Trang tiếng Anh

      Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt

   

...... ... .  . .  .  .
Nhân Duyên Vào Đạo Phật
Thích Phổ Huân

3
Tu theo Phật pháp

Khi nói tu theo Phật, có nghĩa còn có nhiều đường hướng khác để tu. Nhưng đã là tu thì đường hướng nào cũng là tu thiện tu lành, hay ít ra tu sao cho hơn cái hiện tại mình đang là đang có... Ở đây chúng ta là người chọn con đường tu Phật, tất nhiên chúng ta nên suy niệm một vài điều cho vấn đề tu học của mình. Chúng ta không nên tự khiêm (hạ mình) cho rằng việc tu Phật chỉ dành cho các vị tu sĩ, còn mình hạng cư sĩ ràng buộc với thế gian làm sao vói tay tới!

Trong pháp giải thoát có nhiều quả chứng tùy do trình độ tu tập của mọi người. Chẳng hạn tứ Thánh quả: Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán*. Bốn quả vị này chưa phải là giải thoát rốt ráo, nhưng là bốn bước thành tựu đi đến quả Phật. Trong bốn quả này trừ quả A La Hán bậc vô học, ba quả kia còn là hữu hậu tức còn đang tinh tấn phấn đấu đi lên. Và đặc biệt ba bậc này, người Phật tử tại gia có thể đạt được mà không cần phải xuất gia. Việc này thời Phật còn tại thế xảy ra không khó, nhưng thời nay cách Phật hơn hai ngàn năm trăm năm hẳn là rất hiếm; nhưng không phải vì hiếm mà không có, chỉ vì ta không nhận ra các vị đó. Các vị có thể mang nhiều hình tướng lăn xả vào đời, với đủ địa vị, có khi là người chủ của ta, có khi làm người giúp việc và có khi là người mà thế gian không bao giờ ngờ được. Nhưng một điều, các vị thường luôn có một hành vi vị tha, một tinh thần nhân ái, và tư chất cao thượng sáng ngời dù ở bất cứ địa vị, tình huống nào. Các vị có thể mang giáo pháp giải thoát vượt qua mọi hình thức thế gian.

Về giới tu sĩ chứng quả (chứng luôn quả thứ tư) thì chắc chắn phải có, nhưng cũng lại khó tìm khó thấy, khó tìm khó thấy vì các vị không bao giờ nói ra là mình thế này thế kia. Kinh Phật có dạy, Bồ Tát thật sự chỉ khi nào giờ phút ra đi của các Ngài, hay khi các Ngài vắng bóng thì người ta mới nhận ra các Ngài là Bồ Tát.

Trường hợp đức Đạt Lai Lạt Ma vị lãnh đạo tinh thần Tây Tạng, được mọi người công nhận là hình ảnh một sứ giả hòa bình thánh thiện. Người dân Tây Tạng cho Ngài là hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm v.v...Điều mà mọi người ca ngợi tư chất thánh thiện của Ngài, đó là việc không thể phủ nhận; nhưng việc Ngài là vị tu sĩ chứng quả thế nào thì chúng ta không thể biết, vì chúng ta chưa phải là Thánh nên không có thiên nhãn để nhận ra. Chúng ta chỉ nhờ căn cứ qua lời Phật và chư Thánh Tổ giảng dạy để phần nào suy đoán mà thôi.

Theo kinh dạy thì bốn Thánh quả vậy, chỉ là hàng Thanh Văn, Duyên Giác Tiểu thừa chưa phải là Đại Thừa Bồ Tát, nên dù là quả vô học như A La Hán cũng cần tiếp tục tu nữa để được giải thoát. Nhưng trong kinh Pháp Hoa Phật lưu ý ở Phẩm Phương Tiện thì chẳng có Thanh Văn, Duyên Giác cả đến Bồ Tát, mà chỉ có Phật thừa. Phật dạy từng bước chứng quả, chỉ là phương tiện đi tới cứu cánh là nhất thừa Phật quả. Điều này đã đánh thức các vị mới đắc quả Thánh, để không khởi lòng chấp ngã chấp pháp. Từ đây các vị Thánh mới dễ dàng bước lên quả vị Chánh Đẳng Chánh Giác; do đó chúng ta không lạ gì khi biết các vị Thánh còn gia công tu trì hơn cả người mới phát tâm cầu đạo. Và khi hiểu như thế, ta lại càng không dám phân biệt, pháp này là Tiểu thừa, pháp kia là Đại thừa, bởi vì tất cả chỉ là giai đoạn tiến đến quả giải thoát; hơn nữa một người không có tâm từ bi trí tuệ, không hướng đến giải thoát, không cầu đạo Vô Thượng để thành Phật thì không thể đạt được quả Thánh dù là đắc quả Dự Lưu (Tu Đà Hoàn). Cho nên chớ đem tâm trí phàm nhân mà bình phẩm địa vị tu chứng của người khác, để không khéo kẹt vào quả báo khẩu nghiệp. Và nếu có thể bằng cái nhìn sâu rộng bình đẳng, chúng ta cũng dè dặt kính trọng cả người cư sĩ nào thật tu thật học như các vị tu sĩ vậy. Vì biết rằng vị cư sĩ ấy đang đi trên con đường thành Phật, nên sự kính phục của ta chắc chắn mang lại công đức cho ta. Điều này Tôn Giả Sàntideva đại sư Ấn Độ đã dạy: ‘‘Đối với các bậc hiền giả khéo dùng phương tiện hướng dẫn làm lợi ích cho chúng sanh, Bồ Tát luôn đảnh lễ kính trọng. Đối với mọi người Bồ Tát luôn nhún nhường như một người đệ tử vậy.’’*

