Trang tiếng Anh

      Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt

   

...... ... .  . .  .  .
Nhân Duyên Vào Đạo Phật
Thích Phổ Huân

30
Cầu cho người, mình được hạnh phúc

Chúng ta đã hiểu, đạo giải thoát là tự tại vượt lên, vượt lên để qua sông mê đến bờ giải thoát. Muốn vượt lên cao, muốn qua bờ giải thoát, pháp Phật dạy ta phải quên mình. Quên mình để nhẹ người đi mà leo lên cao, quên mình để không còn nặng nề hì hụp khi lội qua sông. Hẳn nhiên điều này là tự nhiên, vì không thể nào leo cao hay qua sông được, một khi thân thể quá nặng nề. Chúng ta làm thiện tạo công đức, mà tự cho mình có công đức thì vô tình ta đã so sánh có người không biết tạo thiện, chẳng có công đức. Vậy ra công đức tạo thiện của ta trở thành nguyên nhân khiến cho ta mất đi thanh tịnh. Vì trước đó ta chưa bao giờ nhìn người so sánh thấp cao như vậy, trong khi ý nghĩa của công đức là nhuốm lên trong người sự thanh tịnh. Người mang tâm thanh tịnh làm việc thiện có được công đức, họ không bao giờ móng tâm, nếu có móng tâm thì chỉ thấy hình ảnh đối tượng cho mình tạo công đức là một cơ hội tốt cần ghi nhận. Ghi nhận để tránh tâm phân biệt chấp nê, để vẫn biết có người tạo công đức người không tạo công đức, nhưng hai việc này là tương duyên sanh khởi trong thế giới tương đối nhân duyên. Và con người sống trong thế giới tương đối như vậy, phải có liên hệ tương quan với nhau, do đó có việc làm thiện đây, là nhờ có việc bất thiện xảy ra đâu đó!

Các vị Bồ Tát hành đạo giải thoát đều làm ngược lại chúng ta. Chúng ta sợ khổ ham vui thì Bồ Tát sợ vui thích khổ! Bồ Tát sợ vui là vì vui đó không thật vui, nó sẽ dẫn theo cái khổ ở đoạn chót, nên Bồ Tát không muốn bị nó dẫn dụ thành ra sợ nó! Bồ Tát thích khổ, vì khổ là cơ hội cho Bồ Tát quán chiếu các pháp khổ, nuôi dưỡng tâm từ bi, trí tuệ. Nhưng thật ra Bồ Tát đã lãnh hội các pháp là không thật, nên Bồ Tát tự tại trong vui cũng như khổ. Sở dĩ Bồ Tát phải sợ nhân chúng sanh sợ quả, là vì muốn chúng sanh thấy nguyên lý của nhân quả mà dứt khổ tìm vui. Điều quan trọng hơn, là Bồ Tát không thấy luôn cả mình hành đạo Bồ Tát! Đây là vấn đề then chốt mà chúng ta đã từng thất bại nên phải lẩn quẩn hoài trong nhân quả khổ vui. Các vị Bồ Tát vì không thấy mình làm đạo, vì không cho mình vui khổ nên Bồ Tát vô ngã (không thấy cái Ta), do đó Bồ Tát móng tâm trong vô ngã, hành động trong vô ngã và cuối cùng đạt được quả vị Niết Bàn. Bồ Tát đạt được quả vị vô ngã trong cảnh Niết Bàn, không phải là không còn gì hết, mất hết! Nếu nghĩ như thế, lại hóa ra cho là vô ích để hành đạo Bồ Tát đạt được cái không không! Quả thật cảnh giới giải thoát hoàn toàn là có, nhưng cảnh giới đó quá siêu việt, quá vượt khỏi trí óc phàm phu, nên mượn danh từ Niết Bàn, Chân Như, Viên Giác, Tự tại v.v...vậy thôi. Và vì chỉ mượn, chứ không giải thích được, nên tưởng là không không, rồi móng tâm vọng tưởng thì tự hại cho mình. Hãy nghĩ lại, kinh Phật đã dạy là thế giới có đến vô lượng không thể nghĩ bàn, và mỗi cảnh giới được chia ra tùy vào tâm thức trình độ của mỗi chúng sanh. Thế thì khi tâm không nặng ngã (cái ta, cái tôi) tất nhiên sanh về thế giới yên ổn không bị vọng nghiệp khổ về cái ngã. Và cứ như thế trên bình diện tâm thức vượt cao, thì cảnh giới sẽ chiêu cảm theo tâm thức đó. Nói một cách thực tế cụ thể là ngay cõi Ta Bà chúng ta đang ở cũng đã có nhiều cảnh giới rồi, tức là sự sinh hoạt sống trong tầng lớp xã hội. Thí dụ cho thấy, một số người với kiến thức văn bằng (ví như tâm thức) cao, lối sống của họ (ví cảnh giới) phải khác hơn người sống ở những vùng quê hẻo lánh thiếu thốn nhiều phương tiện; hay người cùng sống nơi thành thị, mà lối sống không được sáng sủa như người trên!

