xích nầy thật nguy hiểm nó đủ sức ghì kéo hết mười một mắc kia. Điều minh chứng đây, đã và đang xảy ra chung quanh chúng ta, đó là những kết chặt cái gọi là gia đình thân tộc. Và những câu chuyện vui, buồn, đau khổ ở thế gian mãi mãi vẫn được khai thác từ đề tài bất tận của luyến ái mà ra. Nhưng hầu hết thì toàn là những chuyện buồn có thật do luyến ái gây ra. Việc này là vậy, nếu không trong Tứ Diệu Đế đã không có hai Đế đầu, đó là Khổ và Tập (nguyên nhân của tham dục, luyến ái).

Ái duyên THỦ, đã sa vào vòng thương yêu trìu mến rồi, ai lại không muốn ôm giữ để làm riêng của mình! Đã cố giữ làm của mình thì không muốn buông bỏ; do vậy ban cho việc gì thì còn có thể, chớ cho tình (luyến ái) thì khó mà cho. Có khi sợ mất ái tình yêu thương, người ta còn tìm cách cùng nhau đi thật xa khỏi bị người khác quấy rầy, bằng cách rủ nhau quyên sinh! Đại khái để hiểu THỦ như vậy.

Thủ duyên H"U, ở đây ta thấy sự có mặt của chúng ta hiện thời chắc chắn đã từ những mắc xích kể trên trong quá khứ, nhưng gần nhất dễ thấy sanh ra mắc xích nầy là Ái và Thủ. Vì đã luyến ái và bám chặt nên nhất định tác nghiệp mà thành ra Quả, tiếp tục con đường vô tận thành ra Hữu, tức là sự hiện hữu của chúng ta. Đến đây là Hữu duyên SINH, rồi Sinh duyên LẢO TỬ; vậy Sinh là chặng đường tiếp tục kết thắc ở một đời sau nữa, từ do Ái, Thủ, Hữu của hiện tại mà ra. Và cuối cùng là Lão Tử giai đoạn của Sinh phải đến của đời sau.

 

Nhìn theo nhân quả ba đời chúng ta lại thấy như sau: Vô minh, Hành là NHÂN trong quá khứ, tạo ra QUẢ hiện tại là Thức, Danh sắc, Lục nhập, Xúc, Thọ. Và Ái, Thủ, Hữu ở hiện tại là NHÂN, sinh ra Sinh, Lão Tử là QUẢ ở tương lai.

Vậy ta có thể thấy, dòng sanh tử đó đến bao giờ mới dừng nghỉ! Có lẽ thật khó mà dứt được một khi ta còn chấp nhận sự lang thang quanh quẩn nầy. Và chỉ cần mang trong tâm (thức) một ý niệm nhỏ nhít của lưu luyến trìu mến thương ái, là tự động dệt nên dòng xích sanh tử. Sự thương ái đó dù là cao thượng hay thấp hèn cũng đều là những mắc xích; giống như mắc xích bằng vàng hay bằng sắt đều là để vây trói mà thôi. Chỉ có tình thương của từ bi, trí tuệ giải thoát mới nằm ngoài sợi xích trói buộc này. Cho nên chúng ta đã dư biết việc tái sanh đi, tái sanh lại là do NGHIÊP mà ra chớ chẳng do ông thần, ông trời nào làm được chuyện này, nếu có ông thần thiệt làm như vậy, thì xin nói là ông Thần thức (danh từ này chỉ cho lúc cởi bỏ xác thân để thọ lãnh đời sau, mà thế gian quen gọi là linh hồn); và phải chăng thần thức đó là kết quả của những hành vi lúc sống đã tạo! Nghiêm chỉnh mà nói là NGHIÊP TH-C vậy. Tạm hiểu được vấn đề lớn về sinh tử từ mười hai mắc xích, chúng ta cũng được khá nhiều an ủi khi đứng trước bờ biển pháp (giáo lý giải thoát). Và nơi đây là một ít hành trang Phật pháp để tiếp tục lên đường...

__________________

*Nền tảng đạo Phật - Thích Thích Tâm Quang dịch

_________________

*Bát Chánh Đạo: Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tính tấn, chánh niệm, chánh định.

*Trích lại từ sách ‘Bàn về Giáo Lý Duyên Khởi’ của TT Thích Chơn Thiện, (tr 50) - Viện Triết học Việt Nam (Hoa kỳ) xuất bản.

*Nhị biên: cái biết, lấy sự đối đãi hai mặt có không, mà kẹt chấp vào


Mục lục | Giới thiệu | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 |
| 17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22 | 23 | 24 | 25 | 26 | 27 | 28 | 29 | 30 | 31 | 32 | 33 | 34 | 35 | 36 |

 


Cập nhật: 1-12-2000

Trở về mục "Phật giáo cho người bắt đầu"

Đầu trang