Suy niệm như thế, ta thấy quả tu giải thoát có thể đến với bất cứ ai; và việc chuẩn bị bước đường tu học của mình cũng đã bắt đầu tiến tới.

Bây giờ chúng ta đã rõ, mục đích của việc tu theo Phật là muốn giải thoát, là muốn thành Phật; và tùy theo căn cơ trình độ hoàn cảnh của mỗi người mà việc tu có dễ có khó, nhưng chung quy cũng phải tu cho được thành Phật. Bởi không ai tu Phật lại muốn làm trời hay tu Phật để được thỏa mãn hỷ hê phước báo thế gian. Nếu vậy uổng cho ta đã gặp một khu mỏ kim cương mà đi lựa toàn sỏi đá.

Vậy ta phải bắt đầu tu từ đây, phải bắt đầu bỏ hết đi những đá sỏi, mà chỉ lấy cho được những hạt ngọc kim cương.

*

Từ lúc làm quen qua những nhân duyên vào đạo, chúng ta đã bước được vào điện Phật, đã thưa chào các vị đồng tu bằng cử chỉ chúc lành giải thoát (A Di Đà Phật), đã lạy Phật dâng hương, đã phát tâm hướng thiện tìm về lối sống tỉnh thức, đã nhìn người với cái nhìn bình đẳng v.v...Tuần tự tạo duyên như vậy, đã đưa ta đến phần nào con đường tu niệm, và con đường tu niệm bây giờ là phải làm sao thấy được con đường giải thoát. Nghĩa là phải thấy chính ta thế nào, để vững bước trên đoạn đường đi. Ta phải thấy được phiền não trong ta nhiều ít! Phải thấy mức độ tham, sân bộc phát yếu mạnh ra sao, và trong một ngày ta được bao lâu sự yên tịnh.

Thật sự mà nói, bao nhiêu tiếng đồng hồ trong ngày, ta đều để vọng tâm làm chủ, ít khi nào sống được cho ta. Sống cho ta, không có nghĩa từ bỏ hết công việc, từ bỏ giao thiệp với mọi người...mà có nghĩa sống trong ý thức việc làm của ta. Khi sống ý thức thì tâm ta tỉnh táo, khi

tâm tỉnh táo sáng suốt, vọng tâm không có mặt, như vậy thật sự ta đã bắt đầu bước vào giai đoạn tu Phật. Nhưng ý thức bằng cách nào? Ý thức bằng cách sống theo đúng những gì mình tu Phật.

Người mới bước đầu vào đạo giải thoát được quy y Tam Bảo (Phật Pháp Tăng), rồi phát nguyện thọ trì ngũ giới* chính thức làm con Phật (Phật tử). Con Phật thì có nhiều hạng tu, hạng giữ giới nhiều ít tùy vào căn cơ mỗi người, như cư sĩ ngoài đời có thể thọ ngũ giới, thập thiện hay Bồ Tát giới*. Hàng tu sĩ thì bước đầu là mười giới, sau hai trăm năm năm mươi giới (250) dành cho nam tu sĩ, và ba trăm bốn mươi tám (348) giới cho nữ tu sĩ*.

---------Đó là những phương tiện, như con thuyền lớn nhỏ đưa người qua sông mê lên bờ giải thoát. Và nếu người tài

giỏi biết lèo lái con thuyền, thì dù là thuyền nhỏ cũng lướt khỏi sóng to đến bờ giải thoát, ngược lại vô tài bất lực (không giữ giới tu), thuyền có to lớn cũng vẫn mất hướng, trôi dạt vô phương làm mồi cho sóng dữ (địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh).

٠thức việc làm của mình là giữ giới tu học, giữ giới tức là giữ con người mình, vì tu thiện làm ác cũng từ ngay con người mà ra.