Vậy ra trên đường tu học hễ mang nặng Ngã chừng nào, tức thế giới chiêu cảm sẽ tương ứng vào tâm nhiều chừng đó, để rồi phải có tái sanh hoặc hóa sanh, hoặc thai sanh v.v...

Con đường Bồ Tát dạy ta sống phải hướng đến người, hướng đến người mặc nhiên ta tự xem nhẹ mình đi, xem nhẹ mình là làm cho cái ngã nhỏ dần xuống và cứ tiếp tục cho đến vô ngã.

Nếu không thể giúp được người vì lý do nào đó, thì cách tốt nhất là cầu nguyện cho người. Lời cầu nguyện mà chúng ta còn tiếc rẻ thì còn có gì để biếu tặng cho người! Trên đường học Phật, ta không thể không thực hành tâm nguyện Bồ Tát. Chúng ta không nhớ rằng, mỗi khi đọc kinh xong, là lời hồi hướng: Nguyện đem công đức này, hướng về khắp tất cả, đệ tử và chúng sanh, đều trọn thành Phật đạo. Lời hồi hướng đó cho tất cả chúng sanh, và đối tượng mà ta hướng đến ở đời này, ngoại trừ chư Phật ra thì ai mà không phải là chúng sanh. Nay chỉ cần nâng lời hồi hướng kia lên bình diện cao hơn, biến thành lời cầu nguyện, tức chúng ta đã hành được con đường Bồ Tát đạo.

Một khi tâm nguyện hướng về người nào đó để cầu nguyện, ta lại có được tâm nhẹ nhàng chấp nhận hay tha thứ những lỗi lầm người đó, hoặc tự thấy lỗi mình rõ hơn. Điều thực tập thiết thực đầu tiên, là cầu nguyện cho một vài đối tượng mà ta cảm thấy thường suy nghĩ về người đó nhiều nhất, qua hai thái độ thương và ghét.

Được một thời gian tạm xem không còn phân biệt thương ghét nhiều nữa, ta chuyển lời cầu nguyện đến nhiều người hơn, cứ như vậy ta chuyển hóa tâm mình vào tâm Bồ Tát. Bây giờ lời hồi hướng sau thời kinh không những có ý nghĩa lại tăng thêm phần công đức.

 

Lời hồi hướng và cầu nguyện đến mọi người có thể như sau:

Lời cầu nguyện đến người thương, là cầu mong sao họ được an lạc hạnh phúc, được nhiều phúc lạc của thế gian được mọi người thương mến. Và cầu nguyện nhất, là họ sẽ hiểu được Phật pháp, để thấy được tình thương yêu giữa mình và họ chỉ là giả tạm trong pháp sinh diệt vô thường của thế gian, hầu tránh đi sự thương yêu mù quáng trong cuộc luân hồi sinh tử. Cuối cùng cầu nguyện họ, tương lai sẽ sanh về thế giới Phật Đà.

 

Cầu nguyện đến người ghét, là cầu mong sao họ khỏe mạnh vui tươi, được nhiều phúc lạc thế gian, được mọi người thương mến. Và cầu nguyện tha thiết nhất, sẽ hiểu được Phật pháp để nhận ra thương ghét là pháp sinh diệt vô thường của thế gian, hầu tránh sự thù ghét tạo nên nghiệp báo luân hồi mãi trong sinh tử. Cuối cùng cầu nguyện họ, tương lai sanh về thế giới Phật Đà.

 

Lời cầu nguyện đến người hiền đức, là cầu mong sao các vị đó sẽ gặp đầy đủ thuận duyên đem đến cho người những ân đức những pháp lành như là pháp giải thoát của Phật, để thế giới được thấm nhuần thiện pháp.

 

Lời cầu nguyện đến người bất thiện, là cầu mong sao các vị sớm nhận ra Phật pháp là con đường chánh thiện để cảm hóa được tâm, sống lại đời sống an vui lương thiện. Cuối cùng cầu nguyện các vị, nghiệp tội tiêu trừ thiện pháp tăng trưởng, tương lai sanh về thế giới Phật Đà.

 

Lời cầu nguyện chung cho tất cả mọi người không phân biệt màu da chủng tộc, sớm được nhân duyên nhận ra đạo giải thoát để áp dụng vào đời sống hiện tại, thương yêu nhau như là huynh đệ một nhà, để rồi cùng nhau xây dựng thế giới Ta Bà này hóa thành cảnh Tịnh Độ.

 

Lời cầu nguyện đến những loài súc sinh không được may mắn làm người. Cầu nguyện cho tất cả loài súc sanh từ loài thật nhỏ đến loài thật lớn, sớm mau trả nghiệp để sanh lại hình tướng xinh đẹp trang nghiêm và sanh nơi đâu đều gặp Phật pháp, cuối cùng sẽ sanh về thế giới Phật Đà.

 

Tuần tự cầu nguyện cho tất cả như vậy, ta đã thực hành đúng tâm nguyện của Bồ Tát; dù chưa cụ thể bằng hành động nhưng trong tâm ta đã rõ ràng ươm lên hạt giống từ bi. Khi tâm từ bi luôn được ấp ủ trong tâm như vậy, thì hành động tất phải bộc phát bằng mọi cách, và có thể ta sẽ không thấy mình đã và đang làm công việc của Bồ Tát. Đây mới đúng là công đức, vì không thấy mình làm công đức! Như thế rõ ràng cầu nguyện cho người, mình được hạnh phúc.

 

 

Trạng thái an nhiên, và con đường thực hành đạt đến.

 