Trong con người chứa đựng ba nghiệp, ba nghiệp này quyết định cho hành trình vào đạo, nhập đạo và chứng đạo. Đó là Thân, Khẩu, Ý. Tu thân, khẩu, ý là thân không làm ác như sát sanh, trộm cắp tà dâm; nếu là tu sĩ thì không dâm dục - Khẩu phải nói lời chân thật hiền hòa (chánh ngữ), và Ý là phần quan trọng hơn, có thể kiềm thúc được thân, khẩu do vậy tu sao cho Ý được thanh tịnh không tham không sân không si. Vậy khi ba nghiệp được thanh tịnh, mặc nhiên chúng ta giữ giới được thanh tịnh. Việc giữ thanh tịnh ba nghiệp, lại không có nghĩa cản trở sinh hoạt đời sống của ta, và như không hiểu ta sẽ tích cực quá việc giữ giới, mà chẳng làm được chuyện gì công đức. Ta nên tích cực làm thiện hơn để chu toàn công đức giữ giới; chẳng hạn phải bố thí, phóng sanh, thương người, thương vật để công đức trì giới, được tăng trưởng. Người sơ cơ học đạo giải thoát ở bước đầu, phải tu bồi công đức phước báo, nhất là người cư sĩ, bởi vì sự tạo thiện nghiệp, ác nghiệp dễ phát sinh song song với nhau. Người cư sĩ tại gia phải đương đầu vào cuộc sống, phải va chạm luôn với đời, nên ba nghiệp khó lắng động, vì khó lắng động nên khó thanh tịnh. Do đó đôi khi cùng một lúc tạo thiện tạo ác mà không hay biết. Chúng ta có thể lấy thí dụ, một người vừa sung công tiền của cho một cơ quan từ thiện, hành động đang được tán dương, nhưng bỗng nghe người khác chê trách là vẫn còn thua kém người kia, số tiền hiến tặng đó đâu có gì là chánh đáng v.v...Từ lời gièm pha như thế, người không hiểu đạo giải thoát sẽ có tâm phản lại, thế là tiêu mất công đức và trong lúc giận tức vô tình sanh ra ác nghiệp. Do đây lại thấy, từ một người thật tâm tạo nghiệp tốt trở thành phản lại nghiệp tốt của mình. Tuy nhiên dù trường hợp tạo nghiệp ở đời phức tạp vậy, hàng con Phật tại gia vẫn nên luôn luôn tìm cơ hội để tạo thiện nghiệp phước báo; bởi khi làm một hành động thiện là bồi dưỡng ý nghiệp được trong sáng. Ý nghiệp trong sáng là nhân lành đưa đến ý thanh tịnh. Trong ý thanh tịnh như vậy mới điều khiển được hai nghiệp thân và khẩu, và thế việc giữ giới có thể lần lần dễ dàng hơn. Điều này nói chung cả hai giới xuất gia và tại gia.

Người tu sĩ xuất gia cũng chẳng khác là bao, quý Ngài giữ giới cũng bằng cách gia công tinh tấn tu dưỡng huệ đức, thanh tịnh ba nghiệp qua công phu thiền niệm, quán tưởng, đọc tụng thường xuyên kinh điển. Và khi quý Ngài công phu đã thuần thục thì giới tướng, giới thể* của

các Ngài sáng ra, mà người đối diện có thể cảm nhận được. Lúc đó với các Ngài, không còn thấy gò bó gì ở giới nữa. Cho nên chúng ta thường nghe qua chuyện tích chứng đạo của các Ngài có vẽ lạ thường lắm. Như thế cách sống của người tu Phật phải lấy giới làm nền tảng. Lấy giới làm thân mạng sống còn, hễ sợ thân bệnh mạng vong, thì cũng nên sợ phá giới như phá thân mạng vậy. Và gìn giữ thân mạng ra sao, lại y như gìn giữ giới hạnh như thế.

Tìm hiểu lại cuộc đời đức Phật, Dù Ngài trên lý tánh đã là đấng tối thượng, nhưng dưới nhiều cặp mắt phàm nhân, một số người vẫn nhìn Ngài như một con người bình thường giản dị, tuy nhiên hình tướng giản dị bình thường của Ngài đã thể hiện một sự uy nghi điềm tĩnh, cụ thể qua sự sinh hoạt, đi đứng nằm ngồi an nhiên tự tại vượt lên sự siêu hình huyền ảo. Và chính từ đây phàm nhân quy ngưỡng Ngài, ngay ở cách sống ý thức chánh niệm đó, hơn là thấy Ngài hiện tướng thần thông của vị đại Thánh. Hình tướng trang nghiêm đó là do Ngài nhiếp thủ trong sự trì giới. Ngài hay thường kể lại tiền thân của Ngài, do luôn luôn giữ giới và tu giới, cho nên bao phước báo công đức trong vô số kiếp đã thành tựu và hiện ra tươi đẹp như ngày nay. Do vậy, giờ phút cuối cùng tại Sa La Song Thọ đức Phật đã từ bi cân nhắc: ‘‘Này, các người hãy tự thắp đuốc lên mà đi! Các người hãy lấy pháp của ta làm đuốc! Hãy theo pháp của ta mà tự giải thoát. Đừng tìm sự giải thoát ở một kẻ nào khác, đừng tìm sự giải thoát ở một nơi nào khác ngoài các người ...’’