Chúng ta đã phần nào rõ biết tham dục, luyến ái là vấn đề đưa đến khổ, và muốn dứt khổ tức phải lìa xa sự trói buộc này. Phần Diệt Đế trong pháp Tứ Diệu Đế mang lại cho con người sự an lạc yên vui nhất mà thế gian khó được. Chúng ta từ bấy lâu sống trong động chẳng có thời gian nghĩ suy về sự yên tịnh của pháp hỷ lạc giải thoát, mà các vị tu chứng đã kinh qua. Vì chưa cảm nhận như vậy nên ta chỉ cảm nhận bằng sự hài lòng về cảm tính qua chân lý, chứ không thật thấy được sự chứng thực an lạc qua giác tính, trí lực của mình, nghĩa là chúng ta vẫn xem sự an lạc này khó thể đến với ta. Tuy nhiên thật sự pháp hỷ lạc, là một chứng minh thực tế không xa trong đời sống hiện tại, mà con người đã và đang đối diện. Chúng ta rõ ràng thấy khổ, thì chúng ta cũng thấy nguyên nhân, và cũng ngay nguyên nhân thấy được thế nào để lìa xa hay bám vào khổ đó. Trạng thái an lạc mà Phật dạy, khi một người đạt được do không còn say đắm với dục tình tham ái tạm gọi là Niết Bàn. Định nghĩa Niết Bàn chỉ là tương đối để cố gắng hiểu thế nào, là một con người đã đạt tới tâm cảnh đó, và điều này chỉ thực sự được sáng tỏ rốt ráo một khi sống trong cảnh ấy, cho nên vì chưa sống được cảnh Niết Bàn, ta không thể định nghĩa được. Nhưng ta có thể thấy sự an lạc của một người sống trong cảnh đó, và đoán được phần nào. Nếu gọi danh từ Niết Bàn là sống được an lạc tĩnh thức không còn vọng động thì ta thấy, ta có thể đạt được không mấy khó khăn, việc này là sự thật. Thí dụ, ta không lo lắng những việc chưa đến, không buồn phiền hối hận những chuyện đã qua, và vui vẻ ngay hiện tại, sống được như thế ta đã có Niết Bàn. Sống như vậy thật không phải là dễ, nhưng không phải không thực hành được, chỉ có vấn đề là giữ được tâm trạng này bao lâu!

 

Thử nghĩ về mức độ hưởng lạc trên những quan hệ khác nhau. Nhìn sự sai lệch ở thế gian này như là, người giàu kẻ nghèo người đẹp kẻ xấu người hiền kẻ dữ, sung sướng, đau khổ, thông minh, ám độn v.v...sự chênh lệch như thế cho thấy luật nhân quả nghiệp báo trong quá khứ. Chúng ta học Phật tất nhiên phải công nhận luật nhân quả là nền tảng làm gốc, và từ nhân quả này có thể suy ra một sự đấu tranh vươn lên của một chúng sanh - Người nào mang thân, sanh vào hoàn cảnh thế nào hiện tại, đã nói lên mức độ vươn lên của họ trong quá khứ. Một cá nhân hôm nay được giàu sang khoẻ mạnh, chắc chắn trong quá khứ cá nhân đó đã tạo nhân nghiệp bố thí, trì giới không sát sanh. Vì giữ giới bất sát được thọ mạng không bệnh tật, và giới bố thí thương người được sung sướng giàu sang. Đó là cảnh lạc thú hiện tại của một người nhờ gieo tạo trong đời trước. Và cũng là cảnh sống sung sướng đối lại cảnh khổ của người nghèo.

Lại biết được những cảnh giới cao hơn, mà kể cả người giàu sang cũng phải ước mơ! Vì người dù xinh đẹp giàu sang vẫn có những mức khổ của họ. Căn bản thì thấy giàu đẹp vật chất thế nào cũng không tránh được cái lo tinh thần. Đức Phật đã dạy, không hạnh phúc nào bằng hạnh phúc của sự an lạc tinh thần. Vậy an lạc đó tạm gọi là Niết Bàn! Thế là lạc thọ của người giàu sang khỏe mạnh vẫn chưa đủ để mong muốn. Thọ lạc cao hơn nữa là cảnh trời, nơi đây lạc thú thật sung sướng, gấp trăm ngàn lần ở cõi Ta Bà. Chúng sanh ở đó hình tướng đã đẹp lại còn ăn uống thanh vị, thơm mát không như chúng ta bằng cách ăn Đoạn thực* thô kệch, lại tiêu hóa bất tịnh hơn!