‘‘Này, các người đừng nghe dục vọng mà quên lời ta dặn. Mọi vật ở đời không có gì là quý giá. Thân thể rồi sẽ tan rã. Chỉ có đạo ta là quý báu. Chỉ có chân lý đạo ta là bất di bất dịch. Hãy tinh tấn lên để giải thoát, hởi các người thân yêu của ta.’’ *

Chúng ta thừa biết, theo Phật pháp thì thế gian ta đang ở là cõi dục, nghĩa là tham muốn và từ chỗ tham muốn không ngừng nên thành cõi khổ, vì đơn giản là sự tham muốn không thể toại nguyện hết được. Do vậy dù sống không gian thời gian nào ở cõi Ta Bà này, không thể tránh được khổ. Cũng may cho ta là thế gian vô thường các pháp vô ngã, nên theo đó mà ta chẳng sống hoài chịu khổ; và trong cuộc đời con người không phải toàn khổ mà vừa khổ vừa vui. Chính chỗ khổ vui đối đãi này, suy ra cõi người phúc lạc hơn cõi trời; bởi do có khổ mà đưa ta đến chỗ thấy đạo dễ hơn.

Giáo lý giải thoát dạy ta làm sao cho mình được thanh tịnh thân tâm, và phương pháp làm được như thế là giữ giới và tu thiền. Tu thiền có nghĩa giữ sao cho tâm được an tịnh, sáng suốt, để ý thức được sự sự vật vật như sự thật của nó, chớ không phải khẳng định chấp chặt buộc phải ngồi xuống bán già, kiết già mới là Thiền định, mà không hiểu rằng tư thế Thiền tọa chỉ là phương tiện để là kết quả đứng dậy đi vào đời sống.

Về phần giữ giới sẽ sanh ra thanh tịnh thân tâm do vậy mặc nhiên cũng đã tu thiền.

Bây giờ ta đã hiểu trọng tâm của việc tu thành Phật, và vậy có thể từ đây an tâm cho cuộc khởi hành qua sông giải thoát.

____________

*Tu Đà Hoàn: sanh trở lại bảy lần, rồi đắc quả A La Hán

Tư Đà Hàm: chỉ một lần sanh lại, rồi đắc quả A La Hán

A Na Hàm: không còn sanh lại, sẽ đắc quả A La Hán ở cảnh trời Sắc giới.

A La Hán: gọi là quả vô sanh, tức không còn luân hồi. (Nhưng lại phải tiếp tục tu để thành Phật)

_________________

*Bồ Tát Hạnh, của Tôn Giả Sàntideva, Thích Trí Siêu dịch.

___________________

*Ngũ giới: Không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu.

*Giới Thập thiện:- Giữ thân không: sát sanh, trộm cắp, tà dâm. Giữ khẩu không: nói dối, nói hai chiều, nói thêu dệt, nói độc ác. Giữ hông: Tham, sân, si.

*Bồ Tát giới: giới tu tiến cao hơn cho hàng cư sĩ nam, nữ theo tinh thần đại thừa Phật giáo. Xin xem Kinh Phạm Võng Bồ Tát giới.

*Giới Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni: còn gọi là giới cụ túc, nghĩa là đầy đủ giới, khiến cho vị tu sĩ nương đó mà đạt đến giải thoát.

_____________

*Giới tướng: hiện ra bên ngoài tướng trạng, có thể thấy được, như là sạch dơ thấy được (Người tu Phật quan trọng trước tiên phải giữ được giới tướng). - Giới thể: bản thể bên trong không thấy được, chỉ người trì giới tự ý thức được mà thôi. (Hàng chứng đạo có thể thấy được người trì giới thể ).

________________

*Phật Học Phổ Thông, của HT Thích Thiện Hoa, Khóa thứ nhất: Thuyết minh về nhân thừa Phật giáo


Mục lục | Giới thiệu | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 |
| 17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22 | 23 | 24 | 25 | 26 | 27 | 28 | 29 | 30 | 31 | 32 | 33 | 34 | 35 | 36 |

 


Cập nhật: 1-12-2000

Trở về mục "Phật giáo cho người bắt đầu"

Đầu trang