Đến những cảnh trời càng lúc càng vi tế, các vị ở đây đi lại tự tại hưởng vui thọ lạc thù thắng. Thọ dụng ăn uống bây giờ chỉ là Tư thực và Thức thực, họ ăn bằng ý thức và trí thức biến hiện, không phải lệ thuộc vào cảm xúc thô kệch với vật và thân như ta. Tuy vậy những cảnh giới cao như thế vẫn là những vị ngọt gọi là sắc, thanh, hương, vị, xúc, khiến cho năm giác quan sắc, thọ, tưởng, hành, thức tiếp nhận. Dù bậc thiền giả thọ thực bằng Thức thực vi tế qua những cảnh giới Thiền lạc, nhưng rồi Đức Phật nhấn mạnh trong Đại Kinh Khổ Uẩn rằng, ‘...ngay cả lạc thọ vô hại ấy cũng còn có nguy hiểm, huống hồ các lạc thọ khác. Vị ngọt là hỉ lạc do ly dục ở sơ thiền, hỉ lạc do định ở nhị Thiền, lạc ở tam thiền, xả niệm thanh tịnh ở tứ thiền. Đấy là vị ngọt tối thượng của cảm thọ, vì nó vô hại. Nguy hiểm của cảm thọ này là nó cũng vô thường, biến hoại, nên là khổ. Sự xuất ly các cảm thọ là điều phục dục tham đối vơi các cảm thọ, đoạn trừ dục tham. Người nào như thật tuệ tri được vị ngọt, nguy hiểm và xuất ly của các dục, sắc, và thọ, thì mới có khả năng giúp người khác như thật tuệ tri các pháp ấy. *

Chính ngay đây, như lời Phật dạy, người nào điều phục dục tham đối với cảm thọ, đoạn trừ dục tham, sáng suốt rõ biết vị ngọt nguy hiểm, xuất ly được các dục sắc, lạc thọ, đây mới đúng là an tịnh rốt ráo, nếu tạm gọi thì đây mới đúng là Niết Bàn. Được như vậy mới an lạc ngay cả hai hoàn cảnh sướng vui, buồn khổ.

Ngày còn Phật tại thế, các ngoại đạo đã thắc mắc rất nhiều về sự tự tại an lạc của các vị Tỳ kheo đệ tử của Phật; họ thấy rằng các vị này sinh hoạt sống thật bình thường - chẳng mong cầu chất chứa gì cả, cũng chẳng tự cho mình là giai cấp đạo sĩ có thể dạy đạo đến các bậc quan quyền, và quan trọng hơn chẳng để ý gì đến hình thức lễ cúng hưởng lộc. Trong khi các đạo khác thời bấy giờ, đều hướng ra ngoài đặt nặng bằng hình thức.

Do thế mà quả vị Dự Lưu (Tu Đà Hoàn) vừa bước vào dòng Thánh, hành giả đã bỏ ngay hình thức, cả đến không còn phân biệt chấp người và ta.

Chúng ta có thể hiểu Không tham không sân không si, là luôn sống trong tỉnh thức của người giác ngộ, xem các pháp là vô ngã, tâm là vô thường. Sống cảm nhận được lúc này là mở thấy được phần nào cảnh giới an định tạm gọi là hé mở khung cửa hướng tới Niết Bàn.

Thực tế cuộc sống có thể tìm được sự an lạc này, vì trong một khắc thời gian nào đó, có lẽ mọi người chúng ta đã cảm được sự bình an của tâm khi rơi vào sự không tham cầu, không thương ghét. Chính thời gian đây, là lúc ta thấy được thực tại của tâm lắng đọng trong trạng thái tỉnh thức và an lạc nhất. Nhưng rất tiếc trạng thái đó không thể kéo dài lâu được. Tuy nhiên rơi vào trạng thái đó, phải bằng sự hướng về lòng từ bi trí tuệ của pháp Phật mới gọi là hé mở Niết Bàn, chứ không phải bất chợt mệt mỏi vì cuộc đời bon chen mà buồn chán, không muốn tranh đấu gì nữa, đây không phải nghĩa đúng với trạng thái đó. Thế thì ngay tại đây, chúng ta vẫn có thể tìm được cảnh sống an lạc tỉnh thức khi nhận ra việc thoát ly tham ái, si mê. Và như thế phải tự thân thực hành mới cảm nhận, chứ không thể nghe người quảng cáo bày vẽ mà cảm nhận được.

Câu chuyện của những con ếch. Một hôm ếch mẹ trên bờ trở về, các con nòng nọc quay quanh, hỏi mẹ đi đâu về. Mẹ ếch trả lời, từ trên bờ đồng cỏ gần đó, các con nghe không hiểu bờ là gì, cỏ là chi! Ếch mẹ nói, trên đó sinh vật sống không ở trong nước, họ thở bằng không khí đi lại tự tại và cảnh vật sáng tỏ, cỏ cây bông hoa rất là tươi đẹp. Mẹ càng nói các con càng hỏi, cuối cùng chúng nó chẳng thể nào tin, vì chưa bao giờ nghe qua nói chi là thấy. Không thể giải thích thêm, Ếch mẹ nói: thôi đợi khi nào các con lớn lên, (thành ếch) nhảy được lên bờ sẽ tin lời ta.

Hiện chúng ta đã nghe nhiều về cảnh Niết Bàn, và khá hơn các con nòng nọc là chúng ta vẫn tin, dù tin mà khó thực hiện!

Không thực hiện được, hay khó thực hiện là do chấp chặt vào định kiến cố hữu của mình, hoặc là sống buông thả, hoặc nhìn đời bằng tang thương khổ lụy, mong diệt khổ cảnh bằng cách quay về sống khổ chính mình, như là hành xác để mong cầu sung sướng mai sau. Hai nhân nghiệp này theo luật nhân quả, tương lai sẽ trở lại thọ nhận lực nghiệp quá khứ mà thôi. Nghiệp tự tạo khổ sẽ hưởng quả khổ, dù mình làm khổ chính mình, vì thế theo đạo giải thoát, quyên sinh, tự tử, tự mình còn mang thêm nghiệp tội sát sanh. Nghiệp hưởng lạc buông thả, khi trở lại nếu chẳng còn phước báo sẽ phải đau khổ thiếu thốn. Và đau khổ thiếu thốn chưa đủ, lại còn đau khổ khác do buông thả gây nên. Phật dạy con đường thực hành đạt đến an lạc, là con đường quán chiếu hai tác nghiệp trên, để lìa bỏ như là trạng thái trung dung an lạc của sự không đam mê vào vị ngọt thường tình ở thế gian, cho đến vị ngọt tối thượng vô hại của sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền. Vì tất cả đó cũng đều vô thường biến hoại, chỉ cầu được Niết Bàn lạc là vị ngọt giải thoát. Và con đường đạt đến căn bản bước đầu, Phật dạy hành theo Bát Chánh Đạo như đã đề cập ở phần ‘Nguyện ghi nhớ bốn điều diệu đế’.

______________________________

*Tứ thực: bốn cách thọ dụng ăn uống, như là Đoạn thực, Xúc thực, Tư thực, Thức thực. Tùy theo cảnh giới của tâm thức mà cách thọ thực khác nhau; và Đoạn thực là lối ăn uống thô kệch, không như lối ăn thanh nhẹ bằng ý thức ở những từng trời Sắc giới, Vô Sắc giới. (Xem phần Tứ Thực trong Phật Học Từ Điển ĐTC)

____________

*Trung Bộ Kinh tập 1, bản dịch Hòa Thượng Minh Châu tóm tắt & chú giải, Thích Nữ Trí Hải)


Mục lục | Giới thiệu | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 |
| 17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22 | 23 | 24 | 25 | 26 | 27 | 28 | 29 | 30 | 31 | 32 | 33 | 34 | 35 | 36 |

 


Cập nhật: 1-12-2000

Trở về mục "Phật giáo cho người bắt đầu"

Đầu